2024
XIN CHÚA CHỮA CHO TA
9.2Thứ Sáu trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 11:29-32; Tv 81:10-11,12-13,14-15; Mc 7:31-37
XIN CHÚA CHỮA CHO TA
Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Chúa Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
Cuộc chữa bệnh có những cách thực hành quen thuộc trong các truyện phép lạ thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này có ý là giữ bí mật cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm đến. Vị thầy ấn ngón tay trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái lưỡi ngọng. Ngước mắt lên trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài hay rên cũng nhắm như vậy. Tiếng epphatha trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú không ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này đã được dịch ra rõ ràng (tương tự 5,41). Đức Giêsu cho người ta biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời Người nói với anh bệnh cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe được, chứ không phải là nói với các cơ quan bị bệnh. Tức khắc, anh này được lành; sự kiện anh được lành được nêu ra như một điệp khúc đáp lại lời vừa được truyền ra. Rất có thể chi tiết “lưỡi bị buộc” có ý nói đến tên quỷ của bệnh, mà nay anh này đã được giải thoát khỏi.
Đức Giêsu truyền cả anh bệnh đã lành cũng như những người có mặt phải giữ im lặng. Nhưng những người đã đón nhận được mạc khải trong phép lạ này không thể giữ kín được. Tác giả Mc muốn nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao để người ta khỏi hiểu sai thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận ra và giới thiệu Người là Đấng Cứu Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta lời giải nghĩa thần học của phép lạ. Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc tạo thành đã hư hỏng nay được tái thiết (x. St 1,31).
Tin mừng kể lại như sau: “Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.33 Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Épphatha”, nghĩa là: hãy mở ra!35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”.
Quả thật, niềm vui được chữa lành bệnh không chỉ nơi người bị bệnh mà niềm vui đó còn được lan tỏa nơi những người xung quanh. Để cảm nghiệm được niềm vui đó, chúng ta phải đặt mình vào vị trí vừa là người bị bệnh vừa là người trung gian cầu xin Chúa chữa bệnh.
Ở đâu có sự hiện diện của Chúa là ở đó có niềm vui. Niềm vui không chỉ được Chúa chữa lành bệnh tật mà niềm vui đó còn đem lại cho chúng ta sự sống cửu. Vì thế, mỗi ngày sống chúng ta đừng chạy đến với Chúa để xin Chúa điều này điều kia, mà trước hết, chúng ta hãy chạy đến với Chúa với tâm tình là một người con để dâng lên Chúa những tâm tình như người con đối với cha mẹ của mình. Để từ đó, chúng ta mới có một kinh nghiệm sống là sống cho Chúa như lời thánh Phaolô đã dạy: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa”.
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bày hay diễn đạt một lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm, không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: “Epphata”: Hãy mở ra.
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh ta mong đợi.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Epphata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa, để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Qua trang Tin mừng này, có lẽ tạo cho mỗi người cảm nhận được niềm vui từ người bệnh cũng như những người cộng tác đem người bệnh đến để xin Chúa Giêsu chữa trị.
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm cho chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
2024
XIN VỚI LÒNG KHIÊM TỐN
8.2Thứ Năm trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 11:4-13; Tv 106:3-4,35-3,37,40; Mc 7:24-30
XIN VỚI LÒNG KHIÊM TỐN
Tin mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa trừ quỷ cho người đàn bà xứ Phênixi. Qua phép lạ này chúng ta thấy người đàn bà ngoại giáo này được Chúa chữa bệnh cho con bà nhờ bà có những đặc tính này:
Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người Do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bằng những lời rất nặng: “Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.
Nhưng lòng tin kiên trì cùng với lòng khiêm nhường của bà đã biến bà thành “con cái trong nhà”, nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lời bà xin.
Người đàn bà dân ngoại trong câu chuyện hôm nay có nhiều đức tính đáng chúng ta chú ý và bắt chước:
Chúng ta thấy bà là người rất khiêm tốn, dám chịu nhận mình là “chó con”: “Thưa Ngài đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn rơi xuống”.
Bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước từ ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề, nhưng bà vẫn không nản lòng. Lòng tin của bà không hề lay chuyển.
Bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin lời Chúa nên bà ra về trong tin tưởng.
Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do thái giáo), lời trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng, đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời” (Mt 8,8). Nghe vậy, Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel” (Mt 8,10).
Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do Thái giáo), câu trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh, vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do Thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
Đọc Tin mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết” (Mc 7,24).
Chúa Giêsu hiền lành, luôn chạnh lòng trước nỗi khổ của người dân (x. Mc 6,30-34) và sẵn sàng đáp trả… Thế nhưng Ngài có vẻ dửng dưng, thoái thác trước nỗi khổ tâm của người đàn bà đau khổ này. Thái độ của Chúa Giêsu đáp lại làm cho chúng ta bị “sốc”: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó” (Mc 7,27). Nhưng bà càng tỏ ra cương quyết và đặt trọn niềm phó thác vào tình thương cùng với quyền năng của Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái” (Mc 7,28).
Với cách đối xử có vẻ phân biệt chủng tộc, giai cấp… và dường như dửng dưng khinh miệt, nhưng trước niềm tin mạnh của bà, Ngài vẫn ban cho bà điều mà bà kêu xin. Ngài muốn dạy cho bà và qua đó cũng dạy cho chúng ta sự kiên nhẫn và khiêm nhường trong một đức tin vững mạnh trải qua gian nan thử thách.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin kiên trung, đức cậy trông vững vàng, để không khó khăn thử thách nào có thể tách chúng ta ra khỏi đức tin vào Ngài.
Chúng ta cũng thế, trong cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, nên rất cần sự kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn, đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm; càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa.
Trong cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, nên rất cần sự kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn, đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm; càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa.
2024
Ý HƯỚNG TỐT LÀNH
7.2Thứ Tư trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 10:1-10; Tv 37:5-6,30-31,39-40; Mc 7:14-23
Ý HƯỚNG TỐT LÀNH
Nói đến sự thanh sạch hay cái ô uế của con người không phải là về mặt vệ sinh, nhưng là nói về phương tiện luân lý. Có thứ luân lý theo hoàn cảnh, có thứ theo phong tục do con người đặt ra. Vì thế mà Chúa Giêsu tuyên bố sự thật là: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế”.
Sau khi nói về tính cách vụ hình thức, bây giờ Chúa nói về sự thanh sạch và ô uế. Chúa Giêsu dạy cho dân chúng biết không có gì bên ngoài nhập vào mà làm cho người ta nhơ bẩn, nhưng chính cái bên trong con người mới làm cho họ ra nhơ bẩn. Các môn đệ không hiểu lời Chúa nói, nên khi về đến nhà, các ông xin Chúa giải thích điều đó. Người bảo: mọi vật bên ngoài nhập vào con người không thể làm cho họ nhơ bẩn, vì nó không vào trong lòng họ được chỉ vào trong bụng rồi tống ra ngoài. Chính lòng con người mới làm cho họ nhơ bẩn, vì từ đáy lòng họ phát xuất ra những ý tưởng xấu xa, như trộm cướp, gian dâm, độc ác…
Các luật sĩ và biệt phái nhấn mạnh đến sự thanh tẩy phần xác hơn là thanh sạch phần hồn; họ đặt nghi thức bên ngoài lên trên nhiệm vụ bác ái và công bằng xã hội.
Họ tỉ mỉ giữ luật rửa tay, lau chén trước khi ăn, vì cho rằng tay bẩn, chén bẩn làm cho người ta ra ô uế, trong khi lại coi nhẹ chính cõi lòng, nơi chất chứa bao tâm tình ghen tuông, thù ghét đối với tha nhân và đủ thứ toan tính phạm tội.
