2023
Ai là kẻ phản bội
5.4 Thứ Tư Tuần Thánh
Is 50:4-9; Tv 69:8-10,21-22,31,33-34; Mt 26:14-25
Ai là kẻ phản bội
Trong cuộc sống, không ai thoát được đau khổ. Tuy nhiên, có nhiều loại đau khổ. Đau khổ nhất vẫn là sự phản bội của chính người mà chúng ta đã từng ra tay nâng đỡ…!
Hôm nay, thánh sử Mátthêu cũng gợi lại cho chúng ta tấm thảm kịch bi thương khi họa lại khung cảnh của một bữa tiệc cuối cùng của Thầy Giêsu với các môn sinh của mình, để rồi chính trong bữa ăn thân tình và huynh đệ này lại diễn ra một sự phản bội trắng trợn của ngay học trò Giuđa, kẻ đã được tin tưởng trao cho trách vụ quản lý. Tệ hơn nữa, âm mưu này lại bị hắn che lấp bằng câu hỏi: “Rápbi, (thưa Thầy) chẳng lẽ con sao?” Ngay sau lời loan báo về sự phản bội của Chúa Giêsu: “Thầy nói thật với các con, có một người trong các con sẽ nộp Thầy”.
Nếu các môn đệ khác khi hỏi cùng câu hỏi như Giuđa, thì trong tâm hồn của các ông là lo lắng, buồn rầu và đau đớn, còn Giuđa thì không, bởi hắn đã dùng hình thức này nhằm đánh lạc hướng để mọi người không còn nghi ngờ về hành vi bỉ ổi của hắn và để hắn dễ bề hành động. Chính vì thế mà làm cho Chúa Giêsu trong tư cách là người thi ân giáng phúc, là thầy, là Thiên Chúa càng thêm đau khổ!
Tin Mừng theo thánh Matthêu hôm nay thuộc về chương đầu trong phần “Thương khó và Phục Sinh” của Chúa Giêsu. Trước khi bước vào cuộc Thương khó, có nhiều đám mây đen tối bao phủ trên Chúa Giêsu và nhóm 12- nhóm môn đệ thân tín của Ngài. Sự phản bội không đến từ những kẻ căm ghét, thù hằn nhưng lại xuất phát từ cõi lòng xấu xa, tội lỗi của đám bạn bè thân tín “cùng sống, cùng chết” trong sứ mệnh của Ngài. Chúng ta hãy cùng bước vào tâm tình của Chúa Giêsu, khi Ngài đứng trước những đau khổ ấy.
Với 3 câu đầu của bài Tin Mừng, thánh sử Matthêu đã nói rõ thái độ bán đứng của Giuđa Itcariốt: “Quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi sẽ nộp ông ấy…”. Họ quyết định 30 đồng (c.14-15). Một cuộc ngã giá sòng phẳng. Đây là cái giá của một tên nô lệ theo luật định (Xh.21,32). Lời ngôn sứ xưa kia đã được ứng nghiệm: Thiên Chúa bị chính dân Người ruồng bỏ. Họ giễu cợt Người mà trả cho Người số tiền công đáng giá 1 tên nô lệ. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa bị người ta bán rẻ. Thánh sử viết tiếp: “Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Chúa Giêsu” (c.16). Đây là một việc làm có mục đích, có chuẩn bị và có rắp tâm kiên quyết thực hiện”. “Hắn cố tìm” một hành vi bán Thầy, phản bạn. Giuđa không muốn để lộ âm mưu ấy, nên đã cố tạo ra một bức tranh ngẫu nhiên, khiến các môn đệ khác không thể nghi ngờ.
Xen giữa 2 đoạn văn nói về cuộc phản bội, thánh sử lại xen vào quang cảnh ăn lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu với các môn đệ. “Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men (c.17). Đây là cách nói theo kiểu bình dân vì ngày thứ nhất trong tuần bánh không men bắt đầu sau bữa ăn Vượt Qua, và người DoThái tính ngày từ buổi chiều hôm trước, lúc mặt trời lặn.. Có lẽ Chúa Giêsu theo lịch quần chúng, chứ không theo lịch chính thức của các tư tế Xa-đốc.
