2021
Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha
06 01/9 X Thứ Tư Tuần XXVII Thường Niên.
Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giuse.
(Tr) Thánh Bơ-ru-nô (Bruno), Linh mục.
Thánh Phan-xi-cô Trần Văn Trung, Cai đội (U1858), Tử đạo.
Gn 4,1-11; Lc 11,1-4.
Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha
Một vị thánh được những người đồng thời tặng khen nhiều danh hiệu như :” Nhà thần học nổi danh, văn sĩ lỗi lạc, nhà ngoại giao tài ba, người khôn ngoan tuyệt vời, thầy của các thầy vv…”. Với biết bao danh hiệu người đồng thời tặng ban cho thánh Brunô, điều ấy nói lên con người hết sức đặc biệt của Ngài. Thánh nhân không đặc biệt sao được khi Hội Thánh, đặc biệt Giáo Triều cho triệu vời Ngài về La Mã để giúp đỡ Đức Giáo Hoàng Urbanô II trong vai trò cố vấn cho Ngài.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma đã viết:” Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được ! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau ? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời ! Amen.” (Rm 11, 33-36 ). Thánh Brunô là một trong những vị thánh đã cảm nghiệm sâu sắc lời của thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại trong đoạn viết để ca tụng thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Cảm nghiệm hết sức sâu sắc lời thánh Phaolô, thánh Brunô đã phục vụ theo đường lối Chúa. Tất cả đều do hồng ân của Chúa. Ngài có được gì là do Thiên Chúa. Do đó, thánh Brunô luôn tuân phục thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Thánh Brunô mở mắt chào đời năm 1030 tại Cologne trong một gia đình danh tiếng, thế giá và đạo đức. Ngài là vị sáng lập Dòng khổ tu Chartreux. Lãnh nhận sứ vụ linh mục, Ngài vẫn còn được các Đấng các Bậc cho tiếp tục con đường học vấn vì thấy Ngài có khả năng tiếp thu và lãnh hội tốt các môn học. Ngài đã gặt hái cách rất khả quan về môn Triết học và Thần học. Với trí thông minh, kiến thức cao cường của Ngài, thánh Brunô đã làm khoa trưởng của nhiều phân khoa đại học. Hội Thánh dùng Ngài vì lòng đạo đức, học vấn uyên bác của Ngài, chính vì vậy, Ngài được triệu hồi về La Mã và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Triều Roma.
Trong khi phục vụ Hội Thánh, Ngài cũng gặp một số trắc trở, rắc rối vì một số người ghen tương hay chống đối, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, Ngài đã vượt thắng và thành công hơn thất bại. Mãn thời hạn phục vụ, Ngài trở về đời sống thầm lặng, tĩnh mịch và cầu nguyện. Năm 1084, sau nhiều cuộc bàn hỏi, cầu nguyện tìm ra thánh ý Chúa, Ngài đã thiết lập Dòng khổ tu Chartreux. Linh đạo của Dòng Chartreux là cầu nguyện liên lỉ, soạn sách báo, làm việc lao động chân tay và không ngừng trau dồi kiến thức.
Năm 1088, Ngài được mời về La Mã để giữ chức cố vấn cho Đức Giáo Hoàng Urbanô II là một trong những học trò của Ngài. Giai đoạn Ngài phục vụ Giáo Triều là thời kỳ Giáo Hội đang gặp trăm ngàn thử thách, nguy khốn, nhưng với ơn Chúa, với trí thông minh, lòng can đảm, sự khôn khéo của Ngài, thánh Brunô đã giúp Giáo Hội vượt qua tất cả.
Năm 1101, thánh Brunô đã trở về với anh em Dòng Chartreux sau khi được phép Đức Thánh Cha cho từ chức cố vấn Giáo Triều Roma, Ngài đã trút hơi thở cuối cùng bình an, thánh thiện về với Chúa trong sự luyến tiếc của anh em trong Dòng.
