2020
Tại sao phải rước lễ trong mùa Phục sinh?
Điều 920 của bộ giáo luật hiện hành buộc các tín hữu phải rước lễ một năm ít là một lần, vào mùa Phục sinh. Tại sao có điều luật đó?
Khoản giáo luật vừa trưng dẫn còn được lặp lại trong sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 1389. Tuy nhiên nguồn gốc của nó đã có từ xa xưa, nghĩa là từ công đồng Latêranô IV năm 1215.
Tại sao phải ra luật đó?
Có rất nhiều lý do đôi khi tương phản nhau: có người nguội lạnh, chẳng mấy khi đi nhà thờ, vì thế cần phải ra luật thúc đẩy họ tối thiểu một năm hãy liệu xưng tội rước lễ một lần. Ngược lại, có người quá đạo đức, đi lễ thường xuyên nhưng không dám lên rước lễ vì cảm thấy mình bất xứng. Do đó, cần phải thúc đẩy họ lên rước lễ ít là một năm một lần. Để hiểu rõ vấn đề này hơn, chúng ta nên đi ngược lại dòng lịch sử từ những thế kỷ đầu tiên của Hội thánh.
Các tín hữu tiên khởi rước lễ bao nhiêu lần một năm?
Thực khó nói cách chính xác. Tuy nhiên có thể suy đoán dựa theo vài dữ kiện. Chúng ta biết rằng ngay từ đầu tiên, các Kitô hữu đã có thói quen họp nhau cử hành Thánh Thể hằng tuần vào ngày Chúa nhật, (ngày của Chúa, ngày mừng Chúa Kitô Phục sinh). Chúng ta thấy chứng tích nơi sách Tông đồ công vụ, chương 20 câu 7, kể lại việc thánh Phaolô chủ sự lễ nghi bẻ bánh tại Troa. Sách Điđakhê chương 14 diễn tả việc tham dự lễ bẻ bánh ngày Chúa nhật thành một quy luật. Từ đó ta cũng có thể kết luận được rằng họ cũng rước lễ ít là mỗi tuần một lần. Lý do dễ hiểu, bởi vì việc tham dự Thánh lễ đương nhiên bao hàm việc rước lễ. Thánh lễ được gọi là “việc bẻ bánh”, hàm ngụ ý tưởng một bữa tiệc thánh. Do đó không ai đi dự tiệc mà ra về với bụng trống rỗng.
Từ khi Giáo hội cử hành phụng vụ vào các ngày trong tuần lễ, thì các tín hữu cũng tăng mức độ rước lễ nữa hay sao?
Lịch sử không tiến triển theo đường thẳng, nhưng thường là theo đường ngoằn ngoèo. Xét về kỷ luật chung của Giáo hội thì quả là có sự tiến triển trong việc cử hành Thánh lễ. Vào thời đầu, có lẽ mỗi tuần Giáo hội chỉ cử hành Thánh lễ một lần vào ngày Chúa nhật. Nhưng con số đó tăng lên dần dần, tuỳ theo địa phương. Hồi đầu thế kỷ V, thánh Augustinô (Epistola 54, ad Ianuarium, c.2) viết như sau: “việc dâng lễ thay đổi tùy theo địa phương. Có nơi thì hiệp lễ hàng ngày, có nơi thì chỉ hiệp lễ vào một vài bữa. Có nơi thì không ngày nào bỏ việc dâng Hy lễ; có nơi thì chỉ dâng Thánh lễ vào thứ bảy và Chúa nhật; thậm chí có nơi chỉ dâng lễ vào ngày Chúa nhật”. Như vậy, cho đến thời thánh Augustinô, không phải đâu đâu cũng có Thánh lễ hàng ngày, và thậm chí có nơi chỉ có Thánh lễ ngày Chúa nhật mà thôi.