Các môn đệ chủ động đến hỏi Chúa Giêsu về nơi chốn để mừng lễ Vượt Qua (x.c.17), khi đã trả lời cho họ địa điểm rồi, Ngài còn nhắn thêm với chủ nhà: “Thời của Thầy đã gần tới (c.18). Đây như một lời tiên báo và cũng là ý thức của Chúa Giêsu về cuộc khổ nạn mà Ngài sắp Vượt Qua. Lúc này, các môn đệ không thắc mắc, không bàn hỏi như họ có linh tính sắp có chuyện gì đó xảy ra. Họ tuân lệnh Chúa và làm y theo lời Ngài dặn.
Có phải Giuđa đã phản bội Chúa không? Giuđa có thực sự nghĩ rằng ông ta không phải là người phản bội Chúa Giêsu không? Chúng ta không biết chắc chắn những gì đang diễn ra trong tâm trí của Giuđa, nhưng có một điều rõ ràng là ông ta đã phản bội Chúa Giêsu. Và điều đó xuất hiện từ những lời nói của Giuđa rằng Giuđa đã không nhận ra hành động của mình như một sự phản bội và do đó ông ta đã phản bội.
Sự phản bội nếu được viết ra như một từ viết tắt thì nó có nghĩa là “tôi không hề biết tôi đang nói dối.” Có lẽ Giuđa đã chìm đắm trong tội lỗi của mình đến nỗi ông ta không thể thừa nhận rằng ông ta đang nói dối và chuẩn bị phản bội Chúa Giêsu vì tiền. Đây là một suy nghĩ đáng sợ.
Điều này rất đáng sợ vì nó cho thấy một trong những ảnh hưởng của tội dai dẳng. Tội dai dẳng làm cho chúng ta dễ phạm tội hơn. Và cuối cùng, khi một người ở mãi trong tội đó, tội đó dễ dàng được hợp thức hóa, được biện minh và được phủ nhận như là tội chung chung. Khi một người bị mắc kẹt trong vòng xoáy tội dai dẳng này, rất khó để họ thoát ra. Và thường thì cách duy nhất để sống sót sau căng thẳng tâm lý là duy trì trong sự phủ nhận.
Đây là một bài học quan trọng cho chúng ta trong Tuần Thánh này. Tội lỗi không bao giờ có gì hay để chúng ta phải chú ý và chúng ta phải lấy hết can đảm để làm như thế. Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng nếu như Giuđa thực sự đã thú nhận những gì ông ta sắp làm; nếu như ông ta đã suy sụp trước mặt Chúa Giêsu và các Tông đồ khác và nói với họ toàn bộ sự thật thì hành động trung thực đó có lẽ đã cứu mạng Giuđa và linh hồn của ông. Giuđa sẽ đau đớn và nhục nhã để làm như vậy, nhưng đó sẽ là điều đúng đắn để làm.
Điều này cũng đúng với chúng ta. Có lẽ chúng ta không ở thời điểm mà tội lỗi dẫn chúng ta đến sự phản bội hoàn toàn của Chúa Giêsu, nhưng mọi người đều có thể tìm thấy một số mô hình tội lỗi trong cuộc sống của họ trong Tuần Thánh này. Với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta phải tìm cách khám phá một số mô hình hoặc thói quen chúng ta đã hình thành. Thật là một khám phá tuyệt vời nếu chúng ta có thể đối mặt với tội lỗi này bằng sự trung thực và can đảm. Điều này sẽ giúp chúng ta rũ bỏ mọi sự phản bội liên quan đến tội lỗi chúng ta và giúp chúng ta khắc phục tội lỗi đó để khám phá sự tự do mà Chúa ban cho chúng ta!
Hôm nay chúng ta hãy suy ngẫm điều Giuđa nói với Chúa Giêsu, “ Thưa Thầy, chắc không phải con chứ?” Câu nói buồn bã này của Giuđa đã làm tổn thương sâu sắc Chúa Giêsu khi chứng kiến sự phản bội của Giuđa. Chúng ta hãy suy ngẫm nhiều lần chúng ta chối bỏ tội lỗi của mình, không thành tâm sám hối. Hãy làm cho Tuần Thánh này là thời gian cho sự trung thực và liêm chính. Lòng thương xót của Chúa rất bao la và thuần khiết đến nỗi nếu chúng ta hiểu lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ không cần phải ở lại dưới bất kỳ hình thức chối bỏ tội lỗi nào.
