2022
Tin nhận Chúa
9.4 Thứ Bảy trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Ed 37:21-28; Gr 31:10,11-12,13; Ga 11:45-57
Tin nhận Chúa
Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện các thượng tế và biệt phái hạ quyết tâm giết Chúa Giêsu. Thượng tế Caipha nói: “Thà một người chết thay cho dân…” Thánh Gioan hiểu lời này, tuy Caipha nói ra một cách vô ý thức, nhưng thực sự diễn tả rất đúng ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu: “Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân. Và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối”.
…Với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân. Và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối”. trong số những người được Chúa chết thay, có tôi nữa.
Chúa Giêsu đã chịu chết thay cho người khác. Ngài nêu lên cho chúng ta một lý tưởng rất đẹp mà sự khôn ngoan của chúng ta không bao giờ nghĩ tới được. Nếu hôm nay tôi chưa chết thay cho người khác được, thì ít ra hãy tập những hành vi nho nhỏ chịu cực khổ vì người khác, cho người khác và thay cho người khác.
Tin mừng hôm nay cho thấy lý do tại sao người Do Thái không tin nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Họ không tin nhận vì họ đứng ở vị thế chính trị: Họ mong đợi một Đấng Cứu Thế giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại bang, trong khi đó, Chúa Giêsu lại đứng ở vị thế hoàn toàn tôn giáo. Ngài đến để giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi.
Chứng kiến việc Chúa Giêsu cho Lazarô đã chết bốn ngày được sống lại, có nhiều người Do thái tin vào Ngài. Nhưng các thượng tế và biệt phái lại sợ rằng Ngài càng làm nhiều phép lạ, dân chúng càng tin theo Ngài, thì chính quyền Rôma sẽ đến tiêu diệt dân tộc, nên họ bàn luận và quyết định: “Thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. Người đó không ai khác hơn là Chúa Giêsu, một mình Ngài hy sinh chịu chết để đem lại sự sống cho muôn người.
Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết để cứu độ toàn thể nhân loại và qui tụ muôn dân thành một dân mới của Thiên Chúa là Giáo hội. Thật là một thay thế lạ lùng: chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể thay thế cho mọi người, và vô tình sự tính toán vụ lợi của con người đã giúp Thiên Chúa thực hiện chương tình cứu rỗi của Ngài.
Cái chết của Chúa Giêsu qui tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi về một mối.
Trong bài giảng về “mục tử nhân lành”, Chúa Giêsu từng nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Như vậy, sau cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, một dân mới của Thiên Chúa được khai mở, không còn bị giới hạn trong dân tộc Israel nữa; con cháu của tổ phụ Abraham không chỉ thuộc huyết thống nữa mà là những ai tin vào Con Thiên Chúa; một cuộc tân sáng tạo bắt đầu, mọi Kitô hữu khắp nơi trên thế giới được sinh ra dưới chân thập giá và xuất phát từ cạnh sườn Chúa Giêsu. Sự sáng tạo ban đầu đã nhiệm lạ, thì ơn cứu độ còn lạ lùng biết bao.
Chúa Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta để làm cho những ai tin vào Người được trở nên công chính. Ngài đã chết vì yêu thương con người. Chính cái chết của Người đã tiêu diệt thần chết là sự hận thù. Người đã chết và đã phục sinh để ban cho chúng ta sự sống thần linh của Người. Mùa chay, mùa Giáo hội mời gọi Ki-tô hữu chúng ta suy ngắm mầu nhiệm tình yêu của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc thương khó và mầu nhiệm vượt qua của Người, để nhìn lại chính bản thân mình, nhận ra tội lỗi mình đã góp phần vào cái chết ấy để sám hối, trở về bằng cuộc canh tân đổi mới thực sự.
Vâng, những thói tự mãn, kiêu căng làm cho chúng ta dễ đố kỵ, và tìm cách hạ bệ tha nhân và phạm muôn vàn tội lỗi khác. Đồng thời mỗi khi chúng ta cư xử bất công, trùy dập một ai đó, hoặc có những lời nói làm mất đi thanh danh tiếng tốt của người anh em, thì chính chúng ta cũng đã tham gia vào bản án mà Chúa Giêsu phải chịu.