Chúa Giêsu đặt sự thanh sạch tâm hồn lên trên sự thanh sạch thân xác. Vì chính từ cõi lòng, con người xây dựng cuộc sống luân lý mình. Tâm hồn trong sạch hay không, không phải vì do những hoàn cảnh phụ thuộc bên ngoài, nhưng do những quyết định trong thâm tâm mình.
Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ về dụ ngôn những cái thanh sạch và những cái ô uế: không phải từ cái bên ngoài vào trong con người, nhưng cái từ trong con người mà ra, mới làm cho con người ra ô uế. Chúa dựa vào hình ảnh của việc ăn uống và tiêu hoá để diễn tả: mọi sự Chúa tạo dựng cho con người đều tốt đẹp, nhưng do những tư tưởng, ý định và tâm tình bất chính của con người, làm biến đổi thành những cái xấu.
Chúa Giê-su cho các Tông Đồ hiểu rằng khuôn khổ hẹp hòi của tôn giáo cũ không còn thích hợp với những đòi hỏi của một tôn giáo mới mà Người sẽ thiết lập. Bởi vì các ông sẽ được sai đi đến với mọi dân tộc, thuộc mọi nền văn hóa, rất khác biệt với môi trường Do Thái. Khi đó các ông phải chú ý đến điều chính yếu, đừng lúng túng vì những cổ lệ là những cái làm cho người ngoại giáo thành tâm thiện chí, là những người không có tục lệ ăn uống giống như người Do Thái, không thể nào gia nhập Giáo Hội Chúa được.
Luật sạch và ô uế của các kinh sư và biệt phái làm cho người ta bị rơi vào đời sống giả hình, vụ hình thức bên ngoài. Bởi vì điều Thiên Chúa đòi hỏi không phải là sự trong sạch có tính cách nghi thức bên ngoài, nhưng là sự trong sạch của tâm hồn, sự trong sạch của con tim.
Qua bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cho các Tông đồ hiểu rằng: khuôn khổ hẹp hòi của tôn giáo cũ không còn thích hợp với những đòi hỏi của một tôn giáo mới mà Người sẽ thiết lập. Bởi vì các ông sẽ được sai đi đến với mọi dân tộc, thuộc mọi nền văn hoá, rất khác biệt với môi trường Do thái. Khi đó các ông phải chú ý đến điều chính yếu, đừng lúng túng vì những cổ lệ là những cái làm cho người ngoại giáo thành tâm thiện chí, là những người không có tục lệ ăn uống giống như người Do thái, không thể nào gia nhập Giáo hội Chúa được.
Chúa Giêsu đã nói: không phải cái từ bên ngoài có thể làm cho người ta ra ô uế, mà chính là những cái phát xuất từ bên trong, từ lòng của con người như tham lam, tà dân, giết người, trộm cắp, độc ác, xảo trá, ganh tị… Chính những cái đó mới làm cho người ta ra xấu xa ô uế.
Lời Chúa hôm nay cho biết đó là Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ này rất tốt đẹp, và Thiên Chúa ưu ái dựng nên cho con người để con người cai quản mặt đất này… Mọi thức ăn đều sạch, nhưng vì những tư tưởng, ý định và tâm ý bất chính của con người, làm cho con người xấu xa ô uế. Mười hai thứ tội được Kinh Thánh kể ra coi là khởi đi từ trong tâm hồn con người: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.
Một hành vi tốt hay xấu không chỉ do hoàn cảnh, phong tục của xã hội, mà trước tiên là do lòng người. Ý hướng tốt thì hành động sẽ tốt, ý hướng xấu thì hành động sẽ xấu. Hiểu được như thế, chúng ta cũng được mời gọi đào luyện ý hướng tốt lành và nhân đức từ cõi lòng con người mình để có thể phát sinh sự từ bi nhân ái, bao dung, độ lượng, yêu thương, tha thứ…
Cần có một lương tâm chân chính, một tâm hồn trong sạch, một trái tim rộng mở : chúng ta sẽ có lòng mến Chúa đích thực và yêu thương tha nhân cách chân thành vì yêu là chu toàn mọi lề luật.
