2021
SỨC MẠNH CỦA LỜI
31 tháng 1
Chúa nhật 4 TN B
SỨC MẠNH CỦA LỜI
Cách giảng dạy và hành động của Chúa Giêsu trong hội đường Caphácnaum cho thấy sức mạnh của lời phát xuất từ môi miệng Người; lời có sức mạnh trổi vượt so với lời của các ngôn sứ trong Cựu Ước.
Thánh Máccô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Caphácnaum. Một mặt, thánh ký bận tâm phác thảo diện mạo của Chúa Giêsu, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài: Chúa Giêsu xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của một con người thanh khiết và hoàn hảo đến nổi không bất kỳ sự thâm hiểm gian ác nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài. Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm.
“Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo trường lớp về những cách thức giải thích Kinh Thánh một cách tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc tôn sư danh tiếng của họ. Riêng Chúa Giêsu, Ngài không xuất thân từ bất cứ trường lớp nào và cũng không quy chiếu đến bất kỳ “kinh sư” hay “bậc tôn sư” nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo rằng mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.
Không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến Xatan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử hiểu mầu nhiệm của con người nầy; ở Caphanaum, nó bày tỏ qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Chúa Giêsu, tên hiểm ác phải công khai nói lên sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu buộc nó phải câm lặng.
Hoạt cảnh Caphanaum không là duy nhất, nhưng còn xảy ra nhiều lần ở những nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: “Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (Mc 1, 34).
Chúa Giêsu vẫn còn muốn giữ riêng bí mật về con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Thánh Máccô nhấn mạnh nhiều lần Chúa Giêsu muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi “bí mật Thiên Sai” theo Tin Mừng Máccô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng này, Chúa Giêsu kiên quyết bắt ma quỷ không được vén mở chân tính của Ngài, cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài không được tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.
Thật không khó để hiểu được thái độ nầy của Chúa Giêsu. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thể hiện: hình ảnh của một Đấng Thiên Sai “nhân hậu và khiêm hạ tận mức”, hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm nầy chỉ có thể bày tỏ một cách rực rỡ ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Lời của Chúa Giêsu có thẩm quyền từ Thiên Chúa. Dù Chúa Giêsu không tự xưng mình là ngôn sứ, nhưng phần lớn sứ mạng công khai của Người dành cho việc giảng dạy dân chúng. Điểm khác biệt trong cách giảng dạy của Chúa Giêsu được dân chúng ghi nhận vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mc 1,22; 2,10; 11,33). Trong khi các ngôn sứ là những người nói lời Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là “Con Thiên Chúa” (Mc 1, 1.11), nên lời của Người đích thực là lời Thiên Chúa, lời có thẩm quyền của chính Thiên Chúa, chứ không như lời giảng dạy của các kinh sư (Mc 1, 22).
Lời của Chúa Giêsu có sức mạnh khuất phục thần ô uế.
Quả vậy, lời uy quyền của Chúa Giêsu được biểu lộ qua việc Người ra lệnh cho thần ô uế và nó phải chịu khuất phục (Mc 1, 25). Chính thần ô uế cũng biết và thừa nhận thẩm quyền của Chúa Giêsu qua việc tuyên xưng Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24; Lc 4, 34). Trong toàn bộ Tân Ước, lời tuyên xưng này chỉ một lần nữa được đặt trên môi miệng của ông Phêrô (Ga 9, 69). Khi tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, Đấng đã nhận lấy Thánh Thần (Mc 1,9-11) và sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần (Mc 1, 8), Máccô muốn nhấn mạnh rằng Đức Kitô thật sự được Thiên Chúa thánh hiến. Vì được “thánh hiến” nên Người ở trong thế đối nghịch với “thần ô uế”; Người dùng lời quyền năng không chỉ trong việc giảng dạy mà còn để xua trừ thế lực sự dữ.
Lời của Chúa Giêsu mang lại giáo huấn mới mẻ. Thật vậy, Tin Mừng Máccô ghi nhận sự kinh ngạc và thán phục của dân chúng khi lắng nghe lời giảng dạy đầy uy quyền của Chúa Giêsu vì lời Người thực sự là “giáo lý mới mẻ” (Mc 1, 27); lời giáo huấn của Người mở ra một thời đại mới, trong đó con người được lắng nghe và chứng kiến lời uy quyền của Thiên Chúa cách trực tiếp và hoàn toàn mới mẻ, chứ không còn cần qua trung gian gián tiếp là các ngôn sứ nữa.