Hoặc khi chúng ta lặng thinh không dám nói lên lời bảo vệ và làm chứng cho sự thật là chúng ta cũng đã tham gia vào bản án bất công. Hơn nữa, để sống chứng nhân, Ki-tô hữu phải can đảm sống sự thật, không toa rập và chống lại những gian dối, bất công xã hội bằng những phương tiện có thể được trong khả năng của mình. Tuy nhiên, sự khiêm tốn, mềm mỏng, khéo léo sẽ là trợ tá đắc lực cho việc bảo vệ công lý.
Trong bất cứ xã hội nào, ngày xưa cũng như ngày nay, độc lập, tự do, quyền lợi của quốc gia dân tộc, thường được người ta nại đến, để biện minh cho chiến tranh và việc giết hại người vô tội, chẳng hạn hy sinh một mạng người có là gì, miễn là có lợi cho quốc gia và dân tộc.
Qua cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu trở nên của đầu mùa hoàn hảo dâng lên Thiên Chúa Cha. Ngài đã vạch ra cho nhân loại một con đường mới, con đường đó là một lối đi nhỏ hẹp, khó khăn nhưng lại dẫn đến một vinh quang rạng ngời.
Trong cuộc sống, mọi người đều muốn chọn những việc nhẹ nhàng cùng với vinh quang, còn việc gian khổ, tủi nhục thì cứ để mặc ai.
Cũng thế, khi các thượng tế và người Pharisêu thấy nhiều người tin vào Chúa Giêsu, họ ghen tị và sợ bị mất vinh quang đang có nên đã tìm cách ngăn cản. Cuộc sống của chúng ta cũng giống như những người Pharisêu luôn tìm cách hạ người anh em của mình xuống để đứng lên. Khi đó, chúng ta biến người anh em trở thành bàn đạp cho chúng ta vươn tới vinh quang, danh vọng. Bài Tin Mừng hôm nay thức tỉnh chúng ta hãy ý thức về những việc mình làm, đừng tìm hư danh chóng qua nhưng biết tìm kiếm vinh quang vĩnh cửu khi can đảm bước theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã chấp nhận xuống trần gian mang thân con người để gánh hết tội lỗi của nhân loại và chết thay cho dân để cho dân được sống. Ngài như con chiên vô tội bị đem đi giết, chịu sát tế để đền bù tội lỗi cho thiên hạ. Chúa Giêsu đã thực hiện lời Ngài dạy bảo cho dân về tình yêu trao ban trọn vẹn, một tình yêu dâng hiến tất cả cho người mình yêu.
Suy gẫm lời thư thánh Phao-lô: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8), và làm một việc hy sinh phục vụ để diễn tả tâm tình của bạn muốn đáp đền tình Chúa yêu thương.
Không ai có thể yêu người khác, nếu không hề cảm nghiệm mình được yêu. Bước vào Tuần Thánh, chúng ta hãy chiêm ngắm và cảm nghiệm Tình Yêu của Đức Giê-su dành cho mình, dù chúng ta không đáng được như thế, để có thể dám sống và dấn thân cho Tình Yêu của Ngài.
2022
Đừng cứng tin
8.4 Thứ Sáu trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Gr 20:10-13; Tv 18:2-3,3-4,5-6,7; Ga 10:31-42
Đừng cứng tin
Vào dịp mừng lễ Cung hiến Đền thờ ở Giêrusalem, người Do thái vây quanh Đức Giêsu, cật vấn Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không? Đây là câu hỏi để gài bẫy: Nếu Ngài tự xưng mình là Đấng Cứu Thế, họ nghĩ chính quyền Rôma sẽ bắt tội Ngài. Nếu Ngài hối, họ sẽ buộc Ngài vào tội lừa dối dân.
