2020
Chúa Thăng Thiên Để Ở Cùng
Chúa Thăng Thiên Để Ở Cùng
Một sự từ giã về phương diện không gian, để gần gũi theo cách vượt thời gian; một sự chia lìa trong thời gian, để ở lại siêu thời gian.
Đức Giêsu Phục Sinh muốn gặp các môn đệ tại nơi Người khởi sự việc loan báo tin mừng nước Thiên Chúa. Galilê miền đất của dân ngoại đã in đậm dấu ấn trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vì từ nơi ấy xuất hiện Ánh Sáng thần linh xua tan bóng tối của tội lỗi và tử thần, đập tan quyền lực Satan gông xiềng nhân loại từ bao đời. Bây giờ, cũng nơi ấy, Đức Giêsu Kitô đã cho các môn đệ thấy Người đã “xuyên thủng” cõi đất hạn hẹp, chết chóc này tiến về trời, lên nơi Người đã xuất phát, trở nên cầu nối giữa cõi trời và cõi đất; trở nên trung gian giữa con người và Thiên Chúa; trở nên Con Đường duy nhất dẫn người tin về cõi trời hiển vinh.
Galilê còn là nơi Đức Giêsu Phục Sinh, trong tư cách là Đấng đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ban sứ vụ cho Nhóm Mười Một, để minh chứng họ đích thực là môn đệ, có sứ mạng làm cho công cuộc cứu độ của Đức Giêsu có sự liên tục, trải dài trên toàn cõi đất qua việc loan báo tin mừng, làm phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cho những ai tin và dạy họ tuân giữ những điều mà Đức Giêsu đã truyền cho các tông đồ. Như thế, sứ mạng của Đức Giêsu phục sinh được tiếp diễn và bây giờ qua họ, Người sẽ hoàn tất công việc của mình.
Việc trọng đại ấy xảy ra trên một ngọn núi. Người Do thái vẫn coi núi là nơi Thiên Chúa chọn để hiển linh, để ban giới luật và thông tỏ ý định của Người. Đức Giêsu trước khi công khai rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa, đã bị satan đưa lên một ngọn núi để cám dỗ Người đi trệch con đường Chúa Cha muốn; khi cho ba môn đệ thân tín thoáng thấy thần tính vinh hiển của Người trên núi Taborê, và trên núi Sọ, Đức Giêsu đã chịu chết trên thập giá để chuộc tội loài người. Bây giờ, Đức Giêsu phục sinh đưa các môn đệ lên một ngọn núi Thăng Thiên- để ở cùng Giáo hội.
“Mười một môn đệ.” Con số này vừa cho thấy sự khiếm khuyết của Hội thánh, vừa cho biết sự bất toàn của Hội thánh, vì khi “các ông bái lạy Người”, có “mấy ông lại hoài nghi.” Hoài nghi điều gì, ngờ vực vấn đề nào? Tin mừng Mátthêu không nói rõ. Mãi mãi đó là một bí ẩn, nhưng sẽ lộ tỏ dần qua từng thời kỳ của nhân loại, qua những diễn biến của những sự kiện lớn nhỏ của thế giới và Giáo hội, qua những người từng là môn đệ Đức Giêsu.
Vì thế Giáo hội mọi thời phải nắm vững tinh thần và sứ mạng của Đức Giêsu để vượt qua tình trạng hoài nghi này, vừa để làm sáng tỏ các chân lý đức tin để củng cố lòng tin của mình hơn, vừa giúp cho Giáo hội tin tưởng vào lời Đấng Phục Sinh – Lên Trời, luôn ở cùng mình mọi ngày cho đến tận thế.
Bao lâu Giáo hội còn trung thành thực thi mệnh lệnh của Đấng Phục Sinh – Lên Trời, dạy cho muôn dân những huấn lệnh như chính Người đã dạy, làm phép rửa cho họ Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, bấy lâu Giáo hội sẽ dễ dàng vượt qua sự hoài nghi ấy. Các môn đệ sẽ nhận ra sự hiện diện của Người, khi họ công bố tin mừng của Đấng Phục Sinh – Lên Trời; khi họ vững tin vào quyền bính tối thượng của Người trên mọi yếu tố vũ trụ.
