2024
Lạy Chúa Trời xin mở miệng con
8.9 Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Is 35:4-7; Tv 146:7,8-9,9-10; Gc 2:1-5; Mc 7:31-37
Lạy Chúa Trời xin mở miệng con
Một thời gian dài bị đau họng không thể nào nói được để rồi kèm theo đó không biết bao nhiêu là bất tiện. Muốn nhờ người khác giúp cho cái gì thì đều phải ra dấu. Có khi ra dấu cũng không hiểu nên đành phải lấy giấy viết ra mà ghi.
Chỉ ít hôm đau họng mà tôi cảm thấy bất tiện như thế huống hồ mình rơi vào cảnh câm điếc.
Lần nọ, vào quán ăn, trước mắt tôi là gia đình kia có vài người rất lạ. Thay vì họ nói với nhau nhưng không, họ đưa tay ra để đưa dấu cũng như những ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ của người khiếm thính.
Và, một thời gian đủ dài để tôi sống gần với những người khiếm thính. Muốn trao đổi điều gì đó với họ buộc lòng tôi phải học theo ngôn ngữ của người khiếm thính. Vì chỉ là giao tiếp thường nên cũng chỉ học ít dấu chỉ để nói chuyện. Chỉ nhiêu đó thôi cũng đã thấy phức tạp hơn rất nhiều cũng như bất tiện nhiều so với người nghe được và nói được.
Thường thì người bị câm sẽ đi theo luôn cả chứng điếc. Vừa câm mà lại còn vừa điếc nữa nên quả thật là khó khăn.
Ngày hôm nay, ta thấy những người dân ở gần biển Galile đã mang người câm điếc đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chạnh lòng thương anh và rồi Chúa đã chữa lành cho anh khỏi chứng bệnh câm điếc mà anh gặp phải. Và, ta thấy điều lạ đó là Chúa Giêsu cấm anh ta không được nói điều mà Chúa Giêsu mới làm cho anh nhưng rồi anh lại đi loan truyền hồng ân mà Chúa đã làm cho anh.
Nhìn lại anh chàng câm điếc hôm nay ta lại nhìn lại cuộc đời của ta. Chúa cho ta nghe lời của Chúa đó và Chúa mời gọi ta nói lời của Chúa đó nhưng rồi trước lời của Chúa ta cứ giả điếc làm ngơ.
Ta may mắn hơn rất nhiều người nhưng rồi ta không nhận ra đó là quyền năng mà Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta cách đặc biệt.
Ngày hôm nay, dường như người ta lại thích nghe những thông tin có tính cách giật gân hơn là nghe những lời giáo huấn của Giáo Hội, của Thiên Chúa. Cứ thử làm một bảng thống kê ta sẽ nhận ra được điều bi đát trong đời sống con người thực tại.
Cứ có chuyện gì đó xảy ra trong xã hội thì con người lại cứ truyền tai nhau mà khổ một cái là truyền tai chưa chắc là đúng sự thật hay có khi là thiếu đức bác ái và lỗi nặng về đức bác ái nữa.
Qua trang mạng của một giáo phận, người ta biết được, người ta thấy được thông tin của giáo phận treo chén của một linh mục trong giáo phận. Thông báo vừa được dán lên thì một số người nhảy vào và copy đem về trang cá nhân của mình. Từ trang cá nhân của người nào đó và rồi lại cứ loan đi và loan đi.
Chuyện rất nực cười khi suy cho bằng cùng là như thế này: chuyện cha nào đó bị treo chén quả thật là nỗi đau của Giáo Hội, của giáo phận đó. Tôi thiển nghĩ là giáo phận đó đau lòng lắm khi phải đưa ra tờ thông báo đó. Thế nhưng, một số người vì thiếu đạo đức truyền thông và thiếu cả bác ái nên cứ loan truyền nhau. Người này nói người kia, người kia nói người nọ và người ta loan đi để rồi mất tình bác ái với nhau.
Xét cho bằng cùng thì cha đó chẳng làm tổn hại đến những người đi nói thêm về thông tin của cha đó. Chuyện chỉ là giữa tòa giám mục đó và cha đó và giữa cha đó với Chúa thôi. Mình đâu có dính dáng gì đến cha đó đâu mà phải bàn tán xôn xao.
Không chỉ chuyện cha đó bị tòa giám mục đưa ra thông báo treo chén mà còn nhiều chuyện khác trong cuộc đời. Cứ thấy chuyện gì đó đưa lên báo chí là bắt đầu không ít thì nhiều người ta bắt đầu đi tuyên truyền. Và những điều tuyên truyền đó cứ sai lạc để để lại không biết bao nhiêu điều đáng tiếc.
Cả người Công Giáo của ta, ta cũng phải nhìn lại lời ăn tiếng nói của ta, cung cách cư xử của ta trong cuộc sống. Có khi ta hồ đồ, có khi ta bộp chộp, có khi vì tự ái cao để rồi ta làm tổn thương người khác.
Thánh Giacobê mới gọi mỗi người chúng ta: Anh em hãy mau nghe chứ đừng vội nói! Nghe cái đã! Chúa ban cho ta được hồng ân là ta nghe để rồi ta phải sử dụng hồng ân đó như thế nào đẹp lòng Chúa.
