2020
Bàn thờ hình tròn có được không?
Viếng thăm nhiều nhà thờ, chúng ta nhận ra rằng hầu hết các bàn thờ trong cung thánh có bề mặt là hình chữ nhật. Nhưng thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy bàn thờ có bề mặt là hình vuông, hình tròn hay hình đa giác. Để xác định bàn thờ trong cung thánh nhà thờ có thể làm theo hình tròn hay không, thiết tưởng chúng ta cần tìm hiểu các hình dáng của bàn thờ đã từng xuất hiện và tồn tại trong lịch sử Hội Thánh cũng như duyệt lại luật phụng vụ hiện hành quy định về hình dáng của bàn thờ như thế nào.
Phương diện lịch sử
Thực sự, Tân Ước không nói nhiều đến bàn thờ. Chúng ta có thể biết tới bàn thờ trong thị kiến được nêu ra trong sách Khải huyền. Khi các sách Tân Ước đang được viết, thì cái bàn cộng đoàn sử dụng để cử hành Bữa tiệc của Chúa không phải là bàn thờ thực sự, mà chỉ là cái bàn nhỏ, đơn giản và bằng gỗ với chức năng nguyên thủy, theo như Josef Jungmann cho biết, là để đặt bánh và rượu trên đó, nhưng khía cạnh bàn tiệc của bí tích vẫn sáng tỏ.[1] Nhận định này trùng với ý kiến cho rằng thời các tông đồ, bàn thờ chỉ là một cái bàn ăn (mensa) và được gọi là bàn ăn của Chúa Kitô (mensa Christi) vì Bữa ăn Huynh đệ (Agape) liên kết với lễ Nghi lễ Bẻ bánh (Eucharistia) giữa cộng đoàn[2]. Lúc bấy giờ, Agape đi chung với Eucharistia, bàn có hình chữ C. Nhưng từ khi Agape bị tách ra khỏi Eucharistia vì sự lạm dụng như được mô tả trong 1Cr 11,17-34, thì chỉ còn một cái bàn cho cả cộng đoàn. Căn cứ vào hình ảnh trên các vòm hang toại đạo thì bàn này hình tròn, có ba chân, thường làm bằng gỗ. Mọi người tham dự Nghi lễ Bẻ bánh đứng chung quanh bàn và tiến đến bàn khi hiệp lễ. Do nguồn gốc này mà trong Lễ quy Rôma, dân chúng được gọi là CIRCUMSTANTES, nghĩa đen là những người đứng chung quanh.[3] Trong GH đã từng tồn tại bàn thờ hình bán nguyệt từ thập kỷ đầu của thế kỷ thứ hai. Cổ xưa nhất, cũng như đáng chú ý nhất là bức bích họa về cử hành Thánh Thể được tìm thấy ở nhà nguyện Greca với hình ảnh có bảy người ngồi trên một ghế dài hình bán nguyệt trước một cái bàn cùng hình bán nguyệt.[4]
Ngoài các hình dáng trên đây, hầu như mọi bàn thờ trong nhà thờ/nhà nguyện vào thời kỳ trước Công đồng Vatican II và ngay cả hiện nay đều có hình dáng là chữ nhật hoặc ít là mặt bàn thờ với phiến đá là hình chữ nhật vì bàn thờ được thiết kế như một: ngôi mộ; bàn thờ hy tế; và bàn ăn/ bàn tiệc của Chúa (Mediator Dei, 62; QCSL 73, 296; GLCG 1181; LNGM 945)[5] vì chiều kích hy tế của bí tích Thánh Thể hay chiều dọc của việc thờ phượng trong Thánh lễ được nhấn mạnh nhiều hơn.[6] Bàn thờ này không chỉ là bàn tiệc Thánh Thể mà theo thánh Tôma Aquinô, còn là Thánh giá Chúa Kitô, trên đó Chúa Giêsu chịu sát tế, Ngài “lấy máu mình mà thánh hoá toàn dân” (Hr 13, 10-12).[7]