Tin Mừng Máccô một lần nữa làm nổi bật Chúa Giêsu như là Đấng có lời thẩm quyền của Con Thiên Chúa, lời có sức mạnh khuất phục thần ô uế, lời mang lại giáo huấn mới mẻ và trực tiếp.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
Mỗi ngày, chúng ta vẫn thành tâm nguyện xin: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ.
2021
NGHE VÀ TỪ BỎ MỌI SỰ ĐỂ THEO
24 tháng 1
Chúa nhật III TN năm B
NGHE VÀ TỪ BỎ MỌI SỰ ĐỂ THEO
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống.
Thánh Marcô diễn tả lời gọi mời của Chúa Giêsu ngỏ trao cho bốn môn đệ đầu tiên, như là một sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Đó là một lời cầu ngỏ cách tự nguyện, nhưng cũng là một mệnh lệnh hiển thị qua uy quyền được diễn bày, mà con người không thể cưỡng lại. Mệnh lệnh đó cũng đòi hỏi chúng ta phải đáp trả, ngay hôm nay và ngay lúc này.
Trên bờ biển Galilê, Chúa Giêsu đã thấy Phêrô và Anrê. Ngài truyền lệnh ” Hãy theo tôi”. Sau đó Ngài gặp Giacôbê và Gioan, và cũng gọi hai ông với cùng một dạng thức truyền lệnh giống như thế. Marcô thuật lại, ngay lập tức cả bốn ông bỏ thuyền và lưới để đi theo Ngài. Giacôbê và Gioan còn bỏ lại cả cha của mình cùng những người làm công trên thuyền. Các ông bỏ lại tất cả để đến với Chúa. Uy quyền Chúa Giêsu đã hoàn toàn chinh phục các ông.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Chúa kêu gọi các ông: “Các anh hãy đi theo tôi”. Lời kêu gọi đó Chúa cũng nói với mỗi người chúng ta hôm nay.
Lời mời gọi của Người mang ý nghĩa hy sinh những kế hoạch riêng, những tham vọng, sự an toàn v.v… Đây là một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm, bởi vì họ đang chuyển từ công việc mà họ biết, để đến với một công việc mà họ không hề biết. Nhưng họ cũng biết rằng lời mời gọi của Người đem đến cho họ một cơ hội được sống một cuộc sống trọn vẹn hơn và xứng đáng hơn. Cho đến nay, họ đã có một nghề nghiệp. Bây giờ, họ có được một ơn gọi.
Tin Mừng cho biết cả bốn môn đệ, bốn tông đồ đầu tiên ấy đều là những người chài lưới, và họ đang hành nghề trên biển hồ Galilê. Cho tới lúc đó, chưa bao giờ các ông đưa mắt nhìn xa quá tầm mắt quen thuộc với những công việc sinh nhai hằng ngày. Bây giờ Chúa Giêsu mời gọi các ông nhìn lên cao hơn và xa hơn. Ngài chỉ cho các ông thấy thế giới như biển cả mênh mông, phải vượt khắp đó đây để đánh lưới “sinh linh”. Sứ mệnh của các ông là đem các linh hồn về cho Chúa.
Nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ông đáp lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống cùng với những mối liên hệ ruột thịt tự nhiên. Từ nay các ông sẽ có những bận tâm khác với những lo lắng trước đây. Các ông rời bỏ quê hương làng xóm, nơi chôn nhau cắt rốn, để đi đến những nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia đình các linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt khoát.
Thực vậy, các tông đồ đầu tiên thoát ly mọi sự trước kia đã ràng buộc các ông là để gắn bó với Chúa Giêsu. Các ông đi theo Ngài một cách tin tưởng mà không hỏi xem Ngài sẽ dẫn các ông đi đâu và tương lai sẽ thế nào. Các ông đi theo Ngài để chia sẻ vui sướng, nhưng đồng thời cũng để đồng lao cộng khổ với Ngài. Các ông đi theo Ngài để lãnh nhận lời giáo huấn, lấy đó làm mẫu mực cho đời sống mình trước hết, để rồi sau đó tuyên xưng giáo thuyết của Ngài và truyền bá giáo thuyết đó cho mọi người.
Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi ngày như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê. Ngài thấy ta như Ngài đã thấy bốn môn đệ. Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài. Cái nhìn của Ngài không làm ta bị tê liệt vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta. Cả những yếu đuối và tội lỗi cũng được Ngài đón nhận. Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa. Nhưng hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.
Bốn tông đồ đầu tiên nói riêng và tất cả các tông đồ nói chung, đã thực thi mệnh lệnh “Hãy đi theo tôi” của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn. Các ông đã đi theo Chúa, sống bên Chúa, chứng kiến mọi việc Chúa làm, ghi nhớ những lời Chúa giảng dạy. Và khi Chúa về trời, các ông hăng say rao giảng về Chúa và giáo huấn của Chúa cho đến chết. Đó là đường lối mà các tông đồ đầu tiên và các tông đồ kế tiếp nhau đã làm đổi thay bộ mặt cũng như toàn bộ thế giới cho tới chúng ta ngày nay.
Nếu Chúa Giêsu đã quan tâm kêu gọi những người cộng sự trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng, thì điều đó có nghĩa là Ngài không muốn làm việc một mình mà muốn nước trời là một công trình có sự đóng góp của mọi người, nhất là qua ơn gọi thừa tác. Lời kêu gọi “Hãy đi theo tôi” hôm qua vang lên tai các tông đồ thì hôm nay vẫn còn vang lên trong nhịp sống Giáo hội và gửi đến chúng ta hằng ngày. Vấn đề là chúng ta có quan tâm lắng nghe và đáp ứng không?
Cuộc đời của con người hay được đan dệt bởi hai câu hỏi “sống để làm gì?” và “làm gì để sống?” Sự sống đây tất nhiên không chỉ thuần tuý sự sống của phần xác, được duy trì bằng ăn uống, hoạt động, ngủ nghỉ, nhưng còn là sự sống tâm linh-một sự sống chỉ được thăng hoa khi tìm ra ý nghĩa và giá trị của cuộc đời. Song, ý nghĩa cùng giá trị cao đẹp của cuộc đời con người lại không nằm nơi tiền tài, vật chất, dục tình, danh vọng, nghề nghiệp, nhưng là con người.
“Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi làm ngư phủ bắt người” (Mc 1,17). Phục vụ “con người” mới là lý tưởng và mục tiêu tiến tới. Trải dài trong lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa cất tiếng gọi hay chọn ai- dù là Abraham, Môisen, Samuen, Đức Maria, hay các tông đồ Phêrô, Gioan-không bao giờ chỉ để họ được hưởng phúc vinh, nhưng là để cộng tác trong tiến trình đưa mọi người vào chung hưởng Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương con người.
Để có thể thành công trên bước đường đem niềm hy vọng yêu thương đến cho mọi người và đưa mọi người về với cội nguồn yêu thương là Thiên Chúa, kẻ được gọi trước hết cần phải hướng đến, đón nhận, và bước theo một con người: Chúa Giêsu. Đây chính là đích điểm của mọi đích điểm, giá trị trên mọi giá trị, và chính lộ của muôn vạn nẻo đường.
Do đó trước khi có thể “chài lưới người” là phải “theo Ta”. Không thể nào tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời hay nhận rõ được giá trị của con người để mà đi “lưới” về, nếu không tin phục Đức Kitô.
Thời nào Chúa Giêsu cũng cần những người có tâm huyết cộng tác với Ngài. Và chắc chắn thời nào cũng không thiếu những con người nhiệt tình sẵn sàng hy sinh cho công cuộc của Ngài. Nhưng nhiệt huyết xuông, không đủ, chúng ta cần phải đi đúng đường lối của Ngài. Nếu không, nỗ lực của Giáo Hội chúng ta sẽ chỉ là những nỗ lực kiểu «dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì». Thiết tưởng chúng ta cần phải nắm vững cái nào là cái chính yếu, cái nào là cái phụ thuộc; cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện; cái nào là bản chất, cái nào là hiện tượng. Nhờ phân biệt rõ ràng như thế, chúng ta mới biết hy sinh cái phụ thuộc cho cái chính yếu, coi nhẹ phương tiện hơn mục đích, coi trọng bản chất hơn hiện tượng.
Lúc Ngài thấy ta thì ta vẫn không hay biết. Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới. Ta vẫn tất bật với những lo toan đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ. Chính lúc đó, chính lúc ta tưởng mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng, thì tiếng gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.