Khi cầu nguyện, Chúa Giêsu muốn chúng ta đặt mình trong mối tương quan với Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau. Trong tương quan này, chúng ta đến với Thiên Chúa không như đầy tớ kêu xin chủ, mà là những người con cùng chia sẻ trách nhiệm với Cha; nếu không thì cần gì phải xin “cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến”? Bởi Thiên Chúa luôn muốn danh thánh Ngài vinh hiển, mà Thiên Chúa được vinh hiển khi con người được thông phần hạnh phúc với Ngài, bởi theo thánh Irênê: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”: Thiên Chúa sẽ vinh hiển nếu con người không bỏ đói đồng loại của mình; Thiên Chúa sẽ vinh hiển nếu con người không hận thù cấu xé lẫn nhau; Thiên Chúa sẽ vinh hiển nếu con người biết lánh xa những điều xấu và không nô lệ cho sự dữ
“Nguyện cho danh thánh Cha vinh hiển” (c. 2) là một lời cầu nguyện truyền giáo; là lời xin cho mọi người nhận ra sự hoàn mỹ tốt lành của Cha mà nhận biết Cha – Đấng tạo thành trời đất. Cách đặc biệt hơn như chúng ta đã từng biết: “Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống và sống dồi dào” (Thánh I-rê-nê).
Thế nhưng, ngày nay vẫn còn biết bao con người sống kiếp lam lũ lầm than, đói nghèo, không có điều kiện để sống đúng với nhân phẩm; những nạn kỳ thị chủng tộc, giai cấp, phân biệt đối xử giới tính; những trẻ em bị bóc lột sức lao động, không được chăm sóc; những nạn buôn người…. Tất cả làm nên một khoảng ‘trời đen’ của nhân loại khiến cho mọi con người, nhất là người Ki-tô hữu chân chính phải nhức nhối, không thể dửng dưng làm ngơ.
Vì vậy, lời cầu xin cho “Danh thánh Cha vinh hiển” cũng là lời cầu nguyện cho nhân loại có được một cuộc sống dồi dào, hạnh phúc; có thể tận hưởng được những ân phúc, ân lộc mà Thiên Chúa ban cho qua thiên nhiên, qua vũ trụ và con người, hầu con người được sống xứng đáng với phẩm giá là con Thiên Chúa; và đồng thời biết chung tay xây dựng cuộc sống tốt đẹp; đẩy lui những bất công còn tồn đọng trong xã hội, thắp sáng ngọn lửa tin yêu xua đi những mây mù hắc ám góp phần làm lành mạnh môi trường sống của nhân loại.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày” (c. 3)
Lương thực là để nuôi dưỡng đời sống con người. Có lương thực nuôi dưỡng phần xác, có lương thực nuôi dưỡng tinh thần, có lương thực nuôi dưỡng linh hồn. Con người có đầy đủ những lương thực trên nuôi dưỡng thì mới phát triển hài hòa, quân bình hầu có đầy đủ năng lực để sống, làm việc và phục vụ với hết khả năng, nhiệt tâm và tình yêu.
Thế nhưng, ngày nay có rất nhiều người (nếu không nói là đại đa số) chỉ biết chăm lo phát triển vật chất, thỏa mãn những nhu cầu thể lý, tìm kiếm ‘vinh thân phì gia’ mà đời sống tâm linh lại èo uột có nguy cơ chết yểu. Cái đói thể lý người ta có thể rất dễ nhận ra và dễ quan tâm; nhưng ngược lại, cái đói tâm linh thì người ta không dễ nhận ra và thường bỏ mặc không quan tâm, mặc dù nó là tác nhân gây ra nhiều hậu quả vô cùng tai hại ảnh hưởng đến hạnh phúc và đời sống sung mãn của con người. Chúng ta hãy cầu xin Cha ban cho chúng ta có đầy đủ lương thực hằng ngày để sống và thi hành ý Cha.
“Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (c. 4).
Điều kiện để được tha thứ là chính bản thân mình phải biết sống thứ tha. Tại sao tôi cầu mong Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi tôi; tha nhân đối xử khoan dung đối với tôi, mà tôi lại hà khắc với người anh em. Tha thứ không phải là chuyện dễ làm. Tuy nhiên, chúng ta hãy mở lòng mình ra trước Thiên Chúa, khiêm tốn xin ơn chữa lành để ta có thể hòa giải với Thiên Chúa, với chính bản thân, để có thể sống hòa giải với tha nhân.
Bởi vì, nếu tôi không thể tha thứ cho chính mình thì tôi rất khó để có thể tha thứ cho người khác thật lòng. Có những người nhiệt tâm, thiện ý có thừa, họ cho rằng đối với bản thân họ thì việc tha thứ cho tha nhân thật dễ hơn là tha thứ cho chính mình rất nhiều. Chúng ta không thể phủ nhận suy nghĩ của họ.