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay này, xin Chúa ban cho chúng ta ý thức được căn tính và mục đích của cuộc đời, từ đó biết hiệu chỉnh lương tâm và những lựa chọn sao cho phù hợp với vai trò môn đệ của Đức Giêsu.
2023
Loan báo Giuda phản bội
4.4 Thứ Ba Tuần Thánh
Is 49:1-6; Tv 71:1-2,3-4,5-6,15,17; Ga 13:21-33,36-38
Loan báo Giuda phản bội
Giuda Iscario là một trong 12 tông đồ mà chính Chúa đã chọn, mặc dù Chúa biết ông sẽ phản bội. Nhưng Chúa qua đó muốn dạy con cái Ngài bài học.
Giuda có tên cuối cùng trong danh sách các tông đồ (Mt 10, 2-4). Giuda quê ở làng Iscari nên người ta gọi luôn là Giuda Iscrio để phân biệt với những người khác mang tên Giuda. Trong số 12 tông đồ chỉ có Giuda Iscario là quê hơng ở miền Nam của nước Do thái, còn đa số thuộc miền Bắc. Giuda Iscario đã trở thành môn đệ của Chúa từ biển hồ Tibêria. Nhưng từ sau khi Chúa tuyên bố về phép thánh Thể là Mình Máu Thánh Chúa thì Giuda thất vọng, vì trước đến nay ông theo Chúa vì tưởng đâu Chúa là Đấng cứu thế trong lãnh vực của cải như ông mong tưởng. Từ đó ông không tin. Và cũng từ đó ông biï gọi là “quỉ nhập” (6, 70). Và ông đã mất lòng tin đến chỗ phản bội Chúa…
Chính ông đã lợi dụng chức vụ quản lý và bữa ăn để ra đi phản bội (c. 27). Trong khi các môn đệ ngồi dự tiệc thì Giuda ra đi. Việc đó đối với các môn đệ dễ hiểu, vì Giuda làm quản lý phải đi lấy thêm đồ ăn thức uống hoặc có thể Giuda đi giúp đỡ kẻ nghèo khó chăng. Nhưng Chúa Giêsu biết và biết rõ đến nỗi Chúa bảo Giuda “ngươi tính làm gì thì làm mau đi” (c. 27).
Mặc dầu thế, Giuda vẫn không sợ gì tội ác mà cứ khăng khăng ra đi mà tưởng không ai biết. Những người phản bội và dối trá mấy khi tưởng mình bị lộ diện vạch mặt đâu. Giuda vào trường hợp ấy. Giuda không ngờ hành động của ông trong đêm tối lại bị phơi bày trên sách vở của Kinh thánh cho đến tận thế.
Đây cũng là một bài học đắt giá cho cuộc đời con cái Chúa. Có bao giờ chúng ta nghĩ rằng mọi sự thật một ngày nào đó sẽ được phơi bày hết không ? Những gì được giấu giếm trong thời gian, cuối cùng cũng chính thời gian tiết lộ ra. Kinh thánh nói rằng: “Chẳng có vật nào được giấu kín trước mặt Chúa. Tất cả sẽ phải phơi bày trần trụi trước mặt Đấng mà chúng ta phải trả lẽ với Ngài”, “Ta là Thiên Chúa, ta thấu suốt mọi tâm can ngươi từng gang tấc…”, “Thiên Chúa là Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm…” (Mt 6, 6) cho nên không một ai chạy tội được với Ngài đâu.
Chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu và đi sâu vào tâm tư Chúa trong giây phút quan trọng này, có hai đặc điểm quan trọng được nêu bật ở đây: Ngài là một vị Thiên Chúa nhập thể làm người như chúng ta; là con người, Chúa Giêsu xúc động mạnh mẽ, tâm hồn xao xuyến sâu xa trước cuộc Thương Khó sắp trải qua, trước sự không hiểu và sắp phản bội của các đồ đệ, của Giuđa phản bội và của Phêrô tự phụ chối Chúa. Là một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu ý thức rõ ràng điều sắp xảy ra cho mình và gọi đó là việc tôn vinh Thiên Chúa. Giờ tử nạn là giờ tôn vinh, Thiên Chúa được tôn vinh, chính Chúa được tôn vinh và con người được tôn vinh, được hòa giải với Thiên Chúa, được lãnh nhận sự sống đời đời.