Ðây là lần thứ hai những người Do Thái muốn ném đá Chúa Giêsu vì Người xưng mình là Con Thiên Chúa. Sự xung khắc giữa hai bên, một bên vì sự thật, bên kia vì mê muội, càng ngày càng gia tăng. Chúa Giêsu cương quyết thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Người bất chấp mọi nguy hiểm, kể cả nguy cơ bị giết chết. Người Do Thái cũng nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu vì họ cho Người phạm thượng. Cuộc đối kháng sẽ đi đến cao trào vào ngày lễ Lá khi Chúa Giêsu công khai vào thành Giêrusalem với tư cách là Ðấng Mêsia. Về phía các đối thủ của Chúa Giêsu, họ cũng lập một kế hoạch để trừ khử Người.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi đó. Thừa dịp này, Ngài tuyên bố một chân lý quan trọng: Ngài là Con Thiên Chúa và đồng bản tính với Thiên Chúa: “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha”.
Trong các cuộc tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã mặc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan giữa Ngài với Chúa Cha: “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha”. Nhưng người Do Thái không thể hay không muốn tin vào Chúa. Họ vẫn khăng khăng coi Ngài chỉ là một con người. Do đó họ lượm đá ném Chúa vì cho Ngài là lộng ngôn… Những người Do Thái này đã quá chìm sâu trong tội lỗi của họ. Họ không cảm thấy cần ơn cứu độ. Người Kitô hữu chúng ta ngày nay cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tinh thần thế tục: chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu như một con người, một nhà cách mạng không hơn không kém. Chúng ta có thể bị cám dỗ lượm đá ném Chúa vì những gì liên hệ đến Ngài
Chúng ta thấy người Do thái không tin Ngài là phải, vì bài Tin mừng hôm nay cho thấy lý do tại sao người Do thái không tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa. Họ không tin nhận vì họ đứng ở vị thế chính trị: họ mong đợi một Đấng Cứu Thế giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại bang; trong khi đó, Đức Giêsu lại ở vị thế hoàn toàn tôn giáo. Ngài đến giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi. Hai người đứng trên hai quan điểm khác nhau mà nói chuyện thì không bao giờ đi đến kết luận chung.
Câu hỏi “Đức Giêsu là ai”, Ngài có phải là Con Thiên Chúa không? Câu trả lời vẫn còn lơ lửng, chưa ngã ngũ! Trong ba năm giảng dạy, với nội dung giảng dạy, và cách thức giảng dạy của Đức Giêsu đã khiến mọi người ngạc nhiên thán phục. Thêm vào đó, những phép lạ Chúa làm lại củng cố thêm cho sự thán phục này. Dầu vậy, thính giả của Ngài vẫn thắc mắc hỏi nhau: Giêsu là ai? Nhiều người cho Ngài là một tiên tri nào đó như Isaia, Êlia, Giêrêmia hay một tiên tri nào khác đã sống lại. Chính các Tông đồ cũng vẫn thắc mắc: Ngài là ai? Câu hỏi này đã được chính Chúa Cha trả lời: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là con rất yêu quí của Chúa Cha. Bằng chứng: hai lần Chúa Cha đã tuyên bố công khai như vậy, một lần ở sông Giođan lúc Ngài chịu phép rửa và một lần nữa ở trên núi Taborê khi Ngài biến hình.
Chính Đức Giêsu cũng đã nhiều lần tuyên bố như vậy. Chẳng hạn dụ ngôn “những người làm vườn nho hung ác” đã giết đứa con duy nhất của ông chủ. Chúa đã dùng hình ảnh đó để ám chỉ chính Ngài đã được Chúa Cha sai đến trần gian và bị người Do thái giết chết nơi đồi Calvariô…
Người Do thái vì cứng lòng, không chịu nhận Đức Giêsu và lời giảng dạy của Ngài. Họ kết tội Ngài phạm thượng, vì đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa. Dân Do thái chỉ nhớ một điều họ không bằng lòng, mà quên đi nhiều điều tốt lành Đức Giêsu đã làm cho họ: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng. Ông là người phàm, mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33). Với họ, Đức Giêsu chỉ là con người bình thường, một thanh niên con bác thợ mộc Giuse và bà Maria ở làng quê Nazareth nghèo nàn.