Tuy nhiên, nó thường chỉ đúng khi người ta tha thứ những khuyết điểm của người khác mà những khuyết điểm ấy không trực tiếp làm tổn thương đến bản thân họ (nhất là đến danh dự, lòng tự trọng). Tôi biết có những người rất tốt lành, nhưng lại mang trong lòng những vết thương không xóa nổi; hay nói khác đi, tận đáy lòng họ chưa thể tha thứ cho người làm tổn hại đến mình, làm mất thanh danh tiếng tốt của mình. Họ có thể quên tạm thời, nhưng khi có những hoàn cảnh, sự kiện gợi đến, lòng họ vẫn sôi lên nỗi niềm cay đắng.
Những vết thương như thế phải cần rất nhiều ơn Chúa để chữa lành và cho chúng ta thấy để sống tha thứ không phải là chuyện dễ. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống khiêm tốn, chân nhận và chấp nhận những giới hạn của bản thân và sống khoan dung đối với tha nhân.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (c. 4)
Con người ngày nay phải đương đầu với rất nhiều thứ cám dỗ về danh, lợi, thú. Thậm chí người ta có thể coi nó là mục tiêu để đạt tới trong cuộc đời. Có những người để cho danh, lợi cuốn hút đến bất chấp thủ đoạn. Có những người chạy theo lạc thú trong những cuộc tình và coi nó như một ‘mốt thời thượng’ mà đánh mất tình yêu thủy chung, coi nhẹ đời sống hôn nhân gia đình…và còn biết bao nhiêu thứ cám dỗ khác nữa. Vì vậy, lời cầu xin “chớ để chúng con sa chước cám dỗ” phải tha thiết hơn bao giờ hết – xin Chúa giúp chúng ta có được đôi mắt tâm linh sáng suốt để biết biện phân những giá trị cao đẹp trong cuộc đời và chọn chúng làm mục tiêu hướng tới để hoàn thành sứ mạng và ơn gọi mà Thiên Chúa trao phó cho mỗi con người.
Và bây giờ, mời bạn cùng tôi, chúng ta hãy chậm rãi đọc kinh lạy Cha – lời kinh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã dạy:
Lạy cha chúng con ở trên trời
Chúng con nguyện danh cha cả sáng
Nước cha trị đến
Ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày
Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
2021
Lắng Nghe và Chiêm Niệm
05 29 X Thứ Ba Tuần XXVII Thường Niên.
Gn 3,1-10; Lc 10,38-42.
Lắng Nghe và Chiêm Niệm
Ngày nay, những tiện nghi do tiến bộ kỹ thuật mang lại đang tạo ra một nền văn hóa mới đặt tính hiệu năng và khả năng tiêu thụ lên hàng đầu bậc thang giá trị: người được đánh giá cao là người tài giỏi, giầu có, làm ra tiền và có khả năng tiêu thụ cao. Trong một nền văn minh như thế, dĩ nhiên những giá trị luân lý, tôn giáo hoặc bị đưa xuống thành thứ yếu, hoặc bị quên lãng và ngay cả bị chà đạp. Ðây là một thách đố lớn lao đối với Giáo Hội. Giáo Hội qua các Kitô hữu hiện diện như một dấu chỉ của cuộc sống mai hậu và những giá trị siêu việt, nhưng liệu các Kitô hữu có còn đủ thức tỉnh và can đảm làm chứng cho những giá trị siêu việt ấy không hay chính họ cũng chiều theo cám dỗ chạy theo dòng đời, thỏa hiệp với những sức mạnh tăm tối đang xói mòn những giá trị luân lý đạo đức và loại bỏ chiều kích thiêng liêng ra khỏi cuộc sống con người?
Tin Mừng hôm nay có thể được lắng nghe và suy niệm với nỗi thao thức ấy. Chúa Giêsu hẳn không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Marta tất bật với việc tiếp đãi khách, và một của Maria ngồi bên chân khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên ân cần. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Marta. Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản mà con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe và chiêm niệm.
Hơn bao giờ hết, sự hiện diện của những người hiến dâng cho việc cầu nguyện và chiêm niệm là một trong những kho tàng quí giá nhất của thời đại chúng ta, để nhắc nhở cho thế giới rằng cuộc sống con người không chỉ giản lược vào điều mà thánh Phaolô gọi là chuyện ăn, chuyện uống, tôn thờ cái bụng, và rằng cuộc sống chỉ có giá trị và đứng vững vì chính chiều kích siêu việt, thiêng liêng của nó.
Trong một bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng Kín tại Mêhicô năm 1979, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao sự hy sinh của họ như sau:
“Cuộc sống của chị em quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, các chị lại dấn thân vào các tu viện Kín để làm chứng cho những giá trị mà các chị sống cho. Các chị là những chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay; với lời cầu nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người ngày nay”.