Sau thời cấm đạo ở Rôma (thế kỷ IV-V), những bàn thờ bằng đá sớm nhất chính là ngôi mộ của các vị tử đạo được chôn cất trong hang toại đạo ở Rôma. Việc cử hành Thánh Thể trên mộ của các vị tử đạo có dấu vết từ thế kỷ thứ hai nhằm tưởng niệm và vinh danh những người sẵn sàng chịu chết vì đức tin. Dưới triều đại của ĐGH Damasus (366-384), các nhà thờ và nhà nguyện được dựng lên ở Rôma và những nơi khác để vinh danh các vị tử đạo nổi tiếng nhất, và các bàn thờ, khi có thể, được đặt ngay phía trên ngôi mộ của họ vì muốn liên kết hài cốt các vị tử đạo với bàn thờ (nơi cử hành Thánh lễ).[8] Điều này thích ứng với những gì sách Khải huyền mô tả: “Khi Con Chiên mở ấn thứ năm, thì tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng”(Kh 6,9). Nó còn nhằm nhấn mạnh ý nghĩa: Hy lễ của các chi thể bắt nguồn từ hy lễ của Đấng là Đầu và là Thủ Lãnh. Vào khoảng thời gian này (thế kỷ IV –VI), người ta cũng có thói quen chôn các linh mục và giám mục dưới bàn thờ. Nhưng ĐGH Félix I tuyên bố chỉ mộ huyệt của các thánh tử đạo mới xứng đáng là nơi để dâng lễ, nên không cho cử hành Thánh lễ trên bất cứ mộ phần nào khác. Đây là lý do mà trong quá khứ, các nhà kiến trúc đã từng thiết kế bàn thờ như một ngôi mộ, đôi khi có cả thi thể của một vị thánh nằm trong đó. Nhất là từ thế kỷ thứ X, người ta đẩy lùi bàn thờ vào cuối cung thánh, linh mục quay mặt vào bàn thờ [sát tường/hậu bầu của cung thánh] để cử hành Thánh Thể, giáo dân nhìn vào lưng của ngài. Còn thầy phó tế, lúc trước đứng đối diện với chủ tế trong suốt Thánh lễ, nay đứng sau lưng của ngài, đương nhiên hình dáng của bàn thờ là hình chữ nhật/ngôi mộ.[9]
Từ sau Công đồng Vatican II, khi chiều kích hiệp thông huynh đệ/bàn tiệc Thánh Thể được nhấn mạnh nhiều hơn hầu giúp toàn thể cộng đoàn có thể tham gia nhiều hơn vào nghi thức Thánh lễ thì mới nảy sinh các thiết kế và xây dựng sau:[10] [i] Thứ nhất, mặt sàn nhà thờ có thể không còn theo kiểu mẫu hình thánh giá của các basilica xưa kia nữa (chẳng hạn như sàn của các nhà thờ chính tòa kiểu Gôtic tại Âu châu, tại Mỹ, các nhà thờ cổ tại Việt Nam hay đa số các nhà thờ tại miền Bắc nước ta). Thay vào đó, sàn nhà thờ của một số thánh đường thời kỳ hậu Vatican II có hình thức gần giống như sàn của một “nhà hát”/ “sân vận động”, nghĩa là chúng được thiết kế và xây dựng theo hình vuông, bán nguyệt, lục giác, bát giác, tròn hay bầu dục. Cung thánh sẽ ở trung tâm hoặc được đặt ở góc của hình vuông hay dựa sát vào tường nếu mẫu nhà thờ có sàn hình bán nguyệt, lục giác hay bát giác; [ii] Thứ hai, một loại bàn thờ chưa bao giờ được biết đến ở tầm mức hoàn vũ và đáng ao ước ở mọi nhà thờ mới. Đó chính là bàn thờ để cử hành Thánh lễ đối diện với dân chúng (versus populum) như đã từng thực hành hồi thế kỷ IV-VI trong những ngôi đại thánh đường, hoặc nơi tư gia, hay thậm chí trong các hang toại đạo.[11] Như vậy, với bàn thờ mới, cộng đoàn dễ dàng tham dự phụng vụ cách tích cực hơn,[12] cho thấy sự hợp nhất giữa chủ tế và dân chúng trong một cử hành.[13] Thêm nữa, vị tư tế có thể cử hành Thánh lễ theo cả hai cách: đối diện với dân chúng hay đối diện với bàn thờ và sẽ phải có một khoảng không gian thềm cung thánh rộng rãi ở cả hai phía của bàn thờ cho chủ tế đứng và bái quỳ cũng như để ngài có thể thuận tiện đi xung quanh bàn thờ mà xông hương (QCSL 299; DX 64).