Dù họ chấp nhận hay không, thì Đức Giêsu vẫn là Con Thiên Chúa, như lời Đức Giêsu đã mạc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan quan giữa Ngài với Chúa Cha: “Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha”. Ngài đến để làm chứng cho sự thật. Nhưng chính bởi sự thật đó, có nhiều người đã chống đối và cũng có nhiều người tin vào Ngài.
Vậy chúng ta bảo Đức Giêsu là ai? Chúng ta phải tin và xác quyết rằng Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là người thật.
Đức Giêsu là Thiên Chúa thật. Trong ba năm sống công khai, Ngài đã không ngừng xác quyết điều đó. Ngài tự xưng mình cao trọng hơn Abraham, lớn hơn Maissen… Tất cả những lời tuyên bố trên đã được Đức Giêsu chứng thực và xác nhận bằng các phép lạ, trong đó sự sống lại của Ngài là bằng chứng cao cả nhất về Thần tính của Ngài.
Đức Giêsu cũng là con người thật. Con người đó cũng có một thân xác như chúng ta. Về phương diện tình cảm, Ngài biết rung động trước vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên, Ngài nghiêng mình và xoa dịu những vết thương đau của nhân loại, nhất là những kẻ yếu đau và người tội lỗi.
Khi con người không còn coi trọng luân lý, thì tiếng nói lương tâm trở nên dư thừa với họ. Như vậy, chuẩn mực trong cuộc sống được đo bằng tiền, quyền, và lẽ tất yếu, chân lý thuộc về đám đông hay những kẻ mạnh! Đây là sự thật xót xa đã xảy ra thời Đức Giêsu!
Nhìn thấy sự khó tin của người Do Thái đối với Chúa Giêsu, rồi nhìn lại đức tin của mình sao mà dễ dàng quá: ngay từ khi mới sinh ra mình đã được biết Chúa và tin Chúa, ta không nhận ra đức tin là một hồng ân sao ? Hãy cám ơn Chúa đã ban đức tin cho chúng ta, và xin Ngài gìn giữ đức tin ấy khỏi bị lạc mất.
2022
Niềm Tin Và Lý Trí
7.4 Thứ Năm trong tuần thứ Năm Mùa Chay
St 17:3-9; Tv 105:4-5,6-7,8-9; Ga 8:51-59
Niềm Tin Và Lý Trí
Khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Người, cho rằng Người bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Chúa Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Người dùng danh xưng Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến. Câu nói ấy đã khiến người Do Thái phẫn nộ và định ném đá Người.
Thiên Chúa không dựa theo lý lẽ của con người để thực hiện công việc của mình, Thiên Chúa làm theo cách của Ngài. Những ai muốn nhận ra chương trình của Thiên Chúa thì cũng phải tập nhìn mọi sự theo cách nhìn của Ngài. Những người Do Thái không muốn nhìn như thế, họ nhìn vào Chúa Giêsu và họ chỉ thấy đó là một con người tuổi chưa đầy năm mươi mà dám khoác lác nói rằng mình đã thấy tổ phụ Abraham, lại còn dám xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa nữa. Họ không thể chấp nhận thái độ cao ngạo và phạm thượng ấy. Họ phải ném đá kẻ ngông cuồng này.
Quả đúng như lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người. Người đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 9-11).
Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết, muốn được sống đời, chúng ta phải tin tưởng và vâng theo lời Ngài dạy: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.”
Hiển nhiên, “không bao giờ phải chết” mà Chúa Giêsu nói ở đây, không phải giới hạn ở sự sống bất tử của thể lý nơi trần gian này, nhưng ở tầm mức lớn lao hơn, liên quan đến cuộc sống vĩnh cửu, là “sự sống đời đời” của chúng ta.