Những lời của Ðức Gioan Phaolô II không chỉ đề cao chứng từ của các Tu sĩ chiêm niệm, mà còn nhắc nhở cho các Kitô hữu về chính chứng từ của sự cầu nguyện của họ. Có những người hiến thân trọn vẹn cho sự cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không phải là độc quyền của một số người, mà phải là hơi thở cho tất cả những ai có niềm tin.
Có những giây phút dành cho việc cầu nguyện đã đành, nhưng người Kitô hữu phải sống thế nào để biến cả cuộc sống của họ thành lời cầu nguyện. Chiêm niệm không chỉ là hoạt động dành riêng cho một số người hay một số giờ hoặc một số nơi nhất định. Chiêm niệm chính là thái độ tìm kiếm, lắng nghe và suy niệm bao trùm mọi sinh hoạt của người Kitô hữu.
Ngồi dưới chân Chúa và lắng nghe Lời Ngài, đây là thái độ của một người đồ đệ đón nhận và lắng nghe Lời Chúa. Chúa không cần những nhà chuyên nghiệp làm việc cho Chúa, nhưng cần những đồ đệ sống trong sự hiện diện của Ngài, đón nhận Ngài, lắng nghe Lời Ngài 100%.
Đây là điều mà tác giả tập sách Đừng Hy vọng đã gọi bằng thái độ phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa để rồi biết chọn Chúa trước hết, quan trọng hơn, tốt hơn. Chính nhờ những giây phút lắng nghe này, những giây phút sống với Chúa, nhưng giây phút chọn Chúa mà người đồ đệ có thể làm việc Chúa một cách tốt đẹp hữu hiệu hơn. Sau đó, người khách đến thăm cần tình yêu thương, sự chú tâm và tiếp chuyện trao đổi linh động giữa ta và khách hơn là cần những việc nấu nướng nhà cửa như Martha đã làm cho Chúa.
Làm những việc của Chúa, làm những việc cho Chúa là để hướng chúng ta đến một đích điểm quan trọng hơn là gặp được Chúa, sống trong sự hiện diện thân tình với Chúa. Chúng ta đừng bỏ quên những đích điểm này để rơi vào những tình trạng gọi là kiệt sức tình hần, kiệt sức tâm lý cũng như thể lý. Cần những giây phút thinh lặng làm người đò đệ thân yêu ngồi bên chân Chúa và lắng nghe Lời Ngài. Sự trưởng thành của đời sống Kitô tuỳ thuộc vào những giây phút lắng nghe này chứ không tuỳ thuộc vào những công việc ta làm cho Chúa hay những công việc của Chúa mà ta dấn thân làm với một tinh thần trần tục không có Chúa hay bỏ quên Chúa
Cuộc sống chúng ta ngay nay đang thiếu một điều vô cùng hệ trọng, đó là sự thinh lặng. Có thể nói, hằng ngày ta bị bao vây bởi đủ thứ âm thanh của xã hội công kỹ nghệ. Những tiếng còi inh ỏi của xe hơi, xe gắn máy trên đường phố, tiếng ầm ầm của động cơ, máy móc nơi công xưởng, hay những âm thanh hỗn loạn của máy vi tính, của chuông điện thoại, tiếng ồn ào với lời ra tiếng vào nơi các quán ăn, nhà hàng…đã chiếm hết tâm trí chúng ta đến nỗi chúng ta không còn biết mình từ đâu đến và sẽ đi đâu. Không những thế, đầu óc chúng ta còn bị chi phối bởi đủ thứ những lo toan về cuộc sống vật chất hằng ngày.
Và rồi chúng ta cứ loay hoay và quay cuồng trong cuộc sống ồn ào như thế từ ngày này qua ngày khác mà chẳng còn tha thiết đến con đường thiêng liêng dẫn về thiên giới nữa!
Qua hình ảnh bà Mác ta trong bài Tin mừng hôm nay, bạn và tôi được Chúa nhắc nhở rằng mọi sự đời này rồi sẽ qua đi hết, chỉ có một điều cần thiết không bao giờ tan biến mà ta phải chuẩn bị ngay từ bây giờ, đó là Nước Trời! Để lắng nghe được sứ điệp Nước Trời, thì tôi và bạn phải ở trong sự tĩnh lặng của tâm hồn!
Lắng nghe Lời Chúa là điều cần thiết và tốt nhất. Dù sống trong hoàn cảnh nào hay làm việc gì, lắng nghe Lời Chúa vẫn là điều phải làm trước tiên.