Hậu nhiên là do những thay đổi trên đây mà người ta bắt đầu thấy xuất hiện trở lại, tuy không nhiều lắm, bàn thờ theo hình tròn/bát giác/bầu dục. Đồng thời người ta còn mô tả bàn thờ là “bàn của cộng đoàn”.[14] J. Gélineau đặt vấn đề như sau:
Vậy cái bàn này phải có hình dáng thế nào để ta thấy đó là nơi Chúa Kitô mời ta đến cùng đồng bàn với Ngài, và để nó nhắc ta nhớ đến các bữa ăn của ta, các cuộc chung vui của ta? Ta phải tỏ dấu kính trọng bàn thờ thế nào? Trang hoàng các bông hoa, ánh sáng…? …Rồi còn những khi người ta chất lên bàn thờ đủ thứ, nào là máy ghi âm, các thứ dây điện chằng chịt, từng chồng sách, cả những máy am-pli, máy thâu băng… Như vậy không phải làm mất hình ảnh bàn thờ đó sao?”[15]
Quy định phụng vụ
Bộ Giáo Luật (1983), khi bàn về “bàn thờ” từ điều 1235-1239, tuyệt nhiên không nói gì đến hình dáng bàn thờ mà chỉ đề cập đến những vấn đề sau: số bàn thờ trong nhà thờ; bàn thờ cố định và bàn thờ lưu động; chất liệu làm bàn thờ (bằng đá, tảng đá tự nhiên duy nhất, hoặc bằng chất liệu khác, xứng đáng và vững chắc…); cung hiến và làm phép; lưu giữ hài cốt các vị tử đạo hay các thánh khác dưới bàn thờ cố định; bàn thờ chỉ được dành riêng cho việc phụng tự, tuyệt đối phải loại trừ mọi sử dụng phàm tục; không chôn táng xác chết dưới bàn thờ và không được phép cử hành Thánh lễ trên bàn thờ ấy.
Toàn bộ Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL] (2002) đề cập đến hạn từ “bàn thờ” ở 213 chỗ, đặc biệt tại mục “Bàn thờ và cách trang trí”, QCSL cho chúng ta biết rất chi tiết về bản chất, chức năng và cách sắp xếp bàn thờ: bàn thờ cố định, bàn thờ di động, việc xây bàn thờ cách vách tường để có thể dễ dàng đi chung quanh và có thể cử hành Thánh lễ quay mặt xuống tín hữu, bàn thờ phải làm bằng chất liệu xứng hợp, quý giá, bền chắc như đá tự nhiên, gỗ quý… (các số 296-308). Tuy nhiên, bộ Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2002) không xác định bàn thờ làm theo theo hình dáng nào.
Tài liệu Dựng Xây Từ Những Viên Đá Sống Động [DX] (2006) của UBGM về Nghệ Thuật Thánh (trực thuộc HĐGM Việt Nam) hầu như chỉ lập lại, khai triển và cụ thể hóa những gì đã được nói đến trong Bộ Giáo Luật (1983) và Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2002) tại các số 63-67. Cách riêng tại số 63, tài liệu hướng dẫn: “Dù không nói rõ kích thước và hình dáng, nhưng bàn thờ cần phải cân đối với nhà thờ. Hình dáng và kích thước cần phản ánh bản chất của bàn thờ là nơi tế lễ và là bàn, nơi mà Chúa Kitô tụ họp cộng đoàn xung quanh để nuôi dưỡng họ…”. Như vậy, Dựng Xây Từ Những Viên Đá Sống Động cũng không xác định bàn thờ làm theo theo hình dáng nào.