Điều này không chỉ tuỳ thuộc vào số linh mục nhiều hay ít, nhưng còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nữa. Chẳng hạn như bên các Giáo hội Đông phương, các buổi cử hành Thánh lễ rất long trọng, vì thế không lạ gì mà thường chỉ giới hạn vào ngày Chúa nhật, với sự tham gia đông đảo của cộng đoàn và ca đoàn. Đang khi đó, bên Tây phương, do việc các đan sĩ thụ phong linh mục, cho nên việc cử hành Thánh lễ cũng gia tăng tại các đan viện, không những là Thánh lễ cử hành cho cộng đoàn mỗi ngày, mà mỗi linh mục còn cử hành Thánh lễ kể cả khi không có cộng đoàn tham dự. Hơn thế nữa, việc tăng gia các buổi cử hành Thánh lễ không nhất thiết kèm theo sự tăng gia việc rước lễ.
Tại sao vậy?
Lúc nãy tôi đã nói rằng lịch sử không tiến theo đường thẳng nhưng theo đường ngoằn ngoèo. Một cách tổng quát, ta thấy rằng ở những thế kỷ đầu tiên, việc hiệp lễ gắn liền với việc tham dự Thánh lễ (gọi là lễ bẻ bánh), nhưng dần dần thì hai hành vi được tách rời. Có người rước lễ tuy không tham dự Thánh lễ: điều này xảy ra cho những người đau ốm không thể đi nhà thờ được, hoặc những người bị giam tù trong kỳ bắt đạo. Ngược lại, có người thì tham dự Thánh lễ mà không rước lễ. Điều này xảy ra vì nhiều lý do. Một lý do vừa mới nhắc đến là trường hợp các đan sĩ cử hành Thánh lễ mà không ai tham dự (và do đó không có ai rước lễ); như thế việc rước lễ không còn phải là thành phần của Thánh lễ nữa. Đang khi đó, tại các giáo xứ, thì tuy các tín hữu buộc phải tham dự Thánh lễ hàng tuần, nhưng không hẳn là ai cũng dám lên rước lễ, xét vì cảm thấy lương tâm không ổn.
Như vậy, họ không lên rước lễ vì thấy mình mắc tội trọng, phải không?
Đúng vậy. Dựa theo lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, chương 11 câu 28-29: “Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình”, Giáo hội đòi hỏi các tín hữu phải sạch tội trọng thì mới được phép rước Mình Thánh Chúa. Thế nhưng, trong lịch sử không thiếu những khuynh hướng giải thích chặt chẽ hơn nữa về sự chuẩn bị tâm hồn. Họ đòi hỏi không những chỉ sạch tội trọng, mà cả tội nhẹ cũng như các mối quyến luyến với thế trần. Thậm chí, họ buộc các đôi vợ chồng phải kiêng cữ ái ân thì mới được lên rước lễ.
Nói thế thì chỉ có các tu sĩ mới được xứng đáng rước lễ hay sao?
Các tu sĩ cũng chẳng xứng đáng rước lễ nữa. Mãi cho đến đầu thế kỷ XX, nhiều hiến pháp Dòng tu chỉ cho phép các tu sĩ rước lễ một tháng một lần, nghĩa là 12 lần một năm. Ai muốn rước lễ hàng ngày thì phải có phép của cha giải tội. Vị này có bổn phận trắc nghiệm trình độ đạo đức của linh hồn, rồi mới dám cho phép tu sĩ rước lễ thường xuyên. Thực ra, cha linh hồn không chỉ xét xem linh hồn có mắc tội trọng hay tội nhẹ hay không, nhưng còn muốn biết hiệu quả của việc rước lễ như thế nào: đương sự có tiến triển trên đường nhân đức hay không? Việc rước lễ có phát sinh hoa trái như lòng mong ước hay không?
Nếu việc rước lễ không phát sinh hoa trái, thì tu sĩ chỉ được rước lễ mỗi tháng một lần thôi phải không?