2021
VÂNG NGHE THEO THIÊN THẦN BẢN MỆNH
02 26 Tr Thứ Bảy Tuần XXVI Thường niên.
Các Thiên thần hộ thủ, lễ nhớ.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Lễ nhớ có bài đọc riêng:
Xh 23,20-23; Mt 18,1-5.10.
VÂNG NGHE THEO THIÊN THẦN BẢN MỆNH
Thiên Chúa luôn yêu thương con người là những thụ tạo yếu đuối hay sa ngã. Vì thế, Người đã gửi đến cho mỗi người một vị thiên thần, gọi là Thiên Thần Bản Mệnh, để che chở và giữ gìn con người khỏi tay ma quỷ, từ lúc mới sinh cho đến khi qua đời. Thiên Thần Bản Mệnh còn là thầy dậy, mở lòng con người để họ biết được đạo thánh Chúa, giúp họ tuân giữ luật Hội Thánh dạy, cũng như tránh xa những điều tội lỗi. Thiên Thần Bản Mệnh còn là Đấng bầu cử, luôn cầu nguyện cùng Chúa cho con người.
Hôm nay Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về người bạn thân thiết của mỗi người, đó là vị Thiên thần Hộ Thủ của chúng ta. Mỗi người từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ đều được Thiên Chúa cắt cử một vị Thiên thần để che chở hộ phù bằng một cách thế chúng ta không chờ đợi và cũng chẳng tưởng tượng được. Đây là chân lý Giáo Hội muốn nhắc nhở và mời gọi chúng ta đào sâu hôm nay.
Mỗi người đều có một vị Thiên thần luôn sát cánh nhắc nhở chỉ bảo, hướng dẫn và gìn giữ trong từng đường đi nước bước của chúng ta. Dạy điều đó, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đi vào tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu vượt lên trên mọi dự đoán, tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu mà chúng ta vừa mừng kính hôm qua đã tìm ra được bí quyết hạnh phúc và đã mở ra một con đường nên thánh đơn sơ nhất đó là “hãy chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương”. Thảm kịch bi thảm nhất của con người đó là không cảm nhận hay không đón nhận tình yêu của Thiên Chúa; trái lại, ai đón nhận tình yêu của Thiên Chúa họ sẽ thấy rằng cuộc sống của họ là một chuỗi những phép lạ.
Giáo lý công giáo cũng viết:” Thiên thần và con người là những thụ tạo thông minh và tự do, nên phải tiến về cùng đích bằng một sự lựa chọn tự do và yêu chọn cái tốt hơn”. (SGLCG số 311) hoặc số 328 sách giáo lý công giáo nói: ”Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng, không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý đức tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế. Nếu ma quỷ, satan, và sự dữ đang vây lượn chung quanh con người, xung quanh thế giới để quấy nhiễu, ám hại con người như sư tử hung ác tìm mồi cắn xé, an ủi thay chính Thiên Chúa lại gửi đến cho nhân loại, cho con người những sự trợ giúp rất hữu hiệu của các thiên thần.
Chúng ta thường quen gọi các thiền thần này là các thiên thần hộ thủ hay thiên thần bản mệnh. Các thiên thần hộ thủ nâng đỡ con người, gìn giữ con người khỏi những hiểm nguy, khỏi sự dữ, giúp con người xa lánh mọi dịp tội, gợi lên trong tâm trí con người những ý tưởng lành thánh và dẫn con người đi vào con đường thánh thiện, đạo đức.
Các thiên thần hộ thủ thêm sức mạnh cho con người trong những cơn cám dỗ, trong những lúc gặp những sự thử thách hiểm nghèo, nâng đỡ và khuyến khích con người trong lúc thất vọng và an ủi con người trong những cơn u sầu, đen tối. Mỗi khi con người sa ngã vì yếu đuối, sai lầm, thiên thần hộ thủ giúp con người tỉnh thức hồi tâm, sửa đổi, quay về đường chính nẻo ngay, và bầu cử cho con người trước ngai toà Thiên Chúa. Các thiên thần bản mệnh cũng soi sáng, thêm sức cho con người trong giờ hấp hối.
Chính Chúa Giêsu cũng từng nhắc nhủ nhân loại: ”Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18, 10). Do đó, các vị là “những người đi thực hiện Lời Chúa, sẵn sàng phụng lệnh Người” (Tv 103, 20).
Mỗi người Chúa dựng nên đều có một thiên thần giữ mình, điều đó Chúa Giê-su đã khẳng định: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn nầy; quả thật, Thầy nói cho anh em biết; các thiên thần của họ không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt. 18, 10).
