2021
LỜI KINH TUYỆT HẢO
17 08 X Thứ Năm Tuần XI Thường Niên.
Thánh Phê-rô Phan Hữu Đa, Giáo dân (U1862), Tử đạo.
2Cr 11,1-11; Mt 6,7-15.
LỜI KINH TUYỆT HẢO
Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.
Là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng Kinh Lạy Cha. Một ngày sống chúng ta có nhiều dịp để đọc lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy các Tông Đồ cầu nguyện. Chúng ta đọc trong thánh lễ, trước mỗi bữa ăn, khi khấn nguyện cho bản thân hay cho những công việc chung. Thậm chí các bà mẹ còn dạy các em nhỏ khi bập bẹ biết nói lời kinh này. Nhiều em bé đọc lời kinh với thái độ hồn nhiên, thật đẹp.
Tuy nhiên từ lời đọc thuộc lòng đến thực hiện lời kinh ấy quả không dễ dàng. Khi các Tông đồ không biết phải cầu nguyện thế nào. Chúa Giêsu đã dựa vào kinh nghiệm của Ngài kết hợp với Thiên Chúa Cha mà Phúc âm vẫn thường ghi lại, sáng sớm tinh sương hay chiều tối. Chúa Giêsu thường lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Các nhà tu đức cho rằng “Bước vào đời sống cầu nguyện là bước vào cuộc chiến đấu”. Có người cầu nguyện thật nhiều. Nhưng vẫn cảm thấy trống rỗng như Chúa chẳng nghe lời, rồi chán nản, bỏ cầu nguyện, thậm chí bỏ nhà thờ, vẫn nghĩ rằng cầu nguyện như một dịch vụ “xin cho”. Được thì tin, không thì thôi.
Trang Tin Mừng Chúa Giêsu đã nói rõ : “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, (Mt 6, 7-9).
Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu để lại là một mạc khải về Chúa Cha. Thiên Chúa của chúng ta không là Thiên Chúa xa vời hay nghiêm nghị, nhưng là Thiên Chúa gần gũi, thân mật đến độ chúng ta có thể gọi Ngài là Cha với tất cả trìu mến như một em bé gọi cha mình.
Tỏ lộ cho cho chúng ta một Thiên Chúa như người cha yêu thương, Chúa Giêsu cũng tỏ lộ chính chúng ta là ai. Phẩm giá của con người chính là được làm con Thiên Chúa, và bởi vì là con của cùng một cha, nên chúng ta là anh em với nhau. Tình Cha con (chiều dọc) và tình em (chiều ngang) được Chúa Giêsu mạc khải cách hài hòa qua kinh lạy Cha.
Đặc biệt trong mối tương quan chiều ngang đối với anh em. Chúa Giêsu đã đặc biệt nhấn mạnh trong lời kinh: “xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Mt 6, 12).
Khi chúng ta có lỗi với Chúa. Chúng ta thường đến với Bí tích Hòa Giải để xin ơn tha thứ. Thế nhưng, khi chúng ta có lỗi với anh em, hay anh em xúc phạm đến mình, chúng ta khó có thể tha thứ. Cũng chính vì thế mã xã hội hôm nay hận thù gia tăng, đưa đến tình trạng trả thù, giết người. Trong gia đình, vợ chồng không thể tha thứ cho nhau đưa đến tình trạng đổ vỡ, ly thân ly dị. Anh chị em ruột không thể tha thứ cho nhau, coi nhau như người dưng nước lã.
Do vậy, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Ngài không tha cho những ai không biết tha thứ : “Sao ngươi chẳng bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?”. Bởi thế, tha thứ không còn là hành vi tự nguyện, mà là điều kiện bắt buộc. Đó cũng làm phẩm tính của Kitô hữu con một Cha trên trời.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
2021
YÊU KẺ THÙ
15 06 X Thứ Ba Tuần XI Thường Niên.
2Cr 8,1-9; Mt 5,43-48.
YÊU KẺ THÙ
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
Sự thường ở đời, mến người dễ mến, yêu người đáng yêu, thương người thương mình thì rất dễ; nhưng yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người làm hại mình lại quá khó. Thế mà, Chúa Giêsu lại yêu cầu những ai tin vào Ngài phải vượt qua lối hành xử thường tình đó để luôn sống yêu thương theo gương của Thiên Chúa là Cha. Hơn nữa, chính bản thân Chúa Giêsu cũng đã sống trọn vẹn lời kêu gọi này. Ngài chấp nhận chết vì nhân loại tội lỗi và tha thứ cho những kẻ đã làm khổ và giết chết Ngài.