Có lẽ còn ít hơn nữa là đàng khác. Nói như thế chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của sắc lệnh công đồng Latêranô IV năm 1215. Có thể giải thích tầm mức áp dụng sắc lệnh vừa cho các tín hữu biếng nhác (chẳng mấy khi đi nhà thờ) vừa cho những tu sĩ nữa! Theo các sử gia, nghĩa vụ buộc rước lễ mỗi năm ít là một lần bắt nguồn từ các đan sĩ sống trong sa mạc (như thánh Ambrôsiô giải thích: De sacramentis, 5,25). Dù sao thì về sau này giáo luật nhắm tới các người nguội lạnh nhiều hơn.
Từ thế kỷ IX, nhiều công đồng điạ phương buộc các tín hữu phải rước lễ ba lần một năm vào dịp lễ Giáng sinh, Phục sinh và Hiện xuống. Công đồng Latêranô IV thì chỉ buộc rước lễ mỗi năm một lần, ít là vào lễ Phục sinh. Dần dần nghĩa vụ này được kéo dài ra suốt mùa Phục sinh. Bộ giáo luật hiện hành thì giữ lại luật buộc phải rước lễ mỗi năm một lần; nhưng không nhất thiết là trong mùa Phục sinh. Bộ giáo luật hiện hành cũng bỏ những chế tài của công đồng Latêranô, theo đó ai không rước lễ trong tuần lễ Phục sinh thì sẽ bị trục xuất khỏi Giáo hội, và không được an táng theo nghi thức phụng vụ.
Tại sao phải rước lễ mỗi năm một lần?
Như đã nói ở đầu, ta có thể đọc nghĩa vụ này theo hai chiều hướng đối nghịch. Với người thờ ơ lãnh đạm thì luật này thúc đẩy họ hãy nuôi dưỡng lòng đạo, nhờ việc lãnh bí tích Thánh Thể: thân xác cần được nuôi dưỡng thì mới sống được. Ai mà không ăn thì dù chưa chết cũng thấy kiệt lực. Linh hồn cũng cần được bồi dưỡng nhờ bí tích để có sức mạnh chống lại tội lỗi và tăng cường nhân đức. Vì thế mà việc rước lễ mỗi năm một lần là mức tối thiểu. Xuống dưới mức tối thiểu thì có nguy cơ hấp hối.
Mặt khác, nghĩa vụ này cũng nhắc nhớ những người quá bối rối sợ hãi rằng: Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích này không chỉ để cho ta thờ lạy tôn kính, nhưng còn để trở thành lương thực cho ta nữa. Ngài muốn trở nên bánh cho ta ăn, ngõ hầu ta được sống và sống dồi dào. Đành rằng Ngài là Đấng cực thánh, còn ta là kẻ tội lỗi, không xứng đáng cho Ngài ngự vào linh hồn ta, nhưng chúng ta đừng quên phần thứ hai của lời nguyện trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng đáng rước Chúa ngự vào nhà linh hồn con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. Tuy dù chúng ta bất xứng, nhưng chính vì thế mà chúng ta cần Chúa đến thăm, như bệnh nhân cần đến lương y đến chữa lành. Vì thế chúng ta đừng ngại ngùng lên rước lễ khi thấy mình còn nhiều thiếu sót.
Dù sao, có lẽ ngày nay ít người ngại lên rước lễ vì cảm thấy mình bất xứng. Chúng ta chỉ sợ rơi vào tình trạng trái ngược. Cho đến đầu thế kỷ XX, trung bình các tu sĩ được rước lễ mỗi tháng một lần. Bộ giáo luật hiện hành ở số 917 dự liệu những trường hợp được phép rước lễ nhiều lần trong một ngày. Nguy cơ có thể xảy ra là sự thiếu chuẩn bị xứng đáng, không chỉ theo nghĩa là chưa thanh tẩy linh hồn đúng mức, nhưng còn theo nghĩa là chúng ta không lưu ý đến việc để cho Mình Thánh phát sinh những hoa trái mong muốn, đặc biệt là lòng mến Chúa yêu người.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành
2020
Thứ Ba trong tuần Bát Nhật Phục Sinh
Thứ Ba trong tuần Bát Nhật Phục Sinh
Ðọc kinh Vinh Danh
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã ban những bí tích Vượt Qua để đưa chúng con từ cõi chết bước vào cuộc sống. Xin tuôn đổ hồng ân dồi dào cho dân Chúa đạt tới sự tự do hoàn hảo, và ngay ở đời này, được nếm trước niềm hoan lạc chúng con sẽ tận hưởng đời sau. Chúng con cầu xin …
Ca nhập lễ
- Hc 15,3-4
Chúa cho kẻ kính sợ Người uống nước
là chính sự khôn ngoan
để họ được vững lòng
và không hề nao núng.