Nơi chương17 sau đó, Chúa Giêsu nói rõ ra nội dung chính của việc tôn vinh này như sau: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha theo quyền năng Cha đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Ðấng Cha sai đến là Giêsu Kitô. Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm”. Chúa Giêsu ý thức rõ ràng về chương trình Thiên Chúa Cha muốn thực hiện, Chúa muốn thực hiện điều đó cách hoàn hảo, nhưng đồng thời ý thức rõ ràng điều tệ hại mà các môn đệ của Ngài đang liều sa vào. Giuđa sắp phản bội, Phêrô sắp chối bỏ Ngài, nên Chúa xao xuyến sâu xa.
Nhưng tội lỗi của con người không thể làm hư chương trình của Thiên Chúa. Cho đến tận cùng, Chúa làm những gì có thể làm được để thức tỉnh người tội lỗi. Chúa hành xử với mỗi người một cách khác nhau, ngấm ngầm, âm thầm với Giuđa và công khai với Phêrô. Nhưng quyết định cuối cùng vẫn là quyết định tự do của con người. Giuđa mở tâm hồn, đón nhận Satan, từ bỏ ánh sáng, tự ý bước vào trong tối tăm và càng ngày càng lún sâu vào đó cho đến mức tuyệt vọng, vì trong tâm hồn ông không còn chút tình yêu nào đối với Chúa nữa. Phêrô cũng sẽ sa ngã, nhưng tình yêu Chúa nơi ông giúp ông ăn năn trở lại, bắt gặp cái nhìn của Chúa.
Dưới ngòi bút của Gioan, ánh sáng và bóng tối mang một ý nghĩa thật đặc biệt. Nhưng ở đây bóng tối được sử dụng để diễn tả đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Giuđa trong âm mưu đen tối của y nơi đoạn Tin mừng hôm nay. Bóng đêm luôn ngự trị khi con người chủ ý quay lưng lại với Chúa Giêsu, bóng đêm luôn xâm chiếm tâm hồn khi con người nghe theo sự xúi giục của sự dữ hơn là lời mời gọi của Thiên Chúa. Bóng đêm luôn giữ phần thắng khi hận thù, gian tham bóp chết sức mạnh của tình yêu. Bóng đêm xâm chiếm cõi lòng khi con người khước từ tình yêu Thiên Chúa như trường hợp của Giuđa.
Trước khi Giuđa đứng dậy bỏ bàn tiệc thân hữu để đi vào bóng đêm, Chúa Giêsu đã dùng mọi phương thế để cảnh tỉnh Giuđa : trước tiên là lời tiên báo công khai : “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: một trong các ngươi sẽ nộp Ta”, nhưng Giuđa giả điếc làm ngơ không, nghe lời cảnh tỉnh ấy. Tiếp đến, Chúa Giêsu chấm bánh trao cho Giuđa, đó là cử chỉ thân tình, nhưng Giuđa đã ăn miếng bánh ấy không chút rung động, đến độ thánh Gioan diễn tả hậu quả trái ngược :”Aên miếng bánh rồi, Satan đã nhập vào y”. Sau cùng, Chúa Giêsu dóng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cuối cùng qua câu nói : “Người tính làm gì, thì làm mau đi”, câu này ngụ ý rằng âm mưu của người, Ta đã biết, làm sao môn đệ lại có thể âm mưu phản Thày”. Tuy nhiên, những lời nói và cử chỉ thân tình ấy đã không cầm chân được Giuđa khỏi tiến vào bóng đêm tội lỗi.
Ngày thứ ba tuần thánh, khi đưa ra một Giuđa cứng lòng bướng bỉnh, tiến vào bóng đêm của phản bội, của tội lỗi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để chấp nhận lời cảnh tỉnh và nhất là đón nhận những cử chỉ thân tình yêu thương của Chúa Giêsu, để bừng sống dậy nhập đoàn những người đã và đang thực hiện một cuộc cách mạng tình thương mà Ngài đã khởi xướng khi tuyên bố : “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu hiến mạng sống vì bạn hữu”, “Ta ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các con”.
