2021
MỤC TỬ NHÂN LÀNH
25.4 CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH
– Ca vịnh tuần IV.
– Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Xin Chúa sai các thợ gặt đến cánh đồng của Chúa, cho nhiều bạn trẻ quảng đại đáp lại tiếng Chúa để dấn thân phục vụ mở mang Nước Chúa. Ý chỉ này cần được giải thích trong bài giảng và được bao gồm trong lời nguyện tín hữu.
– Không cử hành lễ Thánh Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng. Và không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
– Các bài đọc Lời Chúa: Cv 4,8-12; 1 Ga 3,1-2; Ga 10,11-18.
MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Lễ “Chúa Chiên lành” là lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã tự xưng “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10, 11). “Mục tử” là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. “Người chăn chiên” được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan vừa mật thiết, vừa rất “dễ thương” giữa Người và chúng ta.
Chúa Giêsu yêu thương con người bằng một tình yêu thí mạng khi tự ví mình là “mục tử tốt lành”sẵn sàng thí mạng vì đoàn chiên. Người nói thẳng: “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10, 11). Đối với Chúa Giêsu, tất cả là hiện tại, không có gì là quá khứ hay tương lai hết. Điều này đã được nói trong sách Khải Huyền : “Ta là Alpha và Ômêga chính là Ta, Chúa, Thiên Chúa phán, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, Ðấng toàn năng!” (Kh 1,8). Và trong sách Xuất Hành: “Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: “Ta có” đã sai tôi đến với các người! » (Xh 3,14).
“Ta là mục tử tốt lành”. Từ “mục tử” có nguồn gốc từ động từ “chăn nuôi”. Chúa Giêsu Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu mình hằng ngày trong bí tích Mình Thánh. Khi Samuen hỏi Giêsê, cha của Đavít: “Các cậu này tất cả là con trai của ông sao?” Ông đáp: “Còn đứa nhỏ nhất nữa; này nó đang phải chăn cừu!” (1S 16,11). Đavít, một con người bé nhỏ và khiêm nhu, đã chăn sóc đoàn chiên mình như một người mục tử.
Chúng ta cũng đọc thấy trong sách Isaia: “Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con” (Is 40,11)… Quả thật, mục tử tốt lành dẫn chiễn tới đồng cỏ xanh tươi, tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được ; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng ; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế : hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp “con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,52). Người đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người, như mẹ hiền ấp ủ con thơ.
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14 ).
Chúa Giêsu chính là Mục Tử nhân lành mà đàn chiên yêu mến và luôn “theo sau”, là chính Mục Tử mà chiên “nghiện” và bám riết lấy Ngài chứ không chịu theo người lạ. Ngài “biết” rõ chiên của Ngài từng con một. Chiên nào ốm yếu bệnh hoạn tật nguyền ra sao, chiên nào dễ thương ngoan ngoãn, chiên nào đã từng lầm lỡ quay lưng, được “vác” trên vai trở về… Ngài yêu hết, cưng hết dù cách chăm sóc có khác nhau tùy hoàn cảnh khác biệt. Còn lũ chiên ngoan thì nghe tiếng Ngài, nhận biết được tiếng của Ngài, hiểu ý Ngài, Ngài khẽ gọi hay ra dấu hiệu nhỏ là chúng biết ngay và quay ngoắt chạy theo.
Chiên mà gặp “đồng cỏ” thì tha hồ ăn no say thỏa thích. “Đồng cỏ” tươi là chính Máu Thịt của Chủ, ăn mãi mà không chán, không hết. Càng ăn càng “khỏe mạnh” và “lớn” lên mãi, “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Vị Mục Tử Giêsu đã hy sinh tính mạng vì đoàn chiên, Ngài đã chấp nhận cái chết vô cùng bi thương trên Thập Giá để Cứu Độ con người. Trong Ngài những ai tin và sống đức tin thực sự sẽ được hạnh phúc sung mãn tràn đầy. Vì yêu thương Ngài đến để thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, quy tụ thành một đoàn chiên duy nhất, bất kể dân ngoại hay không cắt bì.