Cử hành Thánh lễ bên ngoài nhà thờ/nguyện
Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2002) số 297 nói rằng: “Trong nơi thánh, Thánh lễ phải được cử hành trên một bàn thờ. Ngoài nơi thánh thì có thể cử hành trên một bàn thích hợp, nhưng bao giờ cũng phải có khăn phủ bàn và khăn thánh, thánh giá và nến.” Trong nơi thánh, tuyệt đối Thánh lễ luôn luôn phải cử hành trên bàn thờ và bàn thờ này phải đáp ứng các quy định về luật phụng vụ như vừa nhắc lại trên đây nhưng không nhất thiết là phải có hình vuông, hình chữ nhật hay hình tròn. Còn “cái bàn” bên ngoài nhà thờ dùng để cử hành Thánh lễ được hiểu là một cái bàn thích hợp tại các đền thánh, tư gia hay nơi hành hương trong tâm tình và nhận thức rằng tình yêu của Chúa Kitô lan tràn khắp mặt đất và Hội Thánh tìm thấy nhà của mình không chỉ ở những nơi thánh được dành riêng để tôn thờ Chúa mà còn ở nơi khác nữa.[16] Chính vì vậy, cái bàn này sẽ có những hình dáng khác nhau. Liên quan đến vấn đề này, có thể nói lại ở đây kinh nghiệm của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Tôi đã được cử hành Thánh lễ trong nhà nguyện trên triền núi, trên bờ hồ, trên bãi biển, tôi đã dâng Thánh lễ trên bàn thờ dựng ngay trong sân vận động, trên công trường các thành phố?”[17]
Kết luận
Tóm lại, sự đa dạng của các hình dáng bàn thờ và luật phụng vụ không quy định hình dáng của bàn thờ sẽ dễ dàng dẫn người ta tới chỗ tùy nghi chọn lựa thiết kế bàn thờ hoặc theo hình chữ nhật, hoặc theo hình vuông, hình bầu dục, hay hình tròn phù hợp với kích cỡ cộng đoàn của họ cũng như có tương quan mỹ học với giảng đài, ghế chủ tọa và môi trường phụng vụ nói chung ở đó. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng với những nhà thờ nhỏ, thì bàn thờ nên có hình vuông hay hình chữ nhật; còn với những thánh đường lớn, bàn thờ có thể thiết kế theo hình chữ nhật hay hình tròn vì như vậy bàn thờ mở ra cho 4 phương của thế giới. Dù vậy, phương án tốt nhất là chúng ta nên chọn bàn thờ có hình chữ nhật, vì những lý do sau: [i] Thứ nhất, sự chọn lựa này tiếp tục truyền thống và thực hành phổ biến nhất từ xưa tới nay về hình dáng của bàn thờ; [ii] Thứ hai, hình dáng này thuận lợi nhất cho việc bày trí các vật dụng phụng vụ trên bàn thờ; [iii] Thứ ba, khi nói đến “cạnh bàn thờ”/ “góc bàn thờ” (latus altaris/the side of the altar) đi kèm với hành động của chủ tế/các vị đồng tế như trong Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (2002) tại các số 76, 142, 144-145, 163, 248, 270 và trong Nghi thức Thánh lễ (2002) tại số 28 cũng như tại số 17 của Nghi thức Thánh lễ (2002) [khi chỉ có một thừa tác viên tham dự], rõ ràng chúng ta liền nghĩ ngay, hiểu ngay đến bàn thờ hình chữ nhật hơn bất cứ một hình nào khác và hình tròn thì chắc chắn chẳng có “góc” hay “cạnh” gì cả.
______________
[1] Xc. Dennis McNally, SJ, “Altar”, trong Fink E. Peter, SJ (ed.), The New Dictionary of Sacramental Worship (Collegeville, Minnesota: A. Michael Glazier Book/ The Liturgical Press, 1990)43-45.
[2] J. Jungmann, The Early Liturgy: To the Time of Gregory the Great, tr. Brunner Francis (Indiana: University of Notre Dame Press, 1959), 254.
[3] Charles E. Miller, CM, The Celebration of The Eucharist (Newyork: St Paul’s, Alba House, 2010), 49.
[4] Maurice M. Hassett, “History of the Christian Altar”, trong The Catholic Encyclopedia, copyright © 1913 by the Encyclopedia Press, Inc. Electronic version copyright © 1996 by New Advent, Inc., P.O. Box 281096, Denver, Colorado, USA, 80228. ([email protected]) Taken from the New Advent Web Page (www.knight.org/advent).
[5] Xc. Duncan G. Stroik, The Church Building as a Sacred Place (Chicago/Mundelein, IL: Hillenbrand Books, 2012), 96; Richard Taylor, Làm thế nào để hiểu một thánh đường, dg, Nguyễn Văn Huy (Nxb. Tôn Giáo, 2014),60-61.
[6] Joseph M. Champlin, Bên trong Nhà thờ Công giáo (Nxb. Tôn Giáo, 2015), 64.
[7] Thomae Aquinatis, “In Epistolam ad Hebraeos”, trong Divi Thomae Aquinatis Doctoris Angelici Ordinis Praedicatorum. Opera VII-VIII (Venetiis, 1747), 407-584, 579.
[8] Cuốn “Liber Pontificalis” vốn được gán cho ĐGH Felix I (269-274) chứa một sắc lệnh cho biết Thánh lễ nên được cử hành trên các ngôi mộ của các vị tử đạo (constituit supra memorias martyrum missas celebrare, “Lib. Pont.”, ed. Duchesne, I, 158); Xc. J. B. O’Connell, Church Building and Furnishing (London: Burns & Oates, 1955), 127.