Ước gì sự hiến thân chết vì tình yêu trên Thập giá của Chúa dẫn chúng ta từng bước thoát khỏi bóng đêm của tội lỗi để tiến vào ánh sáng của Chúa Nhật Phục sinh.
2023
Lời Cảnh Tỉnh Của Chúa Giêsu
3.4 Thứ Hai Tuần Thánh
Is 42:1-7; Tv 27:1,2,3,13-14; Ga 12:1-11
Lời Cảnh Tỉnh Của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại vỏn vẹn 33 năm trời ngắn ngủi. Ba mươi năm trước là quãng đường lao động Chúa ân thầm sửa soạn cho 3 năm cuối cùng. Nhưng rồi Ngài đã thu gặt được những gì ? Thưa sự phản bội vô ơn của một dân tộc, sự chống đối và sự chết từ phía người biệt phái. Các môn đệ thân tín thì bỏ trốn, Giuda thì nối giáo cho giặc nộp thầy mình. Và cái chết nơi vườn cây dầu luôn luôn là một ám ảnh. Giữa những đau thương cay đắng ấy, đời Chúa còn gặp được một niềm vui nho nhỏ nhưng đầy an ủi. Đó là bình thuốc thơm của chị Maria, quê ở Betania (khác với Maria Madalêna ở Galile Lc 7, 46). Cả 3 thánh sử đều ghi nhận việc xức dầu thơm này của chị Maria (Mt 26, 7. Mc 14, 3).
Theo thánh Matheu và Marcô, đó là một bình nước hoa bằng đá ngọc rất quí, dùng cho người quyền quí. Bình này chứa khoảng 327 gr nước hoa hảo hạng rút từ nguyên chất cây tùng hương, là thứ cây dùng tẩm liệm. Thánh Gioan lại kể rằng thánh nữ đây đã rưới thuốc thơm trên chân Chúa. Đáng lẽ người ta dùng vài giọt nước lã là quá đủ rồi. Thánh Mc (14, 3) còn nói là chị ta đã đập bể cổ bình và dốc đổ hết đến nỗi cả nhà thơm nực ngào ngạt, rồi chị Maria lấy tóc lau đi.
Trước sự phung phí ấy, Giuda không giữ được miệng. Ông đã bộc lộ chân tướng để phản bội. Lòng dạ đã bị tiền bạc đầu độc lại viện cớ giúp kẻ nghèo thì tốt hơn. Đó là một cách che đậy giả hình thôi, chứ chưa chắc Giuda đã thương kẻ nghèo bằng thương lọ nước hoa. Thấy lọ nước hoa đập bể, Giuda đã tiếc xót như là xé rách 300 đồng bạc hơn một tấm lòng thống hối… Và hẳn là Giuda cũng thầm nghĩ tới 30 đồng mà ông sẽ bán được thầy mình. Phải rồi, tiền bạc làm con người mù quáng, dễ phản bội. Trong cuộc đời có những đứa con từng phản bội lại cha mẹ… Nhưng ít khi học trò phản bội thầy mình. Hiếm có, Giuda là một trong số hiếm có đó. Giuda đã quyết định phản bội Chúa, đã sa ngã vì tiền của vì trước đó Giuda đã có những tham lam nho nhỏ như tiếc xót bình dầu đây chẳng hạn.
Tin Mừng hôm nay gợi lên trong chúng ta nhiều ý nghĩ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu luôn luôn là một dấu gây mâu thuẫn. Nhiều người tin Chúa, mến Chúa, thương Chúa, mà cũng có nhiều người khác dèm pha, chống đối và muốn loại trừ. Những kẻ thuộc nhóm ủng hộ Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay là những người dọn tiệc đãi Chúa ở Bêtania là Lazarô, là Maria – người lấy dầu thơm xức chân Chúa. Những kẻ chống đối Chúa hay sắp đi vào con đường chống đối Ngài là các thượng tế ganh tị, là Giuđa Iscariốt – người thủ quĩ của nhóm môn đệ chung quanh Chúa Giêsu. Chúng ta hãy quan sát thêm thái độ của những kẻ chống đối Ngài, các thượng tế, những người lãnh đạo của dân Do Thái và là những kẻ được dân chúng kính nể như những trí thức và đạo đức. Nhưng phải chăng đây là cái vẻ bên ngoài, vì bên trong tâm hồn xem ra như chứa đầy những chuyện xấu xa, mưu mô, ganh tị, tham quyền, sợ dân bỏ họ mà theo Chúa Giêsu? Vì thế, họ có ý định giết luôn cả Lazarô, xóa bỏ luôn cả dấu chỉ hiển nhiên của Thiên Chúa quyền năng hiện diện giữa con người.