Sự sống đời đời là gì? Như thánh Gioan đã dạy cho chúng ta, sự sống đời đời là việc chúng ta “nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Chương 8 dường như là một cuộc triển lãm các tác phẩm nghệ thuật, nơi mà người ta có thể chiêm ngưỡng và lặng ngắm những bức tranh nổi tiếng, đặt bên cạnh nhau. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta một bức tranh, và cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do Thái. Không mấy có sự liên kết từ bức tranh này sang bức tranh kia. Chính người thưởng lãm, nhờ vào sự quan sát tường tận và cầu nguyện của mình, mới có thể thành công khám phá chủ đề vô hình gắn kết các bức họa, các cuộc đối thoại giữa các bức tranh. Vì vậy, chúng ta đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao trùm con người của Chúa Giêsu.
Bất cứ ai tuân giữ lời của Chúa Giêsu thì muôn đời sẽ không phải chết. Chúa Giêsu đưa ra một lời xác tín long trọng; các tiên tri đã nói: Sấm ngôn của Thiên Chúa! Chúa Giêsu nói: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi!” Và lời khẳng định long trọng như sau: “Ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết!” Cùng một chủ đề này xuất hiện và tái xuất hiện nhiều lần trong sách Tin Mừng Gioan. Đây là những lời rất sâu sắc.
Một người dám sống chứng nhân cho Tin Mừng là người dám đứng về phía sự thật. Có những sự thật chúng ta vì tiếng lương tâm phải nói ra, dẫu cho sự thật ấy có nguy cơ làm cho chúng ta bị trù dập. Như Chúa Giêsu, đã đến giờ Người nói rõ mọi sự về Người, dẫu sự thật này sẽ là nguyên nhân đưa Người đến thập giá chăng nữa.
Từ lâu, Chúa Giêsu bị coi là cái gai trong mắt của những nhà lãnh đạo Do thái, như là Pharisêu, Tiến sĩ luật, phái Sađốc. Họ muốn loại bỏ Chúa Giêsu, vì lý do Người từng lên án thói đạo đức giả của họ; thêm nữa, họ nhận thấy những lời Chúa Giêsu chứa đầy nghịch lý: chưa được năm mươi tuổi mà xưng mình “có trước Ábraham”; còn bảo ai tuân giữ Lời Chúa thì được sống, thế mà “Ápraham và các tiên tri đã chết”; lại cả gan xưng mình là “Đấng Hằng Hữu”, danh xưng chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, họ bàn cách loại trừ bằng việc ném đá, xô xuống vực hay đóng đinh như một tử tội.
Con người cần nhờ Chúa Giêsu Kitô để đến được với Chúa Cha mà hưởng sự sống vĩnh cửu. Cho nên, những nguy hiểm không làm Chúa Giêsu chùn bước vì sứ mạng Chúa đến để cứu chuộc con người, để mặc khải sự thật. Chính vào lúc Chúa Giêsu bị đối xử như một tử tội, bị cho là ở trong hoàn cảnh bi đát, yếu đuối, bất lực và đầy sự chế nhạo nhất, là lúc Người được Chúa Cha tôn vinh. Người được tôn vinh không phải trên ngai vàng mà là trên thánh giá. Thánh giá mới là nguồn phát sinh ơn sự sống.
Đã có nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cố tình từ chối chân lý, sống ngụp lặn trong tội, bỏ ngoài tai tiếng nói lương tâm, lề luật Chúa cùng giáo huấn của Hội Thánh. Mùa Chay thánh sắp qua đi, nên đây là lúc chúng ta cần mau mắn chạy đến với Chúa và xin Ngài mở con mắt đức tin, nhờ đó chúng ta nhận ra thân phận yếu đuối của mình.
Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó cũng có những thành kiến do một số người có đạo tạo nên.
Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mặc khải thêm về thân thế của Ngài… Nhưng với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: Ông là ai ? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao ? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám… Sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ của tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tị tham lam.
Khi bước vào trần gian với sứ mạng là Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn suy nghĩ và cách sống của con người bằng chính cuộc sống vâng ý Cha trên trời của Ngài. Thật vậy, nhờ vâng phục Chúa Cha, Ngài đã hoàn toàn phó thác đời mình cho chúng ta đến nỗi “bằng lòng chết và chết trên thập giá.” (Pl 2,8).