Chúa cho họ rực rỡ vinh quang
đến muôn thuở muôn đời. Ha-lê-lui-a.
Bài đọc 1
Cv 2,36-41
Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
36 Trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông Phê-rô nói với người Do-thái rằng : “Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này : Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.”
37 Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác : “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì ?” 38 Ông Phê-rô đáp : “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội ; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. 39 Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” 40 Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói : “Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” 41 Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.
Đáp ca
Tv 32,4-5.18-19.20 và 22 (Đ. c.5b)
Đ.Tình thương Chúa chan hoà mặt đất.
4Lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin.5Chúa yêu thích điều công minh chính trực,
tình thương Chúa chan hoà mặt đất.
Đ.Tình thương Chúa chan hoà mặt đất.
18Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,19hầu cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.
Đ.Tình thương Chúa chan hoà mặt đất.
20Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa,
bởi Người luôn che chở phù trì.22Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa,
như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.
Đ.Tình thương Chúa chan hoà mặt đất.
Tung hô Tin Mừng
Tv 117,24
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 20,11-18
Tôi đã thấy Chúa, và Người đã nói với tôi.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
11 Khi ấy, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su gọi bà : “Ma-ri-a !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : “Ráp-bu-ni !” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). 17 Đức Giê-su bảo : “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
Ca hiệp lễ
Cl 3,1-2
Anh em đã được sống lại cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thương giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Chúa Cha. Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới. Ha-lê-lui-a.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin đón nhận lễ vật của chúng con là con cái trong nhà, và thương tình bảo vệ chúng con luôn mãi. Ước gì chúng con không để mất những ơn đã lãnh nhận trong lễ Vượt Qua này, và được hưởng phúc lộc muôn đời Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin …
Lời tiền tụng Phục Sinh
Lạy Chúa chúng con tuyên xưng Chúa mọi lúc, nhất là trong đêm (ngày, mùa) cực thánh này chúng con càng hãnh diện tung hô Chúa khi Ðức Ki-tô đã được hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì chính Người là Chiên thật đã xoá bỏ tội trần gian, Người đã chết để hủy diệt sự chết nơi chúng con, và sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con.
Vì thế, với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu đều nhảy mừng. Cũng vậy, các Dũng thần và các Quyền thần không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho con cái trong nhà được hồng ân vô giá là bí tích thánh tẩy. Xin nhận lời chúng con khẩn nguyện mà chuẩn bị lòng trí chúng con cho đáng hưởng vinh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin …
2020
Thánh Vương Đavit và niềm tin Phục Sinh
THÁNH VƯƠNG ĐAVIT VÀ NIỀM TIN PHỤC SINH
Từ rất xa xưa cho đến nay, đặc biệt thời Chúa Giêsu thì chuyện con người chết đi sống lại xem ra hoàn toàn không có. Chính vì không có thì làm sao con người có thể tin được. Thế nhưng rồi niềm tin vào con người mang tên Giêsu chết và phục sinh ấy là có thật và được loan truyền cho đến ngày nay.
Niềm tin vào Thầy được các môn đệ, được các bà phụ nữ ký tên và đóng dấu sau khi gặp Thầy. Không chỉ gặp Thầy nhưng còn được xem dấu lạ cũng như đồng mâm với Thầy sau mẻ cá lạ.
Tưởng chừng khi sống lại thật thì các môn đệ và các bà tin nhưng phảng phất đâu đó nơi một con người thật với niềm tin thật. Niềm tin vào Đức Chúa và nhất là niềm tin vào sự phục sinh được chất chứa trong lòng của Thánh Vương Đavit.