Tác giả Mátthêu không nói việc Đức Giêsu trao quyền bính cho họ, nhưng nhấn mạnh đến sự quả quyết của Đức Giêsu về sự kết hợp giữa Người với họ. Bao lâu họ còn duy trì chân tính của người môn đệ, kết hợp khắn khít với Đức Giêsu, còn trung thành thực thi sứ mạng của Người, thì chính Người, trong tư cách siêu việt, sẽ bộc lộ quyền năng ấy qua họ.
Vì thế lời rao giảng của Hội thánh không chỉ là trình bày sứ điệp Cứu rỗi của Đức Kitô mà còn phải kiến tạo nên một cộng đoàn có cùng một đức tin, một phép rửa, một lối sống theo Lời Chúa, trong tương quan mật thiết vừa có tính cá biệt, vừa có tính chung nhất, với Đấng đã Phục Sinh – Lên Trời ở ngay trong tâm hồn họ, trong đời sống họ, trong sứ mạng của họ. Đức Giêsu Phục sinh – Lên Trời luôn là điểm trung tâm của Giáo hội và quy chiếu mọi hoạt động của Giáo hội.
Tác giả Mátthêu đã khéo léo đóng khung mầu nhiệm Emmanuen: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, vào lúc Đức Giêsu được sinh ra cho đến ngày Người được Phục Sinh – Lên Trời, là có ý nhắm đến sự Hiện diện của Người trong không gian và thời gian của lịch sử, vừa cho thấy chiều kích mầu nhiệm bao trùm của Người trên toàn thể lịch sử nhân loại và vũ trụ.
Giáo hội không bao giờ cô đơn vì Chúa Kitô tử nạn và phục sinh luôn ở cùng Giáo hội. Người luôn hướng dẫn, nâng đỡ và bầu cử cho Giáo hội trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, giúp Giáo hội đem quyền bính tình yêu của Người đến cho nhân loại.
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Làm chứng cho Thầy
24.5 Chúa Nhật Chúa thăng thiên
Mt 28, 16-20
LÀM CHỨNG CHO THẦY
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Chúa Glêsu, mà còn tiếp tục trong Hội Thánh. Sứ điệp Tin Mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng “bắt đầu từ Giêrusalem”.
“Anh em là chứng nhân của những điều đó”. Chúa Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ như vậy. Và trước khi lìa bỏ các ông để “được đưa lên trời”, Người loan báo cho các ông biết rằng, các ông sẽ “nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”, quyền năng mà Cha đã hứa, để hoàn thành sứ mạng vĩ đại vượt quá sức riêng của các ông.
Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội:” Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân…Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 17-20).
Ta thấy rằng với biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Chúa Giêsu vượt qua không gian và thời gian… thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Chúa Giêsu Nadarét…là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội.
Biến cố Thăng Thiên là điều kiện tất yếu của biến cố Ngũ Tuần, vì Thăng Thiên đồng nghĩa với việc Chúa Giêsu được tôn vinh. Chính khi Đức Kitô “được tôn vinh”, Người sẽ sai phái Thánh Thần hay Chúa Cha sai phái Thánh Thần nhân danh Người (Ga 14, 26). Tin Mừng Gioan nhấn mạnh nhiều lần: “Bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Chúa Giêsu chưa được tôn vinh” (Ga 7, 39) hay “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em.
Thật vây, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16, 7). Mặt khác, việc Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa là một giai đoạn cần thiết để chuẩn bị cho các môn đệ một cách thế hiện diện khác của Người, sự hiện diện vô hình và nội tại trong Thánh Thần.
Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người.
Chúa Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Chúa Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất.
Sau khi tỏ mình cho các môn đệ nhận ra mình: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà” (c.39). Chúa Giêsu mở tâm hồn cho họ hiểu ý nghĩa của biến cố phục sinh: “Tất cả những gì sách luật Môsê, sách các ngôn sứ và các Thánh vịnh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (c.44). Tất cả những gì các ông vừa trải qua cùng với Người, đều hiện rõ ý nghĩa dưới ánh sáng của Thánh Kinh, và chính Thánh Kinh được thực hiện hoàn hảo trong mầu nhiệm Vượt Qua: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại rồi phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Khi dẫn các môn đệ tới tận Bêtania, giờ đây Chúa Giêsu từ biệt và chúc lành cho các ông là những người kế thừa mình theo cách các thánh tổ phụ chúc lành cho các con vào lúc lìa cõi thế. Và đang khi Ngươi được “đem lên trời” các môn đệ “phủ phục bái lạy Người”, một cử chỉ tôn thờ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi.