2024
SỐNG YÊU THƯƠNG
5.2 Thánh Agatha, Đttđ
1 V 8:1-7,9-13; Tv 132:6-7,8-10; Mc 6:53-56
SỐNG YÊU THƯƠNG
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Agatha, đồng trinh, tử đạo.
Trường hợp thánh Agatha cũng như trường hợp của Thánh Anê đồng trinh tử đạo thời Giáo Hội tiên khởi, chúng ta không có được những dữ kiện lịch sử chắc chắn, ngoại trừ sự kiện việc ngài chịu tử đạo ở Sicily trong thời kỳ cấm đạo của hoàng đế Rôma là Decius năm 251.
Theo truyền thuyết, ngài được sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có. Ngay từ khi còn trẻ, Agatha đã muốn tận hiến cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, chính vì thế mà Ngài từ chối mọi lời cầu hôn của bất cứ một người nào muốn yêu thương thương Ngài.
Truyền thuyết cũng kể lại, vào lúc đó có một thống đốc vùng là Quintian, một người có địa vị cao trong xã hội, thấy Agatha một người con gái mới lớn, lại có vẻ đẹp đầy quyến rũ thì để lòng yêu thương muốn chiếm hữu. Bị Agatha cương quyết từ chối, Quintian tưởng có thể dùng quyền thế mình để ép buộc thánh nữ.
Thế nhưng dù bị ép buộc như thế, Agatha vẫn một mực khước từ. Thấy không ép buộc người con gái mình say mê và biết Agatha là một người Kitô Hữu nên ông ra lệnh bắt giữ và đưa ra xét xử. Ông hy vọng Agatha vì sợ hãi sự tra tấn cũng như cái chết, mà đành phải trao thân gửi phận cho ông chăng. Thế nhưng ông đã lầm. Một lần nữa Agatha ngài nhất quyết khước từ. Agatha tin tưởng vào Thiên Chúa, và cầu nguyện rằng: “Lạy Ðức Giêsu Kitô, là Chúa mọi sự! Ngài đã thấy lòng con, Ngài biết con muốn gì. Xin hãy làm chủ toàn thể con người của con. Con là chiên của Ngài; xin giúp con vượt qua sự dữ này.”
Sau khi âm mưu của mình thất bại, Quintian cho tống Agatha vào nhà gái điếm với hy vọng người con gái này sẽ thay đổi ý định. Nhưng rồi sau một tháng đánh đập và sỉ nhục, Quintian vẫn thất bại. Tức giận quá Quintian đưa Agatha ra xét xử. Agatha vẫn không lay chuyển, luôn can đảm tuyên xưng niềm tin vào một mình Chúa Giêsu.
Trước thái độ đó Quintian cay cú đến tột độ. Ông lại tống Agatha vào ngục một lần nữa. Ông ra lệnh tra tấn người con gái thật dã man, thế nhưng sức mạnh của niềm tin và tình yêu vẫn chiến thắng. Quintian đành phải nuốt hận và kết thúc cuộc đời của vị anh hùng.
Tục truyền trước khi chết, Agatha đã cầu nguyện thật sốt sắng như sau: “Lạy Chúa, là Ðấng dựng nên con, Ngài đã gìn giữ con từ khi con còn trong nôi. Bởi tình yêu, Ngài đã dẫn dắt con và ban cho con sự kiên nhẫn để chịu đựng đau khổ. Xin hãy nhận lấy linh hồn con.” Agatha qua đời tại Catania, Sicilia năm 251.
Ngài được coi là quan thầy của xứ Palermo và Catania.
Những phép lạ hóa bánh ra nhiều (6,34-44) và đi trên mặt biển (6,45-52) chưa làm các tông đồ tin vào Chúa , nay Chúa đưa họ vào đất dân ngoại đề tiếp tục dạy dỗ thêm.
Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Đức Giê-su chữa lành nhiều bệnh nhân để trình về sứ vụ cứu thế của Người và để củng cố niềm tin cho các Tông Đồ.
Khi Chúa Giêsu vừa lên bờ đến miền dân ngoại là Ghenêxaret, người ta đã nô nức kéo nhau đến với Chúa. Khi người đi đến đâu thì người ta cũng khiêng những người bệnh tật đến đấy, xin cho chạm vào áo Người. Tất cả những ai được chạm vào áo Người đều được khỏi bệnh. Chúa Giêsu luôn tỏ ra yêu thương và quan tâm đến con người, nhất là những người đau khổ và yếu đuối. Không ai đến với Người mà phải thất vọng.
Nơi Đức Giêsu, chúng ta có thể thấy một sức sống lan tỏa đến vô cùng từ con tim tràn ngập tình yêu thương của Người. Có thể nói, Người không từ chối bất kì lời khẩn cầu nào đến nỗi bất cứ ai chạm vào tua áo choàng của Người đều được khỏi.
Về mặt thể lý, chắc hẳn là khi Người đến với ai hoặc ai có thể tiếp cận Người thì người đó mới được chữa lành. Có một sự kết nối kì diệu giữa Thiên Chúa và con người. Con người bị cuốn hút bởi sức sống vô biên nơi Thiên Chúa và con người cố gắng vươn tới, đến gần hầu có thể chạm vào.
Chúng ta ngày nay vẫn có thể chạm vào chính Chúa qua bí tích Thánh thể. Chúa Giêsu tự hiến thân trên bàn thờ thập giá và ở cùng Giáo hội cho đến ngày tận thế. Thánh thể trở nên linh dược cho sự sống đời này và bảo đảm cho sự sống đời sau. Tuy vậy, nhiều người vẫn thờ ơ, vô tâm trước ơn trọng đại này trong khi đó, được rước Chúa đã là một phần thưởng lớn lao mà không có thứ lương thực nào có thể thay thế được ở trần gian. Phải chăng, sự què quặt của linh hồn thì không đáng lo ngại bằng sự khiếm khuyết về thể xác? Những bệnh nhân thời Chúa Giêsu phải nhờ người khiêng họ tới Chúa để được chữa lành. Còn chúng ta, trong một thể xác lành lặn, chúng ta còn chưa thấy việc chữa lành tâm linh là điều cần thiết.
Chúng ta được mời gọi đón nhận Chúa với cả nỗ lực của đức tin: vượt lên trên những trở ngại của cuộc sống nhân sinh. Chúng ta chỉ mong chạm đến Người, trong khi đó Người đã ôm choàng tất cả chúng ta bằng tình thương của Người. Nhưng nhiều khi chúng ta còn chán nản, bi quan thoái lui dù chỉ một bước cũng có thể “chạm” vào Người. Hãy tìm mọi cách để chạm vào Chúa: bằng việc rước lễ cách xứng đáng, bằng việc tin nhận chắc chắn là Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai khao khát Người.
Chúng ta vẫn thường hát: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời, đâu có lòng từ bi, ở đấy có ân sủng Người…” Phải, nơi nào có Chúa, nơi đó có niềm vui, bình an, trông cậy và chữa lành. Cụ thể là như bài Tin mừng hôm nay nói tới, Chúa Giêsu có mặt ở đâu, thì người ta chen nhau tới với Người để được ân sủng Người chữa lành. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là sự hiện diện của tình yêu và lòng bác ái. Ngài gần gũi và quan tâm đến con người, đặc biệt những người đau khổ và yếu đuối.
Thế nên, Chúa Giêsu mời gọi mọi người chúng ta sống chiều kích hiện diện đầy yêu thương, đem đến bình an và thực thi đức bác ái, hầu xoa dịu sự đau khổ của kiếp người. Chính sự hiện diện đó làm cho mọi người cảm kích mà chạy đến với Chúa, tựa như bông hoa tỏa hương thu hút muôn loài đến với nó.