Lời Chúa nói và những việc Ngài làm trong suốt thời gian tại thế là những gì Ngài muốn chúng ta suy niệm và noi theo, để cùng Ngài chu toàn thánh ý Chúa Cha trong khả năng và trách nhiệm của mình. Thiên Chúa chính là Sự Sống nên Lời Ngài là Lời đem lại sự sống cho con người. Vì thế, ta phải ghi nhớ, suy niệm và vâng giữ Lời ban sự sống ấy trong cuộc sống hằng ngày của mình.
Cũng như tình yêu, đức tin không dựa trên lý lẽ. Lý trí có thể đưa chúng ta đến bên bờ của đức tin, rồi để mặc chúng ta ở đấy. Không phải lý trí bỏ rơi chúng ta nhưng lý trí không thể giúp chúng ta vượt qua được mép bờ huyền nhiệm của đức tin. Ðứng trên mép bờ huyền nhiệm ấy, tác động thích hợp duy nhất là yêu mến và phó thác. Tổ phụ Abraham đã yêu mến Thiên Chúa và đã phó thác mọi sự cho Ngài và đã được toại nguyện. Ðức Maria cũng đã khẳng định tương tự. Các thánh cũng hành động như thế; còn chúng ta, chúng ta hành động ra sao?
2022
Sự thật sẽ giải phóng các ông
6.4 Thứ Tư trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Đn 3:14-20,91-92,95; Đn 3:52,53,54,55,56; Ga 8:31-42
Sự thật sẽ giải phóng các ông
Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những người Do Thái mới tin vào Ngài. Lòng tin của họ chưa được trọn vẹn và Ngài đề nghị những biện pháp để củng cố niềm tin đó, như sống theo lời Chúa, chấp nhận được giải thoát khỏi tội lỗi, phát triển mối tương quan với Ngài. Tuy nhiên, các người Do Thái không đủ khiêm tốn để chấp nhận đề nghị của Chúa, họ tự phụ cho mình là con cái của Abraham và do đó không cần ai dạy thêm điều gì nữa, cũng chính vì thế họ không thể tiến xa hơn trên con đường đức tin.
Chúa Giêsu đã đương đầu sự chống đối và thù ghét của họ bằng sự can đảm và quyết tâm thực thi ý Cha. Người sẵn sàng ôm lấy thập giá để hủy diệt công việc của Satan và giải cứu người Do Thái và dân ngoại ngang qua lễ đền tội của Người cho tội lỗi của thế gian. Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta con đường tới vương quốc của Thiên Chúa – ngang qua đức tin và sự vâng phục lời Chúa và ý Chúa dành cho cuộc đời chúng ta. Trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu đòi hỏi đức tin và sự vâng phục – chúng là hai mặt của cùng một đồng tiền. Hạn từ môn đệ theo nghĩa đen là người học hỏi Thầy mình và lắng nghe tiếng nói của thầy. Và hạn từ vâng phục theo nghĩa đen là lắng nghe và lệ thuộc vào người có thẩm quyền đúng đắn để giảng dạy và tuyên bố điều gì là ngay chính và chân thật.
Chúa Giêsu đã nói: Ai ở lại trong Ta thì biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho kẻ đó được tự do. Sự tự do mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Khi phạm tội, chúng ta bị trói buộc vào con đường của ma quỉ, của những đam mê dục vọng. Chúng ta chỉ có thể sống hạnh phúc và tự do khi sống đúng địa vị làm con Thiên Chúa. Sự tự do ấy chỉ có được trong Chúa Giêsu, khi chúng ta liên kết cuộc đời chúng ta với Ngài.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu nói cho người Do thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phải làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do. Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”.
Giải phóng cho chúng ta tự do… Sự tự do mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Chúa Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa – con cái tự do.