Quyền năng Thiên Chúa được thể hiện nơi dấu lạ cho Lazarô đã chết được sống lại. Ghét Chúa, những thượng tế kia muốn xóa bỏ cả những dấu chỉ, những chứng tá về Chúa để lương tâm họ được yên, không còn bị quấy rầy nữa. Chúng ta có hành xử giống như những vị thượng tế Do Thái này hay không, hay chúng ta hành xử giống như Giuđa Iscariốt. Giuđa chưa phản bội Chúa, nhưng đang trên đường phản bội Chúa với những hành động xấu được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ham mê tiền của, lấy của công để lo cho tư lợi riêng, lạm dụng danh nghĩa người nghèo, miệng nói lo cho người nghèo nhưng hành động ngược lại. Ðây là tội mà ngày nay có thể gọi là kinh doanh trên sự nghèo cùng của anh chị em.
Hơn nữa, khi phê bình hành động tốt lành của cô Maria, xức dầu thơm nơi chân Chúa như là một việc làm phí của, thì Giuđa cho thấy tâm địa hẹp hòi của mình, Giuđa xem đồng tiền lợi lộc vật chất trọng hơn chính Chúa Giêsu và mối tương quan thân thiện với Ngài. Thường tình, nếu là bạn tốt với nhau, thì khi một người sắp ra đi, kẻ ở lại phải làm vừa ý người ra đi, để nói lên lòng quí mến của mình, nhưng Giuđa đã không hành xử như vậy với Chúa Giêsu.
Là một trong mười hai tông đồ sống bên cạnh Chúa, chắc chắn Giuđa đã nghe nói đến sự ra đi đầy đau thương của Ngài tại Giêrusalem, nhưng Giuđa xem ra lãnh đạm vô tâm, vô tình với biến cố, vả lại Giuđa đã công kích hành động tốt của Maria, cho đó là một việc làm phung phí, vô ích. Giuđa đã mất đi ý thức bén nhạy để phán đoán điều gì tốt, điều gì không. Giuđa xét đoán không theo sự việc khách quan mà theo tâm tình hèn hạ của mình. Tâm hồn Giuđa thì xấu, nên xét việc tốt cũng thành xấu. Chúng ta có hành xử đúng như vậy hay không.
Tin mừng cho chúng ta gặp lại Marta và Maria. Tuy lần ghé trước Marta đã nghe Chúa Giêsu nói chỉ có một việc cần đó là lắng nghe lời Chúa. Nhưng lần này, Marta cũng chẳng dừng được, đã biến cuộc hội ngộ với Chúa Giêsu thành một yến tiệc, bởi lẽ theo chị nầu những món ăn thiết thiết đãi Chúa và các môn đệ là để tỏ lòng hiếu khách, Thiên Chúa là tỏ lòng biết ơn Chúa đã cải tử hoàn sinh cho Lazarô. Phần Maria còn đi xa hơn : chị lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau.
Qua cử chỉ ấy chúng ta thấy rõ chiều âu mốii tình của chị đối với Chúa Giêsu. Mối tình không tính toán khiến chị sử dụng dầu thơm quí giá mà theo ước tính củ Giuđa có thể lên tới 300 đồng bạc Chúa Giêsu tức 300 ngày công. Mối tình khiêm nhu, vì theo tục lệ thời đó, chủ nhà hay bất cứ phần tử nào trong gia đình thường xức thuốc thơm trên đầu người khác để tỏ lòng quí mến, nhưng Maria khiêm tốn nghĩ mình chỉ đáng xức dầu thơm vào chân Thầy thôi. Mối tình tự hạ, thể hiện qua việc lấy tóc mình để lau chân Chúa. Chúa Giêsu chấp nhận cử chỉ nói lên lòng kính trọng, yêu thương của Maria, cũng như vui lòng ngồi vào bàn tiệc do Marta khoản đãi
Với mẫu gương yêu mến của Marta và Maria đối với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn để ôn lại, để chấp nhận và để đáp lại mối tình bao la của Thiên Chúa đã thí ban người Con Một vị phần tỗi nhân loại, cũng như để đáp lại mối tình của Chúa Giêsu đã sẵn lòng đón nhận cái chết ô nhục vì tình yêu đối với Chúa Cha và đối với mỗi người chúng ta.