Cuối cùng, các moôn đệ nghe Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới”. Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất.
Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế.
Việc Chúa Giêsu thăng thiên hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).
Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.
2020
Cần Lắm, Thần Khí Sự Thật
Cần Lắm, Thần Khí Sự Thật
Làm sao để có nhãn quan mới, suy nghĩ mới và sự hiểu biết mới để biện phân, để chọn lựa, để xác tín?
Khi Đức Giêsu loan báo việc ra đi, các môn đệ cảm nhận những việc bi thảm sắp xảy ra, lòng dạ rối bời. Nhưng Đức Giêsu đoan chắc Người sẽ không để họ mồ côi, Người sẽ đến với họ. Họ sẽ thấy Người sống và chính họ cũng sẽ sống. Lúc mắt họ mở ra, tâm trí họ hiểu được, lòng họ bừng sáng, họ sẽ nhìn thấy Người trong cái nhìn mầu nhiệm hiệp thông lạ lùng: “Ngày đó anh em sẽ biết rằng Thày ở trong Cha Thày. Anh em ở trong Thày và Thày ở trong anh em.”
Các điều răn của Đức Giêsu không chỉ là những giáo huấn về luân lý, mà còn diễn tả một mầu nhiệm của sự kết hợp sâu xa trong tình hiệp thông yêu thương, một cách sống “thần linh” do bởi Người luôn giữ các giới răn của Chúa Cha và luôn ở trong Chúa Cha.
Với Chúa Giêsu, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng sự vâng lời chân thành chứ không phải là một thứ cảm xúc, một cách ứng xử. Vì “nếu” các môn đệ yêu mến Thày, họ sẽ vâng lời Thày, như Đức Giêsu đã chứng minh Người rất mực yêu mến Chúa Cha qua sự vâng lời trọn vẹn, và Chúa Cha đã không bỏ rơi Người, thì các môn đệ sẽ nhận được một món quà Thần linh gửi tới từ Chúa Cha, là Đấng Bảo Trợ khác đến ở với họ luôn mãi.
Khi ở với các môn đệ, Đức Giêsu là Đấng Bảo Trợ cho họ. Người biện hộ, bảo vệ họ trước sự chỉ trích, phê phán của người Do thái; Người mặc khải các mầu nhiệm, dạy dỗ, yên ủi họ, giúp họ can đảm, thì giờ đây, Người hứa sẽ xin Chúa Cha ban cho họ Đấng Bảo Trợ khác là Thần Khí Sự Thật sẽ đến ở trong họ, ở với họ để hướng dẫn và giúp họ có khả năng đối phó với mọi hoàn cảnh.
Thần Khí Sự Thật đã tỏ mình qua Đức Giêsu. Thần Khí ấy sẽ đưa các môn đệ vào trong “sự thật”, sẽ che chở họ khỏi tinh thần thế gian, sẽ hoạt động trong tâm trí và trong tâm hồn họ, giúp họ đi sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu kết hiệp với Chúa Cha, và nhờ Người, họ được kết hiệp với Đức Giêsu, như Đức Giêsu hằng kết hiệp với họ.
Chỉ có các môn đệ mới biết Thần Khí Sự Thật và mọi hoạt động của Người, còn thế gian thì không. Nhờ đó, họ có nhãn quan mới, suy nghĩ và hiểu biết mới, có được những những kinh nghiệm mới để biện phân, để chọn lựa, để xác tín.
Không những thế, Đức Giêsu còn hứa sẽ đến cùng họ trong một dạng thức khác. Thế gian cứ tưởng là không có Đức Giêsu vì không thấy Người, nhưng các môn đệ vẫn nhận ra sự hiện diện của Người, sự hiện diện của một Đấng đang sống, và vì thế, họ cũng sẽ được sống.
Ở với các môn đệ một cách hữu hình, được cảm nhận qua những giác quan không phải là cách hay nhất, hữu hiệu nhất. Đức Giêsu hé mở cho họ biết về một cách thức hiện diện mới, không gì có thể ngăn cản, không gì có thể chia lìa, vượt trên thời gian và không gian, vượt lên trên cả những quy luật vật lý hạn hẹp của địa cầu. Khi “Ngày đó” đến, họ sẽ biết Đức Giêsu hằng ở trong Chúa Cha, họ được ở trong Người và Người ở trong họ.