Thánh Matthêu dùng động từ agapaôđể nói rằng: tình yêu dành cho kẻ thù ở đây là một tình yêu mến hy sinh cho người mình yêu (phân biệt với tình yêu được diễn tả bằng động từphileô, là tình thương yêu có sự trao đổi, có sự đồng thuận hỗ tương dựa trên các phẩm chất, sự quan tâm, sự để ý đến nhau…). Như thế là có một thực tại mới mẻ hẳn được yêu cầu, theo đó, trong tương quan giữa người với người, bạo lực phải hoàn toàn bị loại trừ. Không còn chỗ cho sự oán thù. Thay vì sự căm ghét, phải là sự ước muốn những điều thực sự thiện hảo cho nhau (tình yêu mến và lời cầu nguyện).
“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những “anh em” được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Điều quan trọng nhất là các môn đệ phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện (c.48). Đó chính là tiêu chuẩn và cũng là lý do của đòi hỏi phải yêu thương kẻ thù và khao khát sự thiện hảo cho kẻ ngược đãi mình.
Với lời quả quyết cuối cùng (c.48), Chúa Giêsu còn ngầm đưa ra một nhận định hết sức tiêu cực về lý tưởng hoàn thiện mà các kinh sư đề cao. Theo họ, lý tưởng hoàn thiện là sự tuân giữ triệt để Luật Môsê. Nhưng theo Đức Giêsu, chính tình yêu vô vị lợi và không giới hạn mới là yếu tố làm cho con người nên hoàn thiện và nên giống Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những “anh em” được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạ, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Theo gương Chúa Giêsu và theo lời dạy của Ngài, chúng ta được mời gọi sống quảng đại hơn nữa trong các mối tương quan với mọi người: yêu kẻ ghét mình và cầu nguyện cho kẻ làm hại mình. Ngày hôm nay, mỗi người được mời gọi làm việc hy sinh, hãm mình và bác ái để cầu nguyện cho một hoặc nhiều người đang gây khó chịu, đang làm khổ, làm hại mình.
2021
LUẬT TÌNH YÊU
14 05 X Thứ Hai Tuần XI Thường Niên.
2Cr 6,1-10; Mt 5,38-42.
LUẬT TÌNH YÊU
Lời Chúa chúng ta vừa nghe chỉ vỏn vẹn bốn câu vắn vỏi. Bốn câu này nằm trong bối cảnh sau khi các môn đệ thắc mắc với Chúa Giêsu về luật Môsê. Đây là bản chỉ nam, kiện toàn luật Môsê mà Chúa muốn dạy các môn đệ của Ngài.
Tin Mừng hôm nay, ở trong phần chính của Bài Giảng trên núi. Trước mỗi lời dạy, Thánh sử Matthêu đều có câu mở đầu “Anh em đã nghe luật dạy rằng… mắt đền mắt, răng đền răng”, còn Thầy, Thầy bảo anh em đừng chống cự lại người ác…. Ý chính là: sự công chính của các môn đệ phải vượt lên trên cả cách giải thích lề luật theo lối truyền thống, nghĩa là luật mới, luật của Chúa Giêsu khác xa hẳn luật cũ và có thể gọi là đi ngược lại những gì mà thế gian cho là khôn ngoan, là công bằng.
Trước tiên, Chúa Giêsu khởi sự nhắc các môn đệ về luật báo thù, “Anh em đã nghe Luật dạy : Mắt đền mắt, răng đền răng…”, luật báo thù này của người xưa căn cứ trên việc ăn miếng trả miếng, nghĩa là nếu có ai đó đã làm thiệt hại bạn, thì hãy làm hại lại người ta như vậy, hoặc bắt họ đền bù sao cho tương xứng với sự thiệt hại mình đã chịu. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài có lối hành xử tốt hơn : “Còn Thầy, Thầy bảo anh em : đừng chống cự người ác”. Chúa Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc của luật báo thù, vì dù có hạn chế và được kiểm soát kỹ đến đâu đi nữa, thì việc báo thù cũng không khi nào có chỗ đứng trong đời sống Kitô giáo.
Chúa Giêsu nhắc thêm :“Nếu bị ai tát má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa”. Bị tát là bị sỉ nhục về mặt danh dự. Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy có cách hành xử cao hơn. Ngài không những chỉ khuyên quên đi việc bị thiệt hại vật chất không đòi đền bù, mà còn rộng lòng quên đi việc bị hạ nhục, bị thiệt hại danh dự.