Ta vẫn thường chạy theo thói của thế gian là thích nghe và thích nói những điều xúc phạm đến người khác, làm tổn thương đến người khác.
Ta đã từng mất ăn mất ngủ, ta đã từng đau khổ khi nghe người khác nói không đúng về ta, sai sự thật về ta để rồi đó cũng là kinh nghiệm để ta đừng bao giời đối xử với anh chị em đồng loại ta như vậy.
Ta lại xin ơn Chúa để Chúa mở miệng, mở tai tâm hồn của ta để ngày mỗi ngày ta l ắng nghe lời Chúa hơn cũng như ta biết cao rao hồng ân mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của ta hơn.
Ta lại thầm thì với Chúa với tâm tình thánh thi kinh sách tuần II:
Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ,
Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà,
Họ khổ đau, họ kêu gào than thở,
Ðừng để con cứ giả điếc làm ngơ.
Và, xin cho cuộc đời ta mãi mãi được thân thưa với Chúa:
Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con – Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
2024
GIẢ HÌNH
1.9 Chúa Nhật XXII
Đnl 4:1-2,6-8; Tv 15:2-3,3-4,4-5; Gc 1:17-18,21-22,27; Mc 7:1-8,14-15,21-23
GIẢ HÌNH
Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Qua lời xác quyết của Chúa Giêsu chúng ta ghi nhận một sự thật đó là vì yêu thương và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Ngài đã truyền cho chúng ta tuân giữ điều này điều nọ. Và như chúng ta cũng đã biết, tình thương phải được đáp trả lại bằng tình thương. Bởi đó, việc chúng ta tuân giữ những lệnh truyền của Chúa cũng phải được xuất phát từ lòng mến chân thành. Một đi khi đã có lòng mến chân thành rồi, nó sẽ phản chiếu ra những hành động bên ngoài và làm cho những hành động ấy có một giá trị siêu nhiên và vĩnh cửu. Bằng không thì những hành động ấy sẽ chỉ như tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên cơm cháo gì, còn bản thân chúng ta chẳng bao lâu sẽ bị lột mặt nạ, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác và giả hình mà thôi.
Đúng thế, Chúa bảo chúng ta hãy xa tránh men bột biệt phái, vì họ là những kẻ vụ hình thức bên ngoài, họ quá chú trọng đến những chi tiết vụn vặt mà quên đi cái yếu tố căn bản của lề luật, đó là lòng mến bên trong. Người biệt phái quan tâm đến việc tắm gội thân xác, giặt giũ quần áo, lau chùi chén bát, tẩy uế chum vò nhưng lại coi thường lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em, khiến cho Chúa Giêsu đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà quở trách họ: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta. Họ gạt bỏ lề luật của Chúa, để bấu víu vào những tập tục của cha ông. Cái chính thì họ không làm không giữ, nhưng lại đi gữ và làm những cái vô nghĩa. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị.
Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm điểm”, tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình, với cái “tâm” của mình, vừa phải đối diện với “giới luật của Thiên Chúa”. Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài…
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái võ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Vấn đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch.
Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến những hành vi độc ác, xấu xa.
Thực vậy, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”, “Lòng người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”. Để diễn tả người mang mặt nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Đối với Chúa Giêsu thì khác, tâm tình bên trong mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm địa xấu mà phát sinh ra những tội gian dâm, trộm cắp, thù oán, nhưng từ cái tâm địa tốt, chúng ta sẽ có được những hành động yêu thương, giúp đỡ và bố thí đối với anh em. Như thế, tư tưởng của chúng ta sẽ đi đôi với lời nói và lời nói thì đi đôi với việc làm. Chúng ta sẽ trở nên những người đôn hậu và chân thành, chúng ta không phải là những kẻ bôi bác và giả hình.
Lòng dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”. “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”… Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa.
Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu và Kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “tốt mã rã đám”.
2024
Chọn lựa.
25.8 Chủ Nhật Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Gs 24:1-2,15-17,18; Tv 34:2-3,16-17,18-19,20-21; Ep 5:21-32; Ep 5:2,25-32; Ga 6:60-69
Chọn lựa.
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian “hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy”. Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ “làm tôi hai chủ”, mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa?
Trước câu hỏi: “cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?”. Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: “bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời đời”. Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời.
Người xưa thường nói: “Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù”. Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc… Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như sắp sửa mất tất cả, thì điều quan trọng đó là chúng ta cần phải được giúp đỡ để không thất vọng và nản chí. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Bị dồn vào chân tường, nhóm còn lại vẫn tin tưởng vào Chúa, trong khi đó, nhóm thứ nhất thì chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ mà thôi: Tại sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Như thế, một đàng biết chú tâm vào Chúa, còn một đàng chỉ biết chú tâm vào mình. Hai hình ảnh này một lần nữa được diễn tả qua đoạn Tin Mừng kể lại: Đêm khuya, sóng biển nổi lên Chúa Giêsu đi trên mặt nước tiến lại thuyền các môn đệ khiến họ hoảng sợ vì tưởng là ma. Thấy vậy Chúa Giêsu lên tiếng trấn an: Thầy đây, đừng sợ. Phêrô xin Chúa cho mình cũng được đi trên mặt nước tiến đến với Ngài. Thế nhưng khi ông bắt đầu nghi ngờ, thì lập tức ông bị chìm xuống. Lập tức Chúa Giêsu nắm lấy ông vào nói: Sao đức tin của con kém thế. Tại sao con lại hồ nghi? Như thế bao lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi ông rời khỏi Người và bắt đầu chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Giữa những cơn gian nguy thử thách, giữa những lúc khổ đau cay đắng, hãy tin tưởng vào Chúa để cuộc đời chúng ta tìm thấy được sự bình an và hạnh phúc.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: “Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời”.