Chả phải vu vơ, chả phải mù mờ hay không xác tín, Thánh Vịnh 15 cho ta thấy niềm tin của Vua Đa Vít
Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.
Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.
Chính vì vậy, Vua mới xác tín giữa những đau khổ của cuộc đời rằng :
Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Điều này được Công Vụ các tông đồ thuật lại trong ngày thứ Hai của tuần Bát Nhật Phục Sinh Cv 2,14.22b-33 : ” “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng : người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô”
Thật thế, Đức Kitô của chúng ta không chết nữa và cái chết không còn làm chủ trên Ngài để từ nay ai tin vào Đức Kitô thì cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Ngài. Rất mạnh mẽ và xác tín :
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống :
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi !
Vâng ! Đúng như vậy vì lẽ ở bên Chúa thì niềm hoan lạc chẳng hề vơi. Kèm theo tâm tình này, ta lại thấy ca khúc lên Đền và tâm tình khiêm tốn của vua Đavít :
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi !
Đường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu ;
hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng,
giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào Chúa Israel ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Tưởng nghĩ trong những ngày này, những ngày nhân loại đang khổ lụy trong cơn đại dịch thì điều cần thiết hơn bao giờ cần đó vẫn là”ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi !” Cậy vào Chúa Israel ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm”.
Như vậy, người tin vào Đức Kitô Phục Sinh cũng như tin vào quyền năng của Chúa thì cứ mãi mãi bám vào Chúa, cậy vào Chúa chứ không cậy vào sức của mình.
Trong cơn thử thách đau thương mà nhân loại đang gánh chịu, ta lại đọc ra được sự tự cao tự đại của con người chính là nguyên nhân đưa con người đến chỗ diệt vong. Khi và chỉ khi con người nép mình vào lòng Chúa thì lòng sẽ thanh thản và thảnh thơi. Những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh và nhất là Thánh Vương Đavit đã ấp ủ niềm tin ấy vào trong đời mình để đời mãi mãi bình an. Xin cho mỗi người chúng ta dẫu rằng đang loay hoay với cuộc sống, đang lo toan với cuộc đời nhưng vẫn cứ bám vào Chúa, trao đời mình trong tay Chúa để được bình an và nhất là sau khi đi qua cái chết, ta được hưởng phúc trường sinh với Chúa.
2020
Mừng Lễ với Bánh không men của lòng tinh tuyền
MỪNG LỄ VỚI BÁNH KHÔNG MEN CỦA LÒNG TINH TUYỀN
Ta đang sống trong thời đại dịch để rồi tất cả mọi sinh hoạt từ đời thường đến tôn giáo đều phải chậm lại hay có khi dừng lại để tránh tổn thương đến tính mạng. Đứng trước biến cố này, biết bao nhiêu tâm tình đã bày tỏ về đại dịch, về đời sống cá nhân và gia đình và cả với dịp Đại Lễ Phục Sinh.
Nói chuyện với Thầy Học Viện, Thầy chia sẻ rằng năm nay chương trình giúp Tuần Thánh dừng lại hết. Anh em ở nhà đang loay hoay tìm cách sau Đại Lễ phải học online vì sợ chậm chương trình.
Khi nhắc đến chuyện giúp mùa Chay, bao nhiêu kỷ niệm của thời mài ghế Học Viện trở về.
Cứ sau 3 giờ chiều hàng ngày gần Tam Nhật Thánh, từ phòng Chung đến Thư Viện và cả phòng Vi tính, đâu đó râm ran bài Exsultet, Bài Thương Khó. Vì ý thức được việc đi giúp là quan trọng cũng như Phụng Vụ cần phải chỉn chu nên anh em luyện khá kỹ. Anh em chỉnh đi chỉnh lại từ câu từ cho đến ca từ như thế nào là cho đúng. Anh em phải hát như thế nào cho đúng cung giọng kẻ cả : “Ngươi dám trả lời với vị Thượng Tế như vậy sao ?” … rồi ai nào đó vào vai quần chúng thì phải la cho thật to : “Đóng đinh ! Đóng đinh nó vào thập giá …)
Thật thế, đó là những việc phải làm và cần làm của các Thầy để chuẩn bị lên đường đi giúp. Ai ai cũng muốn đạt thành quả tốt nhất và nhất là không để cho Phụng Vụ Tam Nhật Thánh bị sai nên càng cố gắng chăm chỉ.