Và Chúa lại bảo :“Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài”. Áo của một người là quyền lợi cơ bản nhất mà người ấy được hưởng. Chúa Giêsu muốn đòi buộc chúng ta đi vào một tiến trình sâu hơn của luật yêu thương. Ngài đòi hỏi người Kitô hữu không nghĩ đến quyền lợi riêng của mình, nhưng nghĩ đến bổn phận phải giúp đỡ và trao ban cho người khác cả phần dư mà lẽ ra chính họ phải được hưởng.
Không chỉ nghĩ đến đồng loại với những quyền lợi. Chúa Giêsu còn muốn người môn đệ thể hiện trọn vẹn hơn nữa các điều luật. Phải nghĩ đến đồng loại để tìm phục vụ hơn là để được phục vụ : “Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm”. Chúa Giêsu khơi lên một tiến trình hoàn thiện hơn. Xa hơn và hoàn trọn hơn trong phục vụ là đi bước trước, đến và tìm ra nhu cầu của người đang cần đến chúng ta.
Và mức cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho những ai làm môn đệ của Ngài đó là : phải nhạy bén, phải sáng tạo hơn trong yêu thương, phải tìm ra cách thế trao tặng xinh đẹp và ưu ái nhất : “Ai xin, thì anh hãy cho, ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi”. Yêu thương là luôn biết cho đi, không được từ chối, luôn tìm tạo thuận lợi để trao ban. Và trong mọi tình huống hãy tôn trọng những ai đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Không được ngoảnh mặt làm ngơ hoặc coi thường.
Cho đi là đặc ân và cũng là một sứ vụ mà người môn đệ phải đảm nhận. Hãy sử dụng châm ngôn của cổ nhân xưa : “Thà cho một người ăn mày giả dối, để khỏi phải từ chối lầm một người khiêm tốn nài xin”. Người biết yêu thương, biết trao tặng là người làm tất cả các nghĩa cử yêu thương mà không sợ lãng phí, không sợ người khác không nhận ra. Người biết yêu thương thì luôn biết sáng tạo trong cách thế trao tặng.
Chúa muốn dạy chúng ta, đừng lấy oán báo oán khi chính mình bị xúc phạm. Tuy nhiên Người không cấm chúng ta chống lại những bất công, lại càng không cấm chúng ta bài trừ sự dữ, sự tội lỗi xấu xa ở trần gian. Cuộc sống nơi trần gian, biết sống trong Chúa là sống lý tưởng của sự hiền hòa, khiêm nhường hay tha thứ và yêu thương: vì tất cả đều là con cái một Cha trên trời, là Đấng hằng thi ân cho con cái và tất cả mọi người
“Mắt đền mắt, răng đền răng” – đó là luật báo thù, người ta xúc phạm làm thiệt hại tổn thương về tinh thần hay vật chất tôi bao nhiêu, theo lẽ công bằng phải đền trả tôi bấy nhiêu, đó là luật thế gian với góc độ con người đối xử với con người với nhau. Biết bao chiến tranh và bạo lực xảy ra trên thế giới cũng xuất phát từ những mâu thuẫn, sống tìm lợi ích, ích kỷ cho bản thân là sống như vậy, chỉ cần một chút thiệt hại về tiền bạc hay về tinh thần người ta sẵn sàng đạp đổ hay đổi mạng sống của nhau.
Không chỉ ngoài xã hội, nơi cộng đoàn hay gia đình ngày nay cũng vậy, họ có thể cũng sẵn sàng loại trừ nhau để đánh đổi chút danh hão huyền, thiếu đi sự yêu thương, cảm thông và tha thứ cho nhau. Nếu mọi người sống không còn thù oán, hiềm khích, biết sống ôn hòa, tha thứ cho nhau, tuy nhiên làm được điều đó quả thật rất khó, nhưng nơi mỗi người có được những đức tính này, thì nơi họ thể hiện bằng sự khiêm nhường, tha thứ, thiết tha trong lời cầu nguyện hay sống trong bí quyết diệu kỳ của Kinh Mân Côi là họ đã được “ từ ơn hoán cải đến ơn cứu độ”
Chúa Giêsu thiết định nét mới rất quan trọng để mở rộng luật Môsê : Nguời môn đệ Chúa Giêsu không bao giờ thù hận, không được tìm cách báo thù cho dù đó là một sỉ nhục có tính toán và độc ác. Người môn đệ Chúa Giêsu không bao giờ bám vào quyền lợi, cả quyền lợi pháp lý lẫn quyền lợi đương nhiên được hưởng ; không bao giờ nghĩ đến việc làm theo ý mình, nhưng nghĩ đến việc mở rộng lòng yêu thương, nâng đỡ. Người môn đệ Chúa Giêsu thì luôn nghĩ ra được cách sáng tạo trong sự phục vụ trao ban.