Để theo Chúa Giêsu, cần phải từ bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái tôi của bạn? Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự mãn…)?
2021
ĐẾN VÀ Ở LẠI
17 tháng 1
Chúa Nhật thứ Hai Mùa Quanh Năm
1 Sm 3:3-10,19; Tv 40:2-4,7-8,8-9,10; 1 Cr 6:13-15,17-20; Ga 1:35-42
ĐẾN VÀ Ở LẠI
Các bài đọc nói với chúng ta về những người, khi nghe thấy tiếng Thiên Chúa hay Đức Kitô mời gọi, đã trở thành môn đệ và bắt đầu phục vụ ngài. Khi nhìn thấy điều đó đã xảy ra thế nào và những con người được chất vấn đã trả lời ra sao với lời mời gọi, chúng ta được soi sáng về những cách thức mà Thiên Chúa và Con của ngài ngày nay vẫn còn đến gặp gỡ chúng ta, mời gọi chúng ta trở thành môn đệ của ngài.
Trước hết, chính trong thinh lặng mà Samuel nghe thấy một tiếng nói mời gọi ông. Ông không biết rằng, tiếng nói này là tiếng nói của Thiên Chúa. Ông nghĩ rằng, chính thầy tư tế Heli gọi ông. Ông phải có thời gian và sự giúp đỡ của chính Heli để hiểu rằng, chính Thiên Chúa ngỏ lời với ông.
Trang Tin Mừng thánh Gioan tiếp nối những gì vừa nói trên đây. Lần này, thì chúng ta đang ở giữa ban ngày và chúng ta phải làm việc với những người đang đi tìm kiếm Thiên Chúa và Đấng Cứu Thế của ngài. Những người này có đầu óc và con tim hướng về cái vô cùng. Hai người trong số đó là môn đệ của Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri khắc khổ đã không ngần ngại nói về sự ăn năn thống hối để đón nhận Nước Thiên Chúa, đang rất gần.
Chính một lời nói của Gioan “Đây là Con Chiên Thiên Chúa” đã khởi xướng tất cả nơi hai môn đệ. Các ông đi theo Chúa Giêsu, nhìn xem nơi ngài ở và ở lại với ngài trọn ngày hôm đó. Đó là thời gian của một cuộc gặp gỡ thực sự, của một cảm nghiệm mãnh liệt và quyết định.
Để gặp được Chúa Giêsu, cần có người giới thiệu. Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình. Ông Anrê cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em là Simon, và dẫn ông này đến gặp Ngài. Chẳng ai thực sự gặp được Chúa Giêsu mà lại không mong giới thiệu Ngài cho người khác.
Chúa Giêsu là kho tàng cứ mãi lớn lên khi được san sẻ. Hạnh phúc của Gioan Tẩy giả và Anrê là thấy Chúa Giêsu và người mình giới thiệu gặp nhau. Họ chấp nhận tự xóa mình. Gioan chấp nhận chia tay với hai môn đệ yêu dấu. Anrê sau này chẳng được nổi tiếng bằng Simon.
Theo lời giới thiệu của Gioan, hai ông đi theo Chúa Giêsu. Chẳng rõ họ đã đi theo bao lâu và bao xa. Họ rụt rè không biết bắt đầu câu chuyện thế nào. Chúa Giêsu thấy sự lúng túng dễ thương của họ. Chính Ngài đi bước trước, mở đầu cuộc đối thoại.
Sáng hôm sau, chính Anrê đã nói với Simon Phêrô, anh mình: “ Chúng tôi đã gặp thấy Đấng Cứu Thế”. Phêrô theo Anrê, và đến lượt ông, ông khám phá ra Chúa Giêsu.
Khi đã kinh nghiệm tình yêu của Chúa, Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em mình là Simon Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đức Kitô”. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Anrê chắc chắn biểu lộ một sự thích thú rõ rệt. Ông đã sung sướng được gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Dĩ nhiên, ông còn phải ở lại với Chúa Giêsu lâu hơn nữa, còn phải tìm hiểu, phải khám phá nhiều hơn. Nhưng giờ đây, ông cùng chia sẻ với em mình, cùng tìm hiểu, cùng khám phá với em và các bạn khác của ông. Niềm tin của ông càng được củng cố, càng lớn lên trong mức độ ông biết chia sẻ cho người khác.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông trở lại với cuộc sống đời thường. Thế nhưng, từ nay không còn là cuộc sống như trước, vì cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã làm thay đổi tận căn. Giờ đây các ông sống với niềm tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia –Đấng Thiên Sai Cứu Thế- Chính niềm tin đó điều khiển cuộc sống và làm cho cuộc sống người môn đệ mang một ý nghĩa mới.