Và thánh Bê-na-đô minh chứng: “Chúa đã sai các thiên thần đến phục vụ các con, cắt đặt các ngài gìn giữ các con, và cho các ngài làm quản giáo cho các con”. Thánh Giê-gô-ri-ô nói: “Phẩm giá các linh hồn cao quý biết bao, vì mỗi linh hồn đều được Thiên Chúa ban cho một thiên thần chăm sóc”. Và thánh Ghê-rô-ni-mô viết: “Chúa biết ác tâm của ma quỷ, chúng luôn tìm cách ngăn cản không cho ai vào chỗ chúng đã mất trên thiên đàng, nên ban cho mỗi người một thiên thần hộ thủ, để chống trả kẻ thù của phần rỗi chúng ta”.
“Ma quỷ đông đúc và độc dữ như sư tử, ngày đêm rình chực hãm hại con người, thì Chúa cũng ban cho họ vô số thiên thần quyền phép hơn gìn giữ bảo hộ. Ngay lúc mới sinh ra, mỗi người đều có một thiên thần giữ mình. Dù lương hay giáo, dù lành hay dữ, ai ai cũng được Chúa thương cho thiên thần che chở. Chẳng những Chúa cho thiên thần bảo vệ từng người, mà còn cho các ngài gìn giữ các xã hội, các cộng đoàn, các gia đình, mọi nước, mọi thành, mọi nơi chốn có con người trú ngụ. Như lời thánh Tô-ma tiến sĩ nói: “Có thiên thần bảo hộ các quốc gia, dân tộc, thành thị, cộng đoàn cũng như mỗi người”.
“Thiên thần hộ thủ có trách nhiệm che chở chúng ta khỏi mọi sự dữ và gian nan khốn khó, cứu giúp chúng ta khỏi sa ngã phạm tội, giúp chúng ta làm lành lánh dữ, nâng đỡ chúng ta trong lúc yếu đuối, tăng thêm lòng can đảm mạnh mẽ, an ủi chúng ta trong những lúc sầu buồn đau khổ”.
“Các ngài còn giúp sức chúng ta lướt thắng các chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt thế gian. Và nếu chúng ta có lỡ lầm sa ngã, các ngài nâng đỡ chúng ta ăn năn hối cải”.
“Ngoài ra, các thiên thần hộ thủ dâng lên trước tòa Chúa các việc lành phúc đức và lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta được ơn lành của Chúa. Các ngài an ủi soi sáng chúng ta trong cơn bệnh hoạn chết chóc, và bênh đỡ chúng ta trong ngày phán xét”.
Nếu sức mạnh của sự dữ và ma quỉ đông hàng hà sa số, đang ngày đêm bay lượn quanh nhân loại, xung quanh chúng ta để tìm cơ hội làm hại con người thì sung sướng và hạnh phúc, vững dạ thay khi Chúa gửi đến cho loài người một sức mạnh vô cùng hữu hiệu là các Thiên Thần. Sự trợ giúp này, Chúa và Giáo Hội gọi là các Thiên Thần Hộ Thủ hay Bản Mệnh. Các Thiên Thần Bản Mệnh gìn giữ con người khỏi hiểm nguy, khỏi mọi sự dữ quấy phá, đưa con người tránh xa dịp tội để con người kết hợp và tiến bước tới Chúa.
2021
Tinh Thần Trẻ Thơ
Tháng Mân Côi
01 25 Tr Thứ Sáu Tuần XXVI Thường niên.
THÁNH TÊ-RÊ-SA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU, TRINH NỮ, TIẾN SĨ HỘI THÁNH, QUAN THẦY CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO, lễ kính.
Thứ Sáu đầu tháng. Ngày đền tạ Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Kinh thần vụ: Thánh Trinh nữ.
Is 66,10-14c; Mt 18,1-5.
Tinh Thần Trẻ Thơ
Ngày 19 tháng 10 năm 1997, thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu được ĐGH Gioan Phaolô II trao tặng danh hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Ngài là người trẻ nhất (24 tuổi) trong 3 vị nữ thánh được trao tặng danh hiệu này.
Nhìn vào cuộc đời của chị Têrêsa chúng ta chắc không khỏi ngạc nhiên thắc mắc: “Đâu là điều khiến chị có được danh hiệu ấy ?”; bởi cuộc đời chị quá đơn giản và bình thường, chẳng có chi là nổi trội. Thậm chí có người còn nhận xét: “Có lẽ với cuộc đời ấy chị đã chìm vào quên lãng, nếu không để lại cuốn tự thuật ‘Truyện một tâm hồn’ mà chị viết vì vâng phục.”