Chúa Giêsu dạy chúng ta loại trừ sự báo thù bằng việc tha thứ; tiêu diệt những thói xấu như: nhỏ nhen ích kỷ bằng cách sống quảng đại quên mình vì tha nhân. Trên thập giá Chúa Giêsu đã xóa tan sự gian ác bằng sự hiền lành và tự nguyện chịu chết để đền bù muôn tội lỗi. Không thể tiêu diệt sự ác bằng sự ác mà phải bằng một tình yêu cao thượng hơn.
Chúa Giêsu muốn kiện toàn khoản luật mới, đó luật yêu thương sống trong sự hoàn thiện biết đối xử, khoan dung với kẻ ác, cụ thể là với kẻ xúc phạm đến phẩm giá con người. Thầy bảo với anh em: “Đừng chống cự với người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39).
Quả thật rất nghịch lý, nhưng đây nghịch lý của tình thương. Người Kitô hữu sống Tin Mừng bằng cách không có khái niệm trả thù, sống trong tình thương sẽ lướt thắng họ, để giúp họ sống luật yêu thương trong đó bao gồm sự tha thứ, hy sinh, chịu đựng, thiệt thòi, từ tinh thần lẫn vật chất, luật yêu thương là cho đi không mong lãnh nhận, họ sẽ không ngoảnh mặt hay thờ ơ, lãnh đạm với bất kể ai, kể cả kẻ làm khó mình. Như Chúa nhắc nhở các môn đệ: “Ai xin anh hãy cho: ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,42).
2021
YÊU MẾN TRÁI TIM MẸ
12 03 Tr Thứ Bảy Tuần X Thường Niên.
Lễ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ Ma-ri-a, lễ nhớ.
Thánh Au-gut-ti-nô Phan Viết Huy, Quân nhân (U1839); và Thánh Ni-cô-la Bùi Đức Thể, Quân nhân (U1839), Tử đạo.
Lễ nhớ có bài đọc riêng!
Is 61,9-11; Lc 2,41-51.
YÊU MẾN TRÁI TIM MẸ
Nói đến trái tim, ai cũng hiểu rằng nó là biểu tượng của tình yêu. Nói về những gì sâu xa, thiêng liêng và thầm kín nhất, người ta cũng hay dùng biểu tượng của trái tim để diễn tả!
Cũng chính vì vậy, mà hôm nay, phụng vụ Giáo Hội cho mừng kính lễ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria.
Qua đó, Giáo Hội mời gọi con cái của mình hãy uốn nắn trái tim mỗi người trở nên giống trái tim của Mẹ Maria, một trái tim trong trắng, tinh tuyền; một trái tim tràn đầy tình yêu với Thiên Chúa và đầy lòng nhân ái, bao dung và thương xót với con người.
Trong các lễ nhớ dành riêng cho Mẹ Maria liên quan tới lễ Đức Mẹ Lộ Đức, có lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Kiểu nói ”trái tim vô nhiễm” mới có sau này, và trở thành thông dụng sau khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín lý Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1854. Trước đó có các kiểu nói thông dụng như ”trái tim rất thanh sạch”, hay ”trái tim rất vẹn tuyền”, hoặc ”trái tim rất thánh” Đức Mẹ Maria…
Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19), và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim được xem là biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Còn đối với nhân loại thì đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (Đnl 6,5). Trong Tin Mừng theo thánh Máccô thì khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào là trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mc 12, 29-33).
Lịch sử phụng vụ lễ “Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ”, được tiến triển qua từng giai đoạn. Vào năm 1787, Đức Thánh Cha Piô VI đã ưu ái ban phép cho các nữ tu dòng Đức Mẹ Gabriel được mừng lễ trong cộng đoàn vào ngày 22/8. Đến năm 1799, lễ này được phép cử hành rộng rãi trong khắp Giáo Phận Palermô nước Ý. Năm 1805, ngài cho phép bất cứ nơi đâu muốn mừng lễ này thì đều được.
Điều đáng ghi nhớ nhất, đó là vào năm 1917, tại Fatima, từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ nhỏ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima – Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng: ”Để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ”.
Sau đó, mệnh lệnh tôn sùng Trái Tim Mẹ được ban bố và kêu gọi mọi người hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ như Mẹ đã mặc khải.
Vào ngày mồng 8 tháng 12 năm 1942, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Năm sau, vào tháng 5 năm 1943, Đức Thánh Cha đã khẩn thiết kêu gọi mọi người hãy tôn sùng Trinh Nữ Rất Thánh, nhất là bằng cách đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình đích thực. Đồng thời, ngài kêu gọi mọi người hãy dâng bản thân, gia đình, dân tộc và thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ.