Chúng ta nhận thấy, cách thức tiến hành mỗi lần đều như nhau. Một nhân chứng chỉ cho môt ai đó sự hiện diện của Đức Kitô. Ngài mời gọi người đó quay hướng về ngài, và đến gần ngài để hiểu rõ ngài hơn. Điều đó không được thực hiện trong nháy mắt, mà phải có thời gian. Thời gian rất cần thiết. Cần phải ở lại bên cạnh Chúa Giêsu trong một thời gian thích hợp để biết rõ ngài là ai, và ngài mời gọi làm điều gì. Đồng thời cũng phải sẵn sàng để đi với ngài đến nơi mà ngài muốn chúng ta đi đến. Cảm nghiệm này có thể biến đổi cả một cuộc đời. Đó là trường hợp của Anrê đã trở thành một trong nhóm Mười Hai. Đó là trường hợp của Simon Phêrô, khi nhận lấy một tên mới “ Con là Phêrô”, được ủy thác cho một sứ mạng mới, sứ mạng là Đá, trên đó Giáo Hội đươc xây dựng.
Rõ ràng là, qua trung gian của Chúa Thánh Thần, Đức Kitô tiếp tục kêu gọi những con người đi theo ngài. Ngài thực hiện điều đó theo cách thức ngày xưa, luôn luôn có giá trị. Ngài thực hiện điều đó bằng cách ngỏ lời nhẹ nhàng trong tận thẩm sâu tâm hồn. Sau đó, khắp nơi trong thế giới và rất gần gũi với chúng ta, ngài khơi gợi lên những chứng nhân; qua những gì họ sống, qua những gì họ làm và những gì họ nói, những chứng nhân nói với chúng ta về ngài và mời gọi chúng ta quay nhìn về ngài.
Những kinh nghiệm này có liên quan đến chúng ta. Biết bao nhiêu lần, khi ngừng lại không chạy đôn chạy đáo, khi chúng ta trở về với lòng minh, khi thinh lặng trong cõi thâm sâu tâm hồn, chúng ta đã nghe một tiếng nói kín đáo mời gọi chúng ta sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, phục vụ anh em nhiều hơn, dành riêng một cách triệt để hơn cho những lý do quan trọng đối với nhân loại và với Thiên Chúa.
Trước những lời mời gọi mà Thiên Chúa trao gởi cho chúng ta, trong thinh lặng tâm hồn, thử hỏi đâu là thái độ của chúng ta ?- Có phải là không chịu lắng nghe ?- Hay làm bộ như không nghe ?- Hoặc cố tình bóp nghẹt cái tiếng nói đang cố gắng vạch ra một con đường đi đến với chúng ta ?- Tất cả những thái độ này đều có thể. Samuel đã chứng tỏ một sự sẵn sàng hoàn toàn, và đã để cho thầy tư tế Heli hướng dẫn. Điều đó đã cho phép ông nhận ra Thiên Chúa và đón tiếp Thiên Chúa đang đến với ông.
Cũng chính một cuộc phiêu lưu như thế có thể đã hơn một lần xảy đến với chúng ta, nếu chúng ta chọn thái độ giống như thái độ của Samuel: sẵn sàng đáp lại và đi theo.
Đức Kitô kêu gọi. Ngài kêu gọi chúng ta. Ngài chất vấn chúng ta. Có thể là mọi sự vẫn như nguyên. Lời kêu gọi biến mất trong gíó. Lời kêu gọi không gây nên một âm vang nào cả, không một lời đáp nào cả. Đó là điều xảy ra khi chúng ta từ chối lắng tai nghe tiếng nói đang nhẹ nhàng và kín đáo đến với chúng ta, hay khi chúng ta không chấp nhận sống một kinh nghiệm mãnh liệt với Đức Kitô.
Sự gắn bó với Chúa cũng như với lời Ngài, sự lắng nghe để nhận ra ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa trong từng sự kiện, trong gừng biến cố của cuộc sống thường ngay phải là thái độ người môn đệ trung tín của Chúa Giêsu cần phải có.