Bạn đã bao giờ nghe về Thánh Thérèse hay Thánh Têrêsa Hài Đồng và những bí mật về thánh nữ ? Bạn có biết tại sao có rất nhiều người chọn ngài làm thánh quan thầy, và là người bạn gần gũi nhất của mình không ?
Thérèse Martin sinh ra trong một thị trấn thuộc Alencon, Pháp vào ngày mùng 2 tháng 1 năm 1873. Chị ấy là con gái út trong gia đình gồm 5 chị em gái. Khi chị ấy còn rất nhỏ, mẹ của chị ấy mắc căn bệnh ung thư. Vào thời đó, họ không có thuốc và sự điều trị tốt như ngày nay. Các bác sĩ đã cố gắng hết sức nhưng căn bệnh của bà Martin vẫn ngày càng nặng thêm. Bà ấy đã mất khi Thérèse mới chỉ 4 tuổi.
Đó là khi bố của Thérèse quyết định tốt hơn nên chuyển nhà đến Lisieux, một thị trấn khác, nơi có nhiều người thân sinh sống. Ở đó có tu viện Carmelite, một tu hội dòng kín, nơi mà các thiếu nữ làm một công viêc đặc biệt đó là cầu nguyện cho toàn thế giới. Khi Thérèse được 10 tuổi, một chị gái của chị là Pauline đã xin nhập dòng Carmelite ở Lisieux. Điều đó thật khó khăn cho Thérèse vì chị Pauline giống như người mẹ thứ hai của Thérèse, chăm sóc và dạy dỗ chị ân cần như mẹ chị đã từng làm. Thérèse nhớ chị Pauline đến phát ốm. Suốt cả tuần sau đó chị vẫn chưa khỏi, các bác sĩ không biết chị ấy đã gặp vấn đề gì. Bố và 4 chị gái của Thérèse đã cầu xin Thiên Chúa giúp. Một ngày sau, tượng Đức Mẹ trong phòng ngủ của Thérèse bỗng dưng mỉm cười với Thérèse và chị ấy hoàn toàn bình phục!
Một lần khác, Thérèse nghe tin về một người đàn ông đã gây ra ba vụ giết người và thậm chí còn không biêt hối lỗi. Chị ấy quyết định cầu nguyện và làm một việc hy sinh để cầu nguyện cho ông ấy (như từ bỏ một cái gì đó mình thích hay làm một việc nào đó mà mình không thích). Chị ấy cầu xin Chúa thay đổi tâm hồn người đàn ông ấy. Trước khi người đàn ông đó chết, ông ta hỏi về cây thánh giá và hôn lên hình Chúa Giêsu. Thérèse cảm thấy rất hạnh phúc, chị biết rằng ông ta đã tin vào Chúa và nhân đón nhân ơn sám hối.
Thérèse rất yêu mến Chúa Giêsu. Chị muốn dâng hết cả con người mình cho Chúa. Chị muốn gia nhập dòng Camelô để có thể dâng hiến đời mình để làm việc và cầu nguyện cho mọi người, nhất là những người còn chưa biết đến lòng thương xót Chúa. Nhưng Thérèse gặp một trắc trở. Chị ấy còn quá trẻ, chị cần phải cầu nguyện và chờ đợi thêm. Cuối cùng thì chị cũng được 15 tuổi, được phép gia nhập vào tu viện.
Chị Thérèse đã làm gì trong thời gian ở tu viện ? Không gì đặc biệt cả. Bí mật của chị ấy là: Yêu mến. Có một lần Thérèse nói rằng: “Thiên Chúa không muốn chúng ta phải làm điều này điều kia cho Ngài, mà Ngài muốn chúng ta yêu Ngài là đủ”. Vì thế, Thérèse đã ước muốn và thực hành đời sống yêu mến Chúa. Chị tập kiên nhẫn và ân cần với mọi người, điều đó thật không dễ chút nào. Trong thời ấy, lúc các chị đang giặt quần áo bằng tay (lúc đó máy giặt chưa được phát minh!). Có một chị luôn làm bắn tóe nước bẩn vào mặt chị Thérèse. Nhưng Thérèse chẳng bao giờ tỏ ra bực bội. Thérèse thường hay giúp đỡ một chị lớn tuổi có tính cáu gắt và luôn phàn nàn về mọi thứ, bởi vì chị Thérèse không cảm thấy thích việc đó. Thérèse muốn đối xử với chị ấy như với chính Chúa Giêsu. Chị biết rằng khi mình yêu những người khác tức là mình đang yêu chính Chúa Giêsu. Tình yêu khiến Thérèse trở nên hạnh phúc.