2023
Giờ chết đã đến gần
1.4 Thứ Bảy trong tuần thứ Năm Mùa Chay
Ed 37:21-28; Gr 31:10,11-12,13; Ga 11:45-57
Giờ chết đã đến gần
Câu chuyện Chúa Giêsu đến Bêtania và làm phép lạ cho Ladarô sống lại đã làm rúng động trong dân chúng và nhiều người đã tin vào Đức Giêsu cũng như giáo huấn của Ngài.
Chính vì điều này mà cuộc thương khó của Chúa Giêsu ngày càng gần kề. Sự kiện này được đánh dấu bằng việc những nhà cầm quyền và các Thượng Tế quyết định họp Hội Đồng và ra lệnh bắt, giết Chúa Giêsu. Họ đã ra lệnh truy nã đối với Ngài: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
Lý do họ bắt và quyết định giết Chúa Giêsu là vì họ đã ghép cho Ngài cái tội chính trị. Họ nói: “Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta”. Rồi một câu nói đầy uy lực của nhóm Thượng Tế mà Caipha là đại diện đã đem đến quyết định loại trừ Chúa Giêsu: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”.
Tuy nhiên, thực tế thì lý do chính yếu khiến họ giết Đức Giêsu đó là sự ghen tỵ và sợ bại lộ lối sống hình thức và mất uy tín trong dân, đồng thời sợ bị mất lợi lộc mà các Thượng Tế đang được hưởng.
Sau phép lạ cho Lagiarô sống lại thì có hai phản ứng rõ rệt. Một là những người tin nhận Chúa. Hai là những người không tin và chống đối Chúa, đứng đầu là nhóm Biêt phái và các thượng tế. Họ triệu tập một công nghị (c.47), tìm cách đối phó với Chúa, vì Chúa làm được nhiều việc quá (c.47). Giờ đây họ quyết định dứt khoát không đội trời chung với Ngài nữa, phải khử trừ cho xong. Ho cho rằng Đấng cứu thế mà họ trông mong phải là người giải thoát họ khỏi cảnh áp bức của các nước lân bang như đế quốc La mã. Mà rõ ràng là Chúa Giêsu Giêsu không đứng ra lãnh đạo một cuộc giải phóng như vậy. Cho nên họ kết luận Chúa Giêsu không phải là vị Cứu thế.
Nhưng đứng trước những giáo lý cao siêu và những phép lạ Ngài làm nhiều người đã thán phục, tin theo… Cho nên chính họ thấy khó xử. Nên họ mới nghĩ ra cách đổ lỗi cho những phép lạ Chúa làm kia là đã gây xáo trộn hoang mang nơi dân Do thái. Mà nếu như người Lamã đô hộ nghe thấy chuyện hoang mang đó thì coi như nhóm họ không có tài điều hành dân chúng. quân La mã sẽ chinh phạt họ và cả dân chúng. Đó là dự tính của nhóm Thượng tế và biệt phái với nhau.
Chúng ta thấy là họ không thể bắt bẻ Chúa điều gì trong lãnh vực tôn giáo Do thái lúc ấy. Thật ra, họ cũng từng thử tố cáo Chúa về lãnh vực này như Chúa công khai tuyên bố phá hủy đền thờ Giêrusalem, đã vi phạm luật Sabat, đã không tuân giữ luật truyền thông về rửa tay hay ăn uống… nhưng những tội đó đã không là tội và không đủ yếu tố để kết án. Cho nên họ chuyển Chúa qua một tội khác là vi phạm tới quyền của dân La mã.