Đó là điều sẽ xảy ra sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Dù Đấng Phục Sinh chưa cho họ thấy tất cả sự vinh hiển của Người, nhưng các môn đệ đã được soi sáng để biết mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng.
Nhắc lại việc tuân giữ các điều răn mà Người đã ban cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn họ lấy đức tin mà đón nhận Lời Người. Những ai gắn bó với các giới răn của Người mới có thể nhận được Thần Khí Sự Thật, và mở ra với tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha, trong sự kết hợp sâu xa của tình hiệp thông yêu thương thần linh. Đó là những gì Đức Giêsu muốn tỏ cho họ biết.
Chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhận được Chúa Thánh Thần nếu chỉ tin mà không tuân giữ Lời Đức Giêsu, chỉ muốn thấy một Đức Giêsu không có bóng dáng thập giá, không dám coi tất cả mọi sự là rác, là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu và được kết hợp với Người, không muốn trở nên đồng hình đồng dạng trong cái chết của Người, làm sao hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết? (x. Pl 3,8-11).
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Lửa tình yêu
Chúa nhật
VI Phục Sinh
17.5.2020
Ga 14, 15-21
LỬA TÌNH YÊU
Với bối cảnh chia ly, các môn đệ cảm thấy đau lòng bởi cuộc chia cách. Các ông tự hỏi là làm thế nào các ông có thể tiếp tục sống với Chúa Giêsu nếu Người ra đi. Chúa Giêsu hứa là Người sẽ không bỏ các môn đệ một mình, không người che chở, không ai hướng dẫn. Người loan báo có mộtsự trợ giúp khác sẽ đến, đó là Thần Khí sự thạt (14,15-17) và chính Người cũng sẽ đến (14,18-21). Người tuyên bố rằng tất cả những giáo huấn Người đã ban cho các ông từ trước đến nay sẽ không bị lỗi thời, nhưng vẫn có giá trị mãi mãi. Chỉ người nào gắn bó với các giới răn của Người mới có thể nhận được Thần Khí và mở ra với tình yêu của Chúa Giêsu và của Chúa Cha.
Chúa Giêsu hứa sai một Đấng Bầu chữa. Danh xưng lạ lùng này, vốn không có trong cách dùng thông thường của ngôn ngữ chúng ta, là chữ phiên dịch từ một kiểu nói Hy lạp có nghĩa được kêu tới bên cạnh…”; các tiếng đồng nghĩa với nó có thể là: người trợ giúp, trạng sư, kẻ nâng đỡ… Khi Chúa Giêsu nói đến một vị Bầu chữa khác, ta có thể nghĩ rằng chính Người là Đấng Bầu chữa đầu tiên là Vị rồi đây được sai đến với các sứ đồ sẽ làm cho họ hiểu hơn về Người; Ngài sẽ là kẻ mặc khải, bảo vệ Chúa Kitô trong tâm hồn người tín hữu chống lại các cơn cám dỗ và bách hại của thế gian.
Ta thấy Thánh Thần là hồng ân được ban cho chúng ta như hoa quả mà Chúa Kitô thâu lượm được nhờ cuộc Tử nạn của Người. Chính khi làm cho chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô mà Thánh Thần đặt trong chúng ta tâm tình con thảo mà Chúa Cha mong đợi nơi chúng ta. Như thánh Phêrô nói: “Tất cả những ai được Thần khí tác sinh, đều là con cái Thiên Chúa”.
Chính vì Tình Yêu nên Ba Ngôi đã hiệp nhất nên Một Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm Ba Ngôi cực thánh. Một Chúa Ba Ngôi đã thể hiện rõ ràng trong Ngôi Lời nhập thể ở tất cả những hoạt động cũng như lời giảng dạy của Người. Điều đó cho thấy Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn hiệp cùng Chúa Cha ở trong Chúa Con vậy. Ngay từ trong Cựu Ước, Chúa Thánh Thần đã là “Lời và Hơi Thở của Thiên Chúa là nguồn gốc của sự hiện hữu và sự sống mọi thụ tạo.” (Tv 33, 6; 104, 30; St 1, 2; 2, 7; Gv 3, 20-21; Xh 37, 10).