Khi nguyên tổ Adong-Evà phạm tội lỗi nghịch cùng Chúa, ma quỉ đã đem tội lỗi vào trần gian. Và khi tội lỗi xâm nhập trần gian, con người đắm chìm trong tội, nô lệ cho mọi khuynh hướng xấu, bị giam hãm trong tội nguyên tổ, sự xuống cấp của một luân lý suy đồi “tội trần gian” và làm tôi cho ma quỉ. Tự sức mình con người không thể tự giải thoát mình, nên cần đến ơn Cứu độ. Đức Giêsu đã phải trả giá đắt để chuộc con người và đem con người trở nên con cái tự do. Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8,35).
Muốn được sống tự do, muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Nhà văn văn Shakespeare nói: “Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại”. Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan. Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm, nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời: “Con chẳng có tội gì!”
Người Do Thái tự cho mình là tự do, là dòng dõi Abraham và là con Thiên Chúa, nhưng rốt cuộc họ hành động bạo lực : họ ném đá Chúa Giê-su. Còn Chúa Giê-su cũng mặc khải mình là Con Thiên Chúa, nhưng hành động cách hiền lành. Chính những cung cách hành động như thế cho thấy, ai ở trong sự thật và ai ở trong gian dối. Gian dối đi đôi với bạo lực, còn sự thật đi đôi với hiền lành.
Tin rằng Thiên Chúa coi chúng ta là những người công chính trong Đức Giêsu-Kitô, có lẽ là phương cách thích hợp nhất với Tin Mừng, để cuối cùng có được sự xấu hổ đối với tội của chúng ta và nhất là có được nhiều lòng thương cảm hơn đối với tội của những người khác.
Chúa Giêsu khẳng định cho họ biết rằng: nếu họ ở trong Lời của Ngài, tức là sự thật thì họ thuộc về Ngài và trở thành môn đệ, bằng không sẽ trở thành nô lệ cho tội và bị truất phế bất cứ lúc nào!
Khi xác định như thế, Chúa Giêsu cảnh báo sự kiêu ngạo tự phụ của người Dothái. Bởi vì họ luôn nghĩ rằng mình thuộc hạng người ưu tuyển, dân riêng, nên có đặc quyền đặc lợi trước mặt Thiên Chúa và không ai có quyền đụng tới họ.
Khi sống trong tội và sự dối trá, con người luôn bất an dầu cho có tự do về mặt thể lý. Vì vậy, muôn đời, chỉ có sự thật mới giải phóng con người. Ấy vậy, vẫn còn quá nhiều người u mê chọn cho mình một thể chế chính trị hay một đường lối giả dối để suốt đời bất an. Bất an đến mức khi thấy sự thật họ phải che mặt lại như tù nhân quá lâu ngày trong hang tối lần đầu tiên thấy mặt trời. Hãy can đảm đối diện dù lúc đầu nước mắt chứa chan nhưng sẽ được ngẩng cao đầu và bước đi trong tự do. Là Kitô hữu, chúng ta được hạnh phúc hơn hết vì chúng ta có Sự Thật là chính Chúa Giêsu Chúa chúng ta. Người giải phóng và đưa ta vào vương quốc tự do. Xin cho mỗi chúng ta biết can đảm sống thật, để sự thật sẽ giải thoát chúng ta.
Sự giải thoát mà Chúac Giêsu ban cho các môn đệ là sự giải thoát khỏi quyền lực tội lỗi, Satan, và ảnh hưởng thế tục của những kẻ chống đối Thiên Chúa và những đường lối của Người. Chúng ta bất lực để tự giải thoát mình khỏi sự ràng buộc của Satan, tội lỗi, và cái chết (Rm 3,23; 5,6). Ðó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã mang lấy những tội lỗi trên mình và đóng đinh chúng vào thập giá (1Pr 2,24; Is 53,5-6; Col 2,14). Cái chết của Người trên thập giá đã mang lại chiến thắng và sự tha thứ cho chúng ta, và sự bình an với Thiên Chúa.
Ngang qua hy lễ của Chúa Giêsu, chúng ta không chỉ được tha thứ và hòa giải với Thiên Chúa – chúng ta còn trở nên con cái của Thiên Chúa nữa (Rm 8,14-16). Chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha bởi vì Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta và cứu chuộc chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và Satan.