Chiều qua, áp Lễ Phục Sinh, một số tâm tình rất thật và thật đến mức không còn thật được chia sẻ trong các status về Lễ Phục Sinh :
– Năm nay con buồn quá ! Con không được đi hát Lễ chung với ca đoàn nữa
– Năm nay con không được khoe bộ áo dài mới vừa may xong ! Chán quá !
– Chiều nay không được rước thắp nến đi rước Nến Phục Sinh …
– Năm nay … và … năm nay …
Với tất cả những việc chuẩn bị cho Đại Lễ, với tâm tình nuối tiếc vì phải tạm ngưng Thánh Lễ để không có những sinh hoạt tôn giáo như bình thường là điều rất bình thường theo lẽ tự nhiên. Thế nhưng rồi, tưởng nghĩ mỗi chúng ta, nhất là trong mùa đại dịch này cần phải chìm đắm hơn nữa trong mầu nhiệm Phục Sinh.
Nếu không khéo, ta chỉ dừng lại ở bề mặt, ở cái bề ngoài chuyện đèn nến rước sách … hay chiên la chũm chọe bên ngoài mà đánh mất đi ý nghĩa thật sự của Phục Sinh mà Giáo Hội nhắm tới. Dĩ nhiên bên ngoài cũng cần nhưng nó không phải là căn cốt, không phải tâm tình thật mà Chúa muốn.
Chiều tối qua, một Thánh Lễ Vọng Phục Sinh xem ra “đơn sơ nhất thế giới” với 2 bài đọc Cựu Ước, bài Thánh Thư và Tin Mừng (được phép của Tòa Giám Mục cho trong mùa dịch). Một phụng vụ đêm Vọng Phục Sinh không rước sách, không hoa nến, không kèn không trống, không đàn và cũng không hát …
Dĩ nhiên ai ai cũng buồn và trĩu nặng với niềm vui Phục Sinh, cả bỉ nhân cũng vậy. Thế nhưng rồi, sáng sớm ngày Thứ Nhất trong Tuần, ta được mời gọi nhìn lại, suy niệm tâm tình của Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôsê : … Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Ðức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật.
Chắc có lẽ vấn đề cốt lõi của mầu nhiệm Phục Sinh mà ta mừng là như thế ! Tâm tình được mời gọi là với Bánh không men tinh tuyền và chân thật với nhau từ lời ăn tiếng nói cho đến cung cách hành xử với nhau trong cuộc đời.
Khi và chỉ khi chúng ta bỏ đi men cũ, men của giả hình giả bộ, men của Biệt Phái – Pharisiêu và men gian tà ác độc thì thật sự ta mới mừng lễ một cách chân thành và ý nghĩa. Và, ta vẫn còn nghe văng vẳng bên tai : “Máu chiên bò Chúa không ưng, của lễ toàn thiêu Chúa không nhận, thì này con đến để làm theo ý Cha”.
Xin cho mỗi người chúng ta trong lắng đọng của mùa đại dịch, trong cô tịch của tâm hồn hãy hướng lòng về bên dưới, về chiều sâu của nội tâm để mừng lễ Phục Sinh cách đúng nghĩa như Thánh Phaolô tông đồ mời gọi đó chính là sống với nhau, sống với Chúa bằng lòng tinh tuyền và chân thật chứ đừng giả dối chua ngoa. Ta cùng xin ơn Chúa Phục Sinh ban cho ta để ta sống được như lời Thánh Phaolô chỉ dạy, đơn giản là vì lòng trí ta thì yếu đuối và thân xác ta thì nặng nề.