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào ? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” không có nghĩa là “biết” được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là “biết” được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác: “Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
2021
VUI MỪNG VÌ CHÚA PHỤC SINH
18.4 CHÚA NHẬT III PHỤC SINH
– Ca vịnh tuần III.
– Trong các Thánh lễ Chúa Nhật này, xin các cha kêu gọi giáo dân quyên góp giúp chủng viện và việc đào tạo ơn gọi làm linh mục vào Chúa Nhật sau.
– Không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
– Các bài đọc Lời Chúa: Cv 3,13-15.17-19; 1 Ga 2,1-5a; Lc 24,35-48.
VUI MỪNG VÌ CHÚA PHỤC SINH
Theo Thánh Kinh, do sự bất phục tùng của Adam tội đã đột nhập vào nhân loại (Rm 5, 12-19). Tội đã truyền lan tới tất cả mọi người, không trừ một ai, đã gieo rắc kinh hoàng và lôi kéo tất cả vào sự chết vĩnh viễn tách lìa với Thiên Chúa. Con người từ đó bị tước đoạt khỏi sự sống, bị đặt dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết (Rm 7, 24-26). Bị tội lỗi và cái chết chiếm đoạt, khủng bố, con người mất đi bình an nội tại, chỉ còn là hoang mang, sợ hãi.
Thế nhưng, Chúa Giêsu Kitô đã sống lại, Ngài đã đánh bại thần chết, giải thoát con người khỏi ách thống trị tội lỗi và cái chết. Qua sự Phục Sinh của Chúa, kinh hoàng sợ hãi và sự chết từ nay đã bị khử trừ, bình an và sự sống mới được trao ban lại cho con người. Tin mừng hôm nay, Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Phục Sinh (Lc 24,35-48), thánh Luca thuật lại rất rõ ràng, Chúa Giêsu Phục Sinh khi hiện ra với các tông đồ, Ngài đã trao ban bình an cho các ông. Chúa Giêsu nói: “Bình an cho anh em”(Lc 24, 36). Và để trấn an Chúa Giêsu nói tiếp: “Chính thầy đây mà, hãy sờ xem” (Lc 24, 39). Rồi để chứng minh Chúa Giêsu cho các ông xem tay chân Người.
Biến cố của ngày Thứ Sáu Chịu nạn đã làm tiêu tan những mối hi vọng của các ông, như hi vọng Thầy mình sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, hi vọng được một chỗ đứng trong vương quốc của nước Người. Thảm cảnh thập giá vẫn còn làm các ông hoang mang và sợ hãi. Hai môn đệ đi làng Emmau quyết định bỏ cuộc về quê. Rồi Chúa Giêsu hiện ra giải thích cho các ông hiểu lời Thánh kinh liên quan đến Người. Khi họ mời Nguời khách lạ vào nhà và lúc Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho họ, họ mới nhận ra Người (Lc 24:30-31). Bình an đã được phục hồi cho họ.
Rồi hai môn đệ vội vã trở về Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và hai ông được bảo là Chúa đã sống lại và hiện ra với ông Simon (Lc 24:33-34). Hai môn đệ Emmau cũng thuật lại cho Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp về việc Chúa hiện ra với hai ông và các ông đã nhận ra Người lúc Người bẻ bánh. Lúc này Chúa lại hiện ra đứng giữa các ông và chúc: Bình an an cho các con (Lc 24:36). Tuy nhiên các tông đồ vẫn: Kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma (Lc 24:37). Chúa Giêsu liền trấn an các ông bằng cách chứng minh căn tính của Người, chỉ cho họ tay chân của Người có xương thịt, chứ không phải là ma. Tuy nhiên các ông vẫn chưa tin vì mừng rỡ mà lại ngỡ ngàng (Lc 24:41), Chúa mới hỏi xem các ông có gì ăn không? Rồi Chúa giải thích lời Thánh kinh cho các ông hiểu về cuộc khổ hình và phục sinh của Ðấng Cứu thế để đem lại bình an cho các ông.