[9] J. B. O’Connell, Church Building and Furnishing, 129; Nguyễn Văn Trinh, Thánh lễ 2 (Lớp BDTH Liên Dòng. Knxb), 148-149; Duncan G. Stroik, The Church Building as a Sacred Place (Chicago/Mundelein, IL: Hillenbrand Books, 2012), 132.
[10] Mark G. Boyer, The Liturgical Environment, 2nd edition (Collegeville, Minnesota: Liturgical Press, 2004), 8-10.
[11] Consilium, “Letter Le renouveau liturgique of Cardinal G. Lercaro to presidents of the conference of bishops, on furthering liturgical reform (30 June 1965)”, trong Documents on the Liturgy 1963 – 1979, Conciliar, Papal, and Curial Texts (Minnesota: The Liturgical Press, 1982), 117-122; J. B. O’Connell, Church Building and Furnishing, 153-154.
[12] Sacra Congregatio Rituum, Instructio, ad exsecutionem constitutionis de sacra liturgia recte ordinandam, AAS 56 (1964) 877-900.
[13] C. Napier, “Altar in Contemporary Church”, trong The Clergy Review 57 (1972/8) 628.
[14] Dennis R. McNamara, Catholic Church Architecture and the Spirit of the Liturgy ((Chicago/Mundelein, IL: Hillenbrand Books, 2009), 219.
[15] J. Gélineau, Họp Nhau Cử Hành Phụng Vụ, tập I (Nxb Đồng Nai, 1992), 217.
[16] Xc. Mary Schaefer – Joanne M. Pierce, “Some General Norms for All Forms of Mass”, eds. Edward Foley, et al., A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Collegeville, Minnesota: A Pueblo Book/ The Liturgical Press, 2007), 361.
[17] ĐGH Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, 8. Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS
2020
Tìm kiếm Thiên Chúa
9.5 Thứ Bảy
Ga 14, 7-14
TÌM KIẾM THIÊN CHÚA
Khi nghe Chúa Giêsu mạc khải về Chúa Cha, các môn đệ đã nêu ra một ước muốn không chỉ của các ông, nhưng còn là điều mơ ước của biết bao người: được tận mắt chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa Cha. Các ông vẫn chưa biết rằng “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” vì “chính Cha ở trong Thầy”. Chúa Giêsu chính là Lời, là Mạc Khải trọn vẹn của Chúa Cha. Như thế, muốn được thấy Chúa Cha thì phải đến với Chúa Giêsu. Ai không biết và yêu mến Chúa Giêsu thì không thể nhận ra dung mạo của Chúa Cha; ngược lại, ai càng gắn bó và thân thiết với Chúa Giêsu thì sẽ dàng nhìn thấy và yêu mến Chúa Cha.
Thánh Gioan lặp đi lặp lai từ “ở trong” để nói lên sự hiệp nhất ấy. Sứ vụ của Chúa Giêsu là: Ngài được Cha sai đến trần gian để thực hiện nhiệm cục cứu độ theo ý Cha và Ngài đã thực hiện điều đó không chỉ trong ý muốn, trong tình yêu mà cả trong hành động nữa bằng chính cái chết đau thương của Ngài. Vì yêu Cha nên ý Cha và ý Ngài trở thành một: “……nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha”.
Tin mừng hôm nay ta thấy Philipphê, một trong nhóm mười hai đã xin Chúa Giêsu tỏ cho thấy Thiên Chúa Cha. Chắc hẳn khi nói điều đó Philipphê đã liên tưởng đến hình ảnh một Thiên Chúa quyền năng đã tỏ vinh quang Ngài trên núi Sinai, một Thiên Chúa mà Môsê chỉ được thấy phía sau lưng Ngài. Tâm trạng của Philipphê cũng là tâm trạng của rất nhiều người trong chúng ta, đó là một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế, không ít người sẵn sàng hao tốn tiền bạc và thời giờ để để tìm đến những nơi xẩy ra sự lạ, đối với họ, một lần hành hương có ý nghĩa và giá trị cho cả cuộc đời.
Đáp lại yêu cầu Philipphê, Chúa Giêsu đã đưa ra một khẳng định và một câu hỏi : trước hết Ngài nêu lên một chân lý : “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”, đó là một thực tại đã quá hiển nhiên : câu hỏi tiếp sau đó như một nhắc nhở cho Philipphê : Hãy nhìn lại cuộc sống thân tình giữa Thầy và các môn đệ. Những lời Thầy nói, những việc Thầy làm, không phải là của Thầy, mà là của Thiên Chúa Cha ở trong Thầy. Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ không nhận ra Ngài là Thiên Chúa.
Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với Philipphê cũng là lời nhắc nhở chúng ta : đừng để những nét quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước mặt Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm dấu lạ, nhưng dấu lạ xẩy ra trước mắt mà chẳng nhìn thấy : hằng ngày qua lời truyền phép, Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ, nhưng đã thấy khi chúng ta tỏ thái độ cung kính tin nhận Ngài ? Trong cuộc sống biết bao lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa nhưng đã mấy lần chúng ta phản tỉnh để nhận ra ơn lành Ngài ban.
Chúa Giêsu luôn là biểu lộ về Cha và Ngài luôn tìm mọi cách để hiệp nhất với Cha trong ý chí cũng như trong hành động. Đó cũng là lý tưởng sống của mọi Kitô hữu chúng ta: cuộc sống của ta phải là một biểu lộ không ngừng về Thiên Chúa trong thế giới hôm nay. Các Thánh đã sống cách sống ấy: một nông dân đã khai trước tòa án phong thánh về nhận định của ông đối với Cha Sở xứ Ars: “Tôi đã thấy Thiên Chúa hiện diện trong một con người”.
Thật thế, để sống được như vậy thì ta phải mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu là mọi suy nghĩ, hành động và ý chí đều phải quy về Cha: danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời… (Kinh Lạy Cha). Sống như thế không phải là “vong thân” như lời kết án của Nietzsche, Triết gia người Đức: “Kitô giáo là vong thân. Con người càng tin tưởng nơi Thiên Chúa, con người càng đánh mất chính mình…vì thế, cần phải loại trừ Thiên Chúa ra khỏi con người”.
Thật thế, không ai dám kết án Chúa Giêsu là vong thân khi cả cuộc đời của Ngài luôn sống và làm theo ý Chúa Cha, bởi Ngài sống và làm vì tình yêu Cha. Cũng như không ai dám kết án các linh mục, tu sĩ nam nữ đã đánh mất chính mình khi các ngài khấn giữ vâng lời, trinh khiết và khó nghèo, bởi các ngài khấn vì yêu.
Và không ai dám kết án một người chồng sẵn sàng hy sinh từ bỏ những tật xấu của mình như cờ bạc, rượu chè….là một người không sống đúng với bản tính thực của mình, một kẻ “sợ vợ”, bởi anh đã hy sinh vì yêu vợ. Có chăng chỉ có các bạn bài và bạn nhậu. Và càng không có ai dám kết án cuộc đời của một Kitô hữu là vô ích, là uổng phí, khi cả đời anh đã sống vì và cho Chúa; vì và cho tha nhân.
Được biết Thiên Chúa và được thấy Ngài, đó là ước muốn rất chính đáng và rất sâu xa của mọi tín hữu. Chúa Giêsu đáp ứng ước vọng đó: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy”. Nhìn Chúa Giêsu ta có thể biết Chúa Cha như thế nào: Nhân từ, hiền hậu, gần gũi với những người đau khổ, khoan dung với những kẽ tội lỗi…Thiên Chúa mà chúng ta thờ là như thế đó.
Nhiều lúc chúng ta tự hỏi “tại sao tôi đã cố gắng rao giảng về Thiên Chúa, phục vụ tha nhân, nhưng tâm hồn vẫn chưa tìm được niềm vui và hạnh phúc?” Đó là vì chúng ta vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn chúng ta. Lời Chúa vẫn chưa thấm vào trong tâm hồn chúng ta. Thánh Thể Chúa chưa là của ăn nuôi dưỡng thực sự của chúng ta. Kinh Thánh chưa trở thành Lời yêu thương của Ngài dành cho chúng ta.
Nói cách khác, Thiên Chúa chưa phải là trung tâm của đời sống chúng ta. Chúng ta vẫn chưa tin và yêu mến Thiên Chúa đủ.
Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với tông đồ Philipphê cũng là lời Ngài muốn nhắc nhở chúng ta hôm nay. Ðừng cho các quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là một điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm kiếm dấu lạ, nhưng rồi dấu lạ xảy ra trước mắt mà lại chẳng nhìn thấy. Hằng ngày qua lời truyền phép của linh mục, Chúa Giêsu hiện diện thực sự trên bàn thờ mà đã mấy lúc chúng ta tỏ ra thái độ cung kính tin nhận Ngài. Và rồi trong cuộc sống, biết bao lời cầu khẩn, xin ơn được dâng lên Thiên Chúa, nhưng đã có lần nào chúng ta biết dừng lại để khám phá ra ơn lành của Ngài đã bị mất giữa chuỗi dài những quen thuộc thường xảy ra.