Đến với Tân Ước thì Đức Ki-tô luôn dạy dỗ môn đệ về Thần Khí Sự Thật. Không những chỉ là Lời giảng dạy, mà chính Chúa Giêsu cũng chịu sự tác động mãnh liệt của Thần Khi (khi Người sinh ra tại hang đá Bê-lem, khi Người chịu phép rửa trên sông Giođan, khi Người được Thàn Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ, khi Người biến hình trên núi Tabo, khi cầu nguyện kể cả khi Người tử nạn trên Gôngôtha).
Quả vậy, không phải anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nô lệ để mà phải sợ hãi; nhưng anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nghĩa tử làm cho chúng ta thốt lên: Abba, Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14- 16). “Ta sẽ không để các con mồ côi. Ta sẽ trở lại với các con”. Chúa Giêsu đã đến làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Cha Người. Người đã đến bằng con đường nhập thể để thực hiện kế hoạch tình yêu đó.
Thiên Chúa luôn đi bước trước, yêu thương con người trước và khi con người tuân giữ luật Chúa, họ chứng tỏ họ đã đón nhận, muốn triển nở tình yêu, thăng hoa tình yêu nơi bản thân của mình và trân trọng tình yêu ấy, do đó, họ tuân giữ những điều Chúa dạy để tình yêu của Chúa không bị ứ đọng mà tình yêu của Chúa được lan tỏa đến với mọi người. Chúa Giêsu hiểu giá trị của Lời Ngài, Lời ban sự sống, cứu độ và dẫn đưa con người tới hạnh phúc.
Tuy vậy, Lời của Chúa không thể sinh hoa kết quả nếu con người chỉ nói trên đầu môi chóp lưỡi, nói cách suông, ơ hờ, hời hợt, nhưng những điều Chúa nói cần phải đem ra thực hành với lòng yêu mến. Xưa, Chúa đã trấn an các môn đệ : “Đừng xao xuyến, đừng lo âu”. Ngài ra đi về cùng Chúa Cha nhưng ngài sẽ xin Chúa Cha sai Đấng phù trợ đến. Thánh Thần sẽ hiện diện để hướng dẫn, soi đường chỉ lối cho các môn đệ, cho mọi người. Ngày nay, Chúa cũng nhắc nhở chúng ta : “Nếu chúng ta yêu mến Chúa thì phải tuân giữ giới răn của Chúa”.
Tất cả lề luật chỉ tóm gọn trong hai điều : “mến Chúa và yêu tha nhân” (Mt 22, 40). Đây là điều chính yếu. Bởi vì đó là chân lý. Chúa đã xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến để gìn giữ Giáo Hội đi trong sự thật. Chỉ khi nào chúng ta tuân giữ giới răn Chúa, thực hành những điều Ngài dạy với lòng yêu mến.Chúng ta mới được hưởng dồi dào ân sủng, bình an và sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa nơi tâm hồn và nơi cuộc sống trần thế này.
“Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến”. Chúng ta gặp lại ở đây, dưới hình thức rõ ràng và đánh động hơn, một trong những chân lý cơ bản thường năng được trình bày trong Tân ước. Tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu cấu tạo nên tương quan với Chúa Cha. Vâng giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu là vâng phục Chúa Cha; cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Chúa Cha; ca tụng Chúa Giêsu, tức nhìn nhận thực thể của Người trong niềm thán phục và vui mừng, là phó thác vào Chúa Cha.”Các con sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
Yêu mến… thì sẽ thực thi… phải luôn gắn liền với nhau. Yêu mến Chúa Giêsu thì hẳn phải thực thi lệnh truyền của Ngài, mà lệnh truyền đó đã được Chúa Giêsu gói trọn trong hai giới răn: “Mến Chúa và yêu người”. Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em đồng loại là hai mặt của một tình yêu. Thánh Gioan đã nói rất rõ: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ là phải yêu và thực hành tình yêu đó cách chân thật, vô vị lợi, dán chấp nhận hy sinh vì người mình yêu. Tình yêu đó được chính Đức Giêsu đã hành động, đi qua và Ngài đưa ra lời mời gọi: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như chính thầy là gì, nếu không phải là một tình yêu tự hủy, khiêm tốn, phục vụ và hiến dâng mạng sống vì người mình yêu.
Và Lời Chúa ngày hôm nay dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa Giêsu để được ban Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, được Chúa Cha và Chúa Giê-su yêu thương và được Chúa Giê-su tỏ mình ra. Yêu mến Chúa Giêsu không phải bằng tình cảm ủy mị, ướt át mà bằng những việc làm cụ thể là tuân giữ các giới răn, thực thi các lệnh truyền của Người.