Chúng ta biết là thời gian Chúa Giêsu, dân Do thái bị dân La mã đô hộ nên mất hết chủ quyền, mất luôn cả quyền xét xử tội nhân nữa. Quyền này nằm trong tay người La mã lúc ấy là quan Phongxiô Philatô làm tổng trấn đại diện. Oâng này muốn lương dân không hiểu gì về vấn đề Do thái giáo. Vậy muốn cho Philatô phê chuẩn án tử hình nói trên thì họ buộc tội Chúa phản nghịch với La mã. Cho nên sau này trước tòa án Philatô, đã buộc tội Chúa rằng:
“Chúng tôi đã bắt được tên này làm rối loạn an ninh trong nước chúng tôi,. Hắn cấm nộp thuế cho vua César và tự xưng mình là Kitô” (Lc 23,3). Hắn còn giảng dạy xúi dân làm loạn khắp xứ Giuđêa từ Galilê đến đây” (Lc 13,2).
Philatô có vẻ coi thường những lời buộc tội trên đây. Một đàng vì ông tin vào sức mạnh vô địch của đoàn lính Lê-dương La mã, một đàng thấy nét mặt hiền từ, ông không tin rằng Ngài có thể làm loạn, một mặt khác ông không thấy có sự thực như họ tố cáo. Tuy nhiên Philatô đã thẩm vấn Chúa Giêsu 4 lần: “Ông có phải là vua dân Do thái ?” (Lc 23,2 Ga 10,33), “có là Con Thiên Chúa” (23,70), “sự thật là gì ?” (Gio 19,38). Và rồi chính Philatô không thấy Chúa có tội gì để kết án, nên ông tìm cách tránh né và rửa tay (Mt 27,24) tuyên bố: “Ta không thấy người này có gì để lên án cả” (Ga 18,38). Và ông trao Chúa Giêsu về Galilê cho vua Herôđê là người có trách nhiệm vùng Galilê.
Nhưng trước thái độ lừng khừng của Philatô, dân chúng cùng nhómbiệt phái hô to hơn nữa là sẽ tố cáo tội này với hoàng đế César (Gio 19,12). Họ cam chịu nhận quyền độ hộ của La mã một lần nữa: “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài César” (Gio 19,15). Philatô đành trao cho họ đem đi xử tử và đóng đinh vào thập giá. Thế là đúng y như lời Caipha đã nói trước “Thà một người chết thay cho toàn dân…” (Gio 11,50). Lời ấy đã trở thành chân lý cứu rỗi.
Chúng ta hãy coi cái chết của Chúa xảy đến cũng chỉ vỉ lòng ghen tuông, hận thù, nghi kỵ mà thôi. Tuần đại thánh sắp đến, chúng ta cần cầu xin Chúa mở toang tâm hồn như một nấm mồ đón nhận mọi sự tha thứ.
Những người Do Thái đã nhìn hành động của Chúa theo mầu sắc chính trị. Họ đã thắc mắc : “Ta phải làm gì? Vì con người ấy làm nhiều sự lạ. Nếu cứ để như vậy, mọi người sẽ tin vào ông ta và quân Rôma sẽ đến hủy diệt nơi thánh và dân tộc ta”. Lý luận của người Do Thái không tin thật lộn xộn : Dân chúng tin theo Chúa là việc tôn giáo, quân Rôma đến phá hủy là việc chính trị, làm sao việc tôn giáo lại kéo theo hậu quả chính trị như thế được. Vả lại chính quyền Rôma lúc đó cho người Do Thái được tự do hành đạo, và chính Tổng trấn Philatô sau này cũng đâu muốn kết án Chúa vì lý do tôn giáo. Người Do Thái đã phải tố cáo Chúa về tội chính trị : xúi dân làm loạn, không nộp thuế cho Hoàng đế César. Thật là trớ trêu, nhưng Chúa đã không phản đối. Ngài chấp nhận một cái chết bất công để biến nó thành cái chết hy sinh cứu chuộc nhiều người
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người hãy ý thức lại việc sống đạo bấy lâu nay: có bao giờ chúng ta theo Chúa chỉ vì muốn được hưởng lợi lộc trần gian? Nếu vì giá trị Tin Mừng đòi ta phải từ bỏ lối sống và hành vi không phù hợp, liệu chúng ta có sẵn sàng không? Hay có khi nào chúng ta cũng vì ghen tức mà loại bỏ anh chị em mình như những Pharisêu và Kinh Sư hôm nay đối với Chúa Giêsu?