2024
Mình Máu Thánh Chúa
18.8 Chúa Nhật thứ Hai Mươi Mùa Quanh Năm
Cn 9:1-6; Tv 34:2-3,4-5,6-7; Ep 5:15-20; Ga 6:51-58
Mình Máu Thánh Chúa
Nếu hôm nay có ai đến bảo chúng ta rằng: Bạn hãy ăn thịt và uống máu tôi đi, bạn sẽ sống mãi không chết bao giờ, thì chắc chúng ta sẽ cho là người ấy mắc bệnh tâm thần.
Người Do Thái ngày xưa, kể cả các môn đệ, khi nghe Chúa Giêsu nói những lời lẽ tương tự cũng đã bảo nhau: Lời ấy chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi.
Thực ra người Việt Nam chúng ta có một cách nói khác: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Thực vậy, chén cơm là kết quả của công lao khó nhọc nơi người nông dân: từ lúc gieo xạ, tới lúc chăm sóc, phân bón, làm cỏ, trừ sâu và gặt hái. Bao nhiêu công đoạn là bấy nhiêu nhọc nhằn, có khi còn phải tủi nhục, đoạ đày dưới ánh mắt của những chủ điền độc ác. Chính nhờ mồ hôi nước mắt, nhờ những cay đắng nhọc nhằn ấy mà chúng ta được sống.
Mà không phải chỉ có mồ hôi nước mắt của nhà nông mà thôi. Khi cha mẹ tôi đổ mồ hôi kiếm sống nuôi tôi thì chén cơm trên bàn ăn mẹ xới cho tôi chính là một phần của máu thịt cha mẹ tôi sẻ bớt cho tôi. Tôi sống nhờ thịt máu các ngài.
Chúa Giêsu khi cầm tấm bánh bẻ ra và nói: Tất cả hãy cầm lấy mà ăn, thì Ngài đã nghĩ ngay đến cái chết của mình vì nhân loại, nên đã nói tiếp: Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.
Nếu sau việc làm này, nghĩa là nếu sau khi đã bẻ bánh và nói những lời ấy Chúa Giêsu không bị giết thì việc làm của Ngài chỉ là một chuyện đùa và không ai nhắc lại làm gì. Nhưng thật sự Ngài đã bị giết, bị mai táng và đã sống lại, bởi thế tấm bánh Ngài bẻ ra thực sự có ý nghĩa. Đó là chính thân thể Ngài bị giết để có thể trở thành của ăn của uống cho chúng ta.
Thật vậy, khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó biến thành máu thịt chúng ta. Chúng ta ăn thịt và uống máu Con Người thì thịt máu ấy trở thành thịt máu chúng ta. Người nên một với ta, ta nên một với Người hay nói cách khác, ta ở trong Người và Người ở trong ta. Và như thế, nếu Người sống đời đời thì ta cũng phải được sống đời đời như Người và với Người.
Do đó, nhờ bí tích Thánh Thể chúng ta nhận được từ nơi Người chính sự sống của Người để có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi. Nếu thực sự Đức Kitô sống trong tôi thì điều đó phải được tỏ hiện qua tâm tình, lời nói và hành động của tôi. Bởi thế ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô mà không sống như Người đã sống, nghĩa là không yêu thương anh em như Người đã yêu thương thì kẻ đó đã thực sự rước lễ chẳng nên vì thịt máu Đức Kitô không biến thành thịt máu kẻ ấy. Người đã không ở trong họ và họ cũng chẳng ở trong Người và như vậy họ chẳng bao giờ được sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể không được lập ra chỉ để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành những kẻ đạo đức, mà chủ yếu đây là bí tích của yêu thương và hợp nhất. Bí tích mời gọi chúng ta biết chia sẻ cuộc sống với người khác. Bởi đó, kẻ chỉ biết ngồi ở bàn tiệc Thánh Thể mà không bao giờ biết ngồi vào bàn ăn với anh em, nhất là không biết dọn bàn ăn cho anh em mình, thì đó là kẻ chưa hiểu được ý nghĩa của bí tích này và cũng chẳng hưởng được hồng ân nơi bàn tiệc của Chúa.
Tình yêu mà Đức Giêsu đã thể hiện trong cuộc sống của Ngài. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”. Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được vui lòng. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự trao đổi qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: “Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống”. Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống “biết để sống” đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. “Biết để sống” dẫn đến đa nghi nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.