Ước gì chúng ta giữ mãi thái độ tìm kiếm, một sự tìm kiếm không ở đâu xa, nhưng trong chính cuộc sống quen thuộc hàng ngày. Đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách ngạc nhiên đặt câu hỏi, chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.
2020
Thứ Bảy Tuần IV – Mùa Phục Sinh
Thứ Bảy Tuần IV – Mùa Phục Sinh
Ca nhập lễ
1 Pr 2,9
Anh em là dân riêng của Thiên Chúa,
hãy loan truyền những công trình vĩ đại của Người,
Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối,
vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.
Ha-lê-lui-a.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho hết mọi người trên thế giới đón nhận Tin Mừng Ðức Kitô mà Hội Thánh không ngừng rao giảng, và xin cho chúng con là nghĩa tử được hưởng nhờ ơn cứu độ của Ðức Kitô, Ðấng đổ máu đào trên thập giá để làm chứng cho sự thật. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài đọc 1
Cv 13,44-52
Này đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
44 Vào một ngày sa-bát, gần như cả thành An-ti-ô-khi-a tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng : “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này : Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.”
48 Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
50 Nhưng người Do-thái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
Đáp ca
Tv 97,1.2-3ab.3cd-4 (Đ. c.3cd)
Đ.Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Người.
Đ.Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
2Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ,
mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân ;3abNgười đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa
dành cho nhà Ít-ra-en.
Đ.Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
3cdToàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.4Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đ.Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Tung hô Tin Mừng
- Ga 8,31b-32
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Nếu anh em ở lại trong lời Thầy, thì anh em thật là môn đệ Thầy, và anh em sẽ biết sự thật.” Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 14,7-14
Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”
8 Ông Phi-líp-phê nói : “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời : “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói : ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’ ? 10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy : Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy ; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin đón nhận lễ vật của chúng con là con cái trong nhà, và thương tình bảo vệ chúng con luôn mãi. Ước gì chúng con không để mất những ơn đã lãnh nhận trong lễ Vượt Qua này và được phúc lộc muôn đời Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng Phục Sinh hay Thăng Thiên
Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì Chúa Giê-su, Vua vinh hiển, Ðấng chiến thắng tội lỗi và sự chết, trước sự ngỡ ngàng của các Thiên thần, (hôm nay) lên trời cao thẳm/ làm Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, Ðấng xét xử trần gian và là Chúa muôn loài.
Người lên trời/ không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước.
Vì thế, với niền hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu đều nhảy mừng. Cũng vậy, các Dũng thần và các Quyền thần không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, xin không ngừng bảo vệ chúng con. Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình để cứu chuộc chúng con, xin cho chúng con cũng được chia sẻ phần vinh quang phục sinh của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Ca hiệp lễ
Ga 17,24
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho con. Ha-lê-lui-a.
2020
Phục vụ tha nhân
7.5 Thứ Năm
Ga 13, 16-20
PHỤC VỤ THA NHÂN
Trong khung cảnh Bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy các ông bài học yêu thương và phục vụ. Chúa Giêsu dạy tiếp một bài học rất cần cho các Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai đến là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy.”
Qua việc rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu dạy các ông về bài học phục vụ. Phục vụ không đơn thuần là làm việc này việc kia, nhưng trên hết là để nên giống Chúa Giêsu. Sự phục vụ không chỉ diễn ra trong vài ngày nhưng là cả cuộc đời. Để sống theo gương phục vụ của Chúa Giêsu, các môn đệ đã trải qua nhiều gian nan vất vả, nhiều hy sinh, thậm chí đến mức hiến dâng mạng sống của mình. Các ngài đã được hưởng hạnh phúc Nước Trời mà Chúa hứa ban. Hạnh phúc đích thực đã đến với các môn đệ khi họ tiếp nối sứ mạng phục vụ của Chúa Giêsu, hạnh phúc đó cũng sẽ đến với những Kitô hữu biết đáp lại lời mời gọi của Ngài: “Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc” (Ga 13, 17).
Ngày nay, hai chữ “phục vụ” không có gì xa lạ với mọi người. Trên các bảng hiệu, các trang web, chúng ta nhìn thấy rất nhiều lần chữ “phục vụ”. Đi kèm với những mức độ phục vụ sang trọng là chi phí càng cao. Trong khi đó, Chúa Giêsu muốn mỗi người Kitô hữu có tinh thần phục vụ vô vị lợi, phục vụ vì danh Chúa. Giữa những bận rộn của bổn phận và công việc, làm sao có cơ hội phục vụ mọi người như Chúa mời gọi?