Đến Năm 1945, Đức Thánh Cha chính thức thành lập lễ “Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ” vào ngày 22 tháng 08.
Sau này, dưới triều đại của Đức Thánh Cha Phaolô VI, vào năm 1969, ngài đã thiết lập lễ này cách cụ thể và quyết định việc mừng kính vào thứ Bảy sau lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Và mỗi người chúng ta khi chiêm ngưỡng Trái Tim Mẹ Maria, chúng ta cảm nhận được nơi Trái Tim Mẹ một sự tinh tuyền, trong sạch, trọn lành, thánh thiện và tràn đầy tình yêu. Một tình yêu dạt dào với Thiên Chúa. Luôn hướng về Thiên Chúa và: “Ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19).
Một tình yêu tràn đầy xót thương với nhân loại. Vì thế, Mẹ luôn là trạng sư đứng ra bênh đỡ và phù trợ con cái. Việc thiếu rượu tại tiệc cưới Cana và sự can thiệp của Mẹ với Đức Giêsu để xin Ngài làm phép lạ hóa nước thành rượu cho gia chủ khỏi bị xấu hổ đã chứng minh cho thấy: nơi Mẹ, có một trái tim tràn đầy nhân ái và xót thương.
Trải qua suốt dòng lịch sử, Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi và làm rất nhiều phép lạ để cứu vãn thế giới khỏi cảnh tương tàn chiến tranh. Mặt khác, Trái Tim Mẹ cũng đã rung động khi con cái của mình khắp nơi bị bách hại, bắt bớ… đang ngày đêm kêu van thống thiết tới Mẹ, và Mẹ đã hiện ra để chữa lành bệnh tật, ban ơn bình an và giải thoát khỏi tai ương, hoạn nạn…
Nói chung, Mẹ đã luôn luôn thể hiện thật sâu đậm vai trò từ mẫu của mình đối với con cái. Vì thế, bất cứ ai chạy đến với Mẹ sẽ không phải về không bao giờ! Sứ điệp ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy năng chạy đến với Mẹ để nép mình trong Trái Tim dịu hiền của Mẹ để được Mẹ thương yêu. Khi nép bên Trái Tim Mẹ như vậy, sứ điệp được truyền lan, đó là: khi chúng ta được nghe, được cảm, và được thấu tình yêu thương của Mẹ trên cuộc đời mình, thì hãy trở nên giống Trái Tin Mẹ, để biết yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Biết suy đi và nghĩ lại những hồng ân Chúa ban xuống trên cuộc đời chúng ta hằng ngày, để qua đó, biết uốn nắn trái tim của mình từ chỗ dửng dưng, vô cảm, cứng ngắc, trai đá, thành trái tim chan chứa tình yêu thương, liên đới, trách nhiệm để sống tình huynh đệ với mọi người, nhất là những người nghèo và bị bỏ rơi.
Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cưu mang Đấng Cứu Thế, để cộng tác cho công trình cứu chuộc của Người. Công trình này xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa. Đức Maria đã cộng tác với Thiên Chúa để mang tình yêu của Người cho nhân loại. Chúa cũng mời gọi sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Mỗi người đều có một vai trò và vị trí đặc biệt trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa cần nơi mỗi người chúng ta là noi gương Mẹ Maria, luôn sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa.
Như vậy, noi gương Mẹ, chúng ta không thể không lên đường để cứu giúp những ai cần đến chúng ta. Chúng ta có thể đem đến cho những người cô đơn những nụ cười thân thiện. Đến với những người đói khát bằng lòng nhân ái. Đến với những người bất hạnh bằng niềm vui Tin Mừng. Đến với những người bị bỏ rơi, đang sống ở bên lề xã hội, nơi gầm cầu… một tình yêu huynh đệ. Đến với những người ốm đau, bệnh tật bằng một hành động nâng đỡ yêu thương cụ thể…
Mặt khác, mỗi khi mừng lễ Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi hãy noi gương Mẹ, sống trong sạch, tinh tuyền và thánh thiện, để xứng đáng được Thiên Chúa ngự vào và được trở thành đền thờ của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta không thanh luyện trái tim mình nên giống trái tim Đức Mẹ, tức để cho tim mình rung nhịp theo những xúc cảm tầm thường, nhất thời, thì trái tim chúng ta không chóng thì chày cũng dễ bị lạc nhịp theo những xu hướng của thế tục, của sự ích kỷ vụ lợi cá nhân.