Thérèse chỉ sống đời tu 9 năm. Căn bệnh lao đã xảy đến với chị, nó khiến chị phải chịu rất nhiều đau đớn. Không có sự điều trị đối với căn bệnh ấy, các bác sĩ cũng không thể giúp được nhiều cho chị. Thérèse qua đời khi mới chỉ 24 tuổi. Nhưng trước khi chết, chị đã hứa sẽ không từ bỏ điều bí mật của mình. Chị hứa sẽ luôn yêu thương và giúp đỡ mọi người khi về quê trời. Trước khi mất, Thérèse đã nói: “Tôi sẽ gửi mưa ơn lành từ trời xuống mặt đất”. Và chị ấy đã làm được điều đó! Tất cả mọi người trên thế giới, những người đã nhờ thánh Thérèse Lisieux cầu xin đến Thiên Chúa đều nhận được sự đáp trả qua lời cầu nguyện của họ.
Thérèse đã khám phá ra “con đường nhỏ” để đến với Thiên Chúa: Thérèse muốn nên Thánh. Ngài biết Thiên Chúa rất muốn giúp đỡ mình và đặt hết mọi tin tưởng nơi Thiên Chúa và yêu Chúa hết cả tấm lòng, sau đó ngài quan tâm, đối xử tốt với mọi người xung quanh, từ những việc đơn giản nhất. “Con đường nhỏ” của Thérèse là làm mọi việc bạn có thể làm cho người khác vì yêu mến Chúa. Đó chắc chắn là cách để bạn có thể nên thánh.
Tin Mừng Mátthêu được cấu trúc xoay quanh năm diễn từ dài của Chúa Giêsu, và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp sống của người môn đệ trong cộng đoàn. Tin Mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của nếp sống người môn đệ trong cộng đoàn.
Trước hết là thái độ sống trẻ thơ. Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định: “Khi người lớn chúng ta không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì chúng ta không còn giữ được tính người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy chỉ biết ăn uống và kiếm tiền”. Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời. Thái độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ và thiên nhiên nhắc nhớ sự khâm phục mà chúng ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng ta phải đáp trả đối với tình yêu thương của Thiên Chúa.
Nhận định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ trong cộng đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin tưởng phó thác, không có thái độ kẻ cả.
Chúa Giêsu gọi em nhỏ đến ngay lập tức. Ngài đặt em đứng giữa các ông . Trẻ nhỏ thời bấy giờ được xem là người yếu thế, không thể tự quyết, có bổn phận phải phục tùng, không được ý kiến và phải vâng lời người lớn trong mọi sự cách tuyệt đối, như trong thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ga-lát “Bao lâu người thừa tự còn là một đứa con nít, nó chẳng khác gì một kẻ nô lệ” (Gl 4, 1).
Trẻ nhỏ là một kẻ nô lệ. Chúng ta nghe Chúa Giêsu trả lời: “Thày bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Một chân lý sống. Một lời khẳng định mang tính quả quyết. một câu điều kiện để được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Thật vậy, để đạt được Nước Trời, phải thay đổi và trở nên trẻ nhỏ, nghĩa là phải tập cho mình tinh thần phó thác, khiêm nhu của con trẻ. Và Chúa Giêsu kết luận: “vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời”. Kẻ nào tự cho mình là bé mọn, là thấp kém, không là “cái rốn vũ trụ”, thì trước mắt Thiên Chúa, kẻ ấy có tầm quan trọng trong vương quốc của Ngài.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn đẩy xa hơn tinh thần trẻ thơ đến độ “Ai tiếp đón em nhỏ vì danh Thày là tiếp đón chính Thầy”. Ngài đồng hóa mình với em nhỏ, vì Ngài đã vâng lời Thiên Chúa đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thánh giá “Xin cho ý Cha được thể hiện”. Ngài tín thác vào tình yêu Thiên Chúa ngay cả trong lúc cảm thấy đau đớn nhất, cô đơn nhất “Con phó hồn con trong tay Cha”.
Những đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng đoàn chấp nhận và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người cụ thể dĩ nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ sống kỳ thị tách biệt khỏi những người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở ra một viễn tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và vui mừng khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với sự thật, với tình thương và với người anh em.
Xin Chúa cho chúng ta sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong tương quan với người khác. Xin cho chúng ta sống tin tưởng, yêu thương phục vụ mọi người vì tình yêu Chúa.