Chúng ta biết rằng Thiên Chúa không đòi hỏi điều gì quá khả năng của chúng ta. Với tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn có thể chu toàn việc bổn phận với một thái độ mới mẻ: làm mọi việc cách chu đáo, hết mình không chỉ vì tiền lương nhưng để người khác được sử dụng những thành quả tốt nhất từ công việc của chúng ta. Chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc với người khác không chỉ vì công việc mà còn vì biết rằng họ là hình ảnh của Chúa. Qua những cử chỉ yêu thương, thái độ thân thiện, cách làm việc tận tụy, chăm chỉ, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô.
Bên các môn đệ thân tín, Chúa Giêsu đã trải lòng với các ông về những tâm tư của mình ; về những điều mà chính Ngài và các ông sẽ phải đối diện: Chúa Giêsu loan báo về sự phản bội của một môn đệ dù người này đã được tuyển chọn vào hàng những người thân tín. Thế nhưng chính ông lại phản bội Thầy mình: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”.
Trong khung cảnh của một giờ cùng chia sẻ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, Người đã nhắn nhủ các ông những lời lẽ chan chứa yêu thương. Các môn đệ cũng lắng nghe Chúa với cả con tim của mình. Hình ảnh này nhắc nhớ mỗi người chúng ta khi đến với Chúa Giêsu qua Thánh lễ, qua các giờ kinh hàng ngày, hàng tuần hay những phút giây ngắn ngủi bên Chúa Giêsu Thánh Thể, đó là những giây phút thân tình bên Chúa.
Cuộc gặp gỡ đó nhiều lúc chỉ hời hợt, thờ ơ trước Chúa. Có những lúc, ta chỉ mong sao Thánh Lễ cho nhanh, đọc kinh cho lẹ. Giây phút đó thoảng qua, không để lại một chút suy tư lắng đọng trong tâm hồn, nó phản ánh cái trống rỗng trong tâm hồn, một tâm hồn thiếu vắng Giêsu. Nhưng cũng nhiều lúc ta cảm thấy ấm áp, thân tình với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa dạy bảo.
Cuộc gặp gỡ này mang lại cho ta sự bình an trong tâm hồn, giúp ta nếm cảm được tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Những trải nghiệm của những phút giây gần gũi bên Chúa giúp ta biến đổi con người của mình nên con người mới. Cuộc gặp gỡ đó giúp ta sống thân tình hơn với tha nhân, nhìn tha nhân bằng cái nhìn cảm thông, yêu thương và dễ tha thứ.
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ đón tiếp những người được Chúa sai đến: “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Chúa Giêsu dạy các môn đệ hành động thật rõ ràng; để đón tiếp Chúa Cha, Đấng đã sai Chúa Giêsu đến với nhân loại, ta phải đón tiếp những người được Chúa Giêsu sai đến. Trong cuộc sống hàng ngày, đã nhiều lần ta gặp gỡ những người được Chúa sai đến.
Đó là những người ẩn trong hình dáng của tha nhân chung quanh ta: một người hành khất, một người hàng xóm nghèo khổ đang sống cạnh ta; một người vô gia cư, một người đang phải đối diện với căn bệnh hiểm nghèo… Ta có vui vẻ, trân trọng đón nhận tất cả những người Chúa gửi đến cho ta, cho ta được tiếp xúc, gặp gỡ hàng ngày. Ta cũng thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc với những người ta không thích, những người luôn gây cho ta những phiền toái, những người ta luôn đố kỵ, ghen ghét, những người ta luôn muốn tránh mặt. Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, Ngài đã không loại trừ ai ra khỏi quỹ đạo yêu thương của Ngài. Chúa luôn mời gọi ta mở lòng đón tiếp mọi người, những người được Chúa sai đến, để nên giống Chúa trong mọi sự.
Trong hoàn cảnh nào Chúa cũng luôn mời gọi ta nên giống Chúa, nên giống Chúa qua việc yêu thương tha nhân, nhất là những người Chúa gửi đến cho ta. Chúa muốn ta đón tiếp Chúa qua họ. Để có thể đọc được thông điệp đó của Chúa, có thể nhận ra Chúa nơi tha nhân, chúng ta hãy ở lại bên Chúa trong thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe những Lời Chúa dạy bảo, lắng nghe những chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của ta.