Trước đó cc cũng đã hiện ra với bà Maria Mácđala và mấy bà khác để trấn an các bà (Mt 28:1-10; Lc 24:1-11; Mc 16:1-11; Ga 20:1-18). Chúa Giêsu còn hiện ra với các tông đồ để củng cố đức tin của các ông và ban bình an cho các ông và trao sứ mệnh cho các ông (Mt 28:16-20; Mc 16:12-15; Ga 20:19-23). Ðặc biệt Chúa còn hiện ra với ông Tôma để phục hồi đức tin của ông đã bị dập tắt và đem lại bình an cho ông (Ga 20:24-29).
Lời chúc bình an của Chúa mang ý nghĩa đặc biệt cho người môn đệ của Chúa. Và để duy trì sự bình an, Chúa truyền cho họ rao giảng sự sám hối để được ơn tha tội (Lc 24:47) vì không thể có bình an nội tâm nếu người ta sống trong tình trạng tội lỗi. Do đó mà thánh Phêrô rao giảng sự sám hối và trở lại cùng Chúa để được ơn tha tội (Cv 3:19) và được bình an. Cũng do đó mà thánh Gioan bảo tín hữu phải xa tránh tội lỗi (1Ga 2:1) để duy trì sự bình an.
Ða số người tín hữu cũng có những lần mang những tâm trạng hoang mang, bối rối, lo lắng và sợ hãi khác nhau. Người thì lo sợ mất công ăn, việc làm, sợ phải mang bệnh tật, sợ mất sức khoẻ. Người thì lo sợ phải sống cảnh chia ly xa cách vì gia đình đổ vỡ. Người khác lo sợ những ngày giờ khủng hoảng, đen tối đè nặng trên tâm hồn.
Nếu vậy thì Chúa muốn ta trút tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi vào lòng từ ái của Chúa. Chúa muốn ta đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Việc tín thác vào Chúa là điều mà ta có thể học được bằng kinh nghiệm. Sau khi người ta đã thử đặt tin tưởng vào tiền của, thế lực, địa vị, và rồi cuối cùng người ta thấy không đi đến đâu, có khi còn khổ hơn nữa. Từ đó họ mới tìm đến Chúa.
Qua các môn đệ, Chúa cũng gửi đến ta lời chào bình an. Ngày nay người ta nghe nhiều về những khao khát, ước vọng hoà bình. Nếu đi du lịch bên Do thái vào thập niên 80 của thế kỉ 20 mà gọi điện thoại, người ta sẽ nghe thấy người ở đường giây nói bên kia trả lời shalom, có nghĩa là bình an. Sự kiện đó nói lên người Do thái khao khát hoà bình như thế nào. Trên bình diện quốc gia và quốc tế, hoà bình theo nghĩa từ điển Webster có nghĩa là tình trạng, hay thời kỳ hoà hoãn, thời kỳ đình chiến giữa các quốc gia, hoặc phe nhóm. Tuy nhiên hoà bình có nghĩa gì đối với cá nhân mỗi người? Cũng theo từ điển Webster, hoà bình có nghĩa là trạng thái tĩnh, không bị tư tưởng xung khắc đè nén, nhưng là một sự hoà hợp trong mối tương quan và liên hệ của mỗi người.