2021
Ý thức phép rửa
10.1 Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa
Is 42:1-4,6-7; Tv 29:1-2,3-4,3-9-10; Cv 10:34-38; Mt 3:13-17
Ý THỨC PHÉP RỬA
Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Chúa Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình.
Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, chối không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa. Thêm một lần nữa Kitô-hữu nhận ra Chúa Giêsu sống trọn thân phận con người, khi Ngài nhận mình đồng hàng với con người cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Mặt khác, chính khi Ngài yêu thương và đồng hóa mình với anh em, thì Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ chân tướng của Ngài qua hành vi và cung cách cư xử của Ngài.
Chúa Giêsu chịu phép rửa không phải vì tội lỗi của Người nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Người là “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2Cr 5, 21). Người đến làm con “Chiên của Thiên Chúa” gánh lấy tội lỗi thế gian (Ga 1,29) thay cho các con chiên đền tội thời Cựu Ước.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Chúa Giêsu trở thành tội nhân, nên Người phải hoà mình với những tội nhân khác để cho ngôn sứ Gioan làm phép rửa cho Người.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để đền thay tội lỗi muôn người. “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành”. (1 Pr 2, 24).
Phép rửa của Chúa Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Chúa Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.
Đi từ phép rửa của Chúa Giêsu, việc Bí tích thánh tẩy được coi như biến cố cơ bản của đời sống Kitô, nghĩa là của sự dấn thân của chúng ta đối với Thiên Chúa và sự cam kết của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đó là khởi điểm cuộc mạo hiểm làm con cái Chúa của chúng ta. Nếu ý thức điều này cha mẹ chúng ta sẽ yêu thương chúng ta bằng một tình yêu hoàn hảo nhất khi giới thiệu với chúng ta một người “Cha” khác, một người Cha lớn hơn các ngài. Rủi thay chúng ta đã không biết gì về biến cố thánh tẩy của mình.
Phép rửa là khởi đầu, khai mào đời sống nghĩa tử của người tín hữu chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Phép rửa dẫn chúng ta vào tương quan nghĩa tử với Thiên Chúa làm cho cuộc đời chúng ta được tràn ngập những quà tặng của Thánh Thần nâng đỡ cuộc đời trần thế của mình. Cuộc đời của người tín hữu là một hành trình thực hiện ơn gọi cao cả này, đó là được kết hợp với Chúa Giêsu để sống ngay từ bây giờ tương quan con thảo của Thiên Chúa.
Đây là hành trình cao cả và cũng rất đòi hỏi bởi vì chúng ta được mời gọi kết hợp với mầu nhiệm thập giá để được cùng chết và cùng phục sinh với Chúa Giêsu. Chúng ta thường nghĩ rằng phép rửa chỉ là một nghi thức đã qua, một nghi thức thực hiện xong rồi không cần phải nhớ lại những cam kết này làm gì nữa.
Thực ra, phép rửa xác định căn tính của người kitô hữu, và họ phải cố gắng thực hiện hằng ngày căn tính này. Phép rửa là một sự dìm mình liên tục và sự đổi mới liên tục để càng lúc chúng ta càng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Có thể nói rằng chúng ta dùng cả cuộc đời của mình để thực hành sống mầu nhiệm này cũng là căn tính của cuộc đời kitô hữu của chúng ta. Cả cuộc đời, chúng ta không ngừng được mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa bằng việc không ngừng kết hợp với Chúa Giêsu nhờ sự thúc đẩy của Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa. Phẩm giá của mỗi người thực là cao cả và chúng ta được mời gọi khám phá và sống căn tính này của mình theo bước chân của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu chịu phép Rửa nhưng Người vẫn hướng đến một phép Rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải chịu: “Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50). Như thế mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ đến mầu nhiệm chết và phục sinh. Chúa Giêsu làm công việc nầy để tỏ lộ công việc cứu thế của Người, tỏ lộ cho nhân loại thấy bản chất cao cả của Người là con rất yêu dấu của Thiên Chúa, là Người con luôn sẳn sàng vâng lời thánh ý Thiên Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Phép Rửa trên thập giá là nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Nhờ phép Rửa đó, chúng ta được trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Chúng ta nhớ rằng mình là người đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng, được dìm mình trong nước để rồi được sai ra đi làm chứng cho mọi người nghĩa sống thực sự như người con được Thiên Chúa yêu mến.