Hôm nay mỗi người chúng ta hãy vui mừng hân hoan! Vui mừng vì Chúa đã sống lại. Vui mừng vì Chúa Phục Sinh đang đến với ta. Ngài đến đem lại bình an và sự sống mới cho ta. Dường như nhiều người trong chúng ta chưa nhận thấy vì còn chậm tin. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ các ông sợ hãi vì tưởng thấy ma! Chúa nói: “Sao anh em lại hoảng hốt?” (Lc 24, 38). Cũng như các tông đồ, chúng ta còn sợ hãi là tại vì chúng ta còn ngờ vực, tối dạ, chưa tin Chúa. Chúng ta còn bất an là vì cuộc đời chúng ta thiếu vắng Chúa.
2021
NIỀM TIN PHỤC SINH
NIỀM TIN PHỤC SINH
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình với thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức…
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và sau đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã nhìn thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn không ngớt biểu lộ.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
2021
ĐÓN NHẬN KHỔ ĐAU
28CHÚA NHẬT LỄ LÁ
– Ca vịnh tuần II.
– Khởi đầu Tuần Thánh – Tuần Thương Khó.
– Không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
– Kinh Tiền Tụng Lễ Lá.
– Rước lá: Mc 11,1-10 (hoặc Ga 12,12-16).
– Các bài đọc Lời Chúa trong Thánh lễ: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mc 14,1-15,47 (hoặc Mc 15,1-39).
Hướng dẫn
Hôm nay, Hội Thánh tưởng niệm việc Chúa Ki-tô vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Vì thế, trước mọi Thánh lễ, đều kính nhớ việc Chúa vào thành bằng cuộc rước kiệu (hình thức I), hoặc bằng nghi thức nhập lễ trọng thể (hình thức II), hay bằng nghi thức nhập lễ đơn giản (hình thức III). Nghi thức nhập lễ trọng thể có thể lập lại trước một hoặc hai Thánh lễ khác có đông giáo dân tham dự. Cuộc rước kiệu chỉ làm một lần.
Lá đã làm phép được lưu giữ tại các gia đình, nhằm nhắc nhớ Chúa Ki-tô vinh thắng.
Khi kiệu lá, chủ tế mặc áo lễ (hay áo choàng) màu đỏ.
Sau cuộc rước kiệu (hay sau nghi thức nhập lễ trọng thể) bỏ làm Dấu Thánh giá và hành động sám hối (hay rảy nước thánh) đầu lễ, và đọc ngay Lời Nguyện Nhập Lễ. Sau đó, Thánh lễ tiếp tục như thường lệ.
Vì lợi ích thiêng liêng của giáo dân, nên đọc hết Bài Thương Khó cùng với hai bài sách thánh.
Khi đọc Bài Thương Khó, không mang đèn nến, không xông hương, không chào và cũng không ghi Dấu Thánh Giá trên sách.
Phó tế đọc Bài Thương Khó, hoặc nếu không có Phó tế thì Linh mục đọc.
Giáo dân cũng có thể đọc Bài Thương Khó, nhưng nếu được, nên dành những lời của Chúa Ki-tô cho Linh mục (hay Phó tế).
Nếu là Phó tế, trước khi đọc Bài Thương Khó, phải đến xin chủ tế ban phép lành như trong lễ nào khác.
Hết Bài Thương Khó, xướng “Đó là Lời Chúa” như thường lệ, nhưng không hôn sách. Sau đó, có thể giảng vắn tắt.
Nơi nào không cử hành Thánh lễ, có thể cử hành Phụng Vụ Lời Chúa để tưởng niệm việc Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem và tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa, vào chiều thứ Bảy hoặc ngày Chúa Nhật, với giờ thích hợp.
ĐÓN NHẬN KHỔ ĐAU
Hôm nay, chúng ta nghe tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi đó, phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa Giêsu đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.
Hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Cảnh tượng Chúa Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3,14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!
Với thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì lòng yêu mến Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô để đền bù tội lỗi, cũng như để thu tích công nghiệp cho chính bản thân của mình. Và như thế, đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới vinh quang phục sinh.
Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Người…
Người thắng được bản năng tham sinh úy tử; Người vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác… Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.