2024
Nếu các con biết Thầy
27.4 Thứ Bảy trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:44-52; Tv 98:1,2-3,3-4; Ga 14:7-14
Nếu các con biết Thầy
“Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con biết Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con” (c.8). Có lẽ trong mỗi giây phút hăng say bồng bột của tuổi trẻ Philip đã xin với Chúa như vậy.
Câu hỏi của Phi-lip gặp lại sự táo bạo của Môsê và Êlia, những người xin được thấy gương mặt Thiên Chúa. Họ đã được đáp trả ít nhiều qua kinh nghiệm kỳ diệu về lửa cháy và gió thoảng, qua đó họ nghe được tiếng Chúa ; nhưng câu trả lời đích thực chỉ có thể đưa ra khi Thiên Chúa mặc lấy xác phàm trong Chúa Giêsu; và qua việc Biến Hình, Chúa Cha đã cho họ thấy người Con rạng rỡ vinh quang và được bao bọc trong tình âu yếm phụ tử, trước các Tông đồ choáng váng vì ánh sáng chói chang.
Ánh sáng mà giờ đây Chúa Giêsu tỏ ra cho các người đồng bàn tiệc ly, với tư cách là hình ảnh của vị Cha vô hình, ấy là ánh sáng của lòng tận tụy và yêu thương. Đây không phải là Chúa Giêsu hay làm phép lạ, nhưng là Đấng đón nhận trong mình tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu đốt cháy Ngài đến độ Ngài phải chết đi vì tình yêu đó.
Trên thực tế, điều chúng ta thiếu, ấy là biết được Chúa Giêsu qua một cảm nghiệm nội tâm. Nhờ một số kiến thức, nhờ việc nghiên cứu lâu ngày các văn bản thánh, chúng ta nhận được một Chúa Giêsu ở bên ngoài, một Chúa Giêsu cụ thể và chính xác.
Đây là bước đầu; nhưng phải đưa vào nội tâm đối tượng này, cũng như bất cứ đối tượng nào của lý trí hầu trở nên một đối tượng của cảm nghiệm, một nguồn cội cho một sự nhập cuộc cá nhân. Đôi với nhiều người, điều này dẫn đến một sự gắn bó bên ngoài, một cảm giác muốn được tiếp xúc, một sự phấn khởi nhất thời; cần phải đi xa hơn nữa. Sự hiệp nhất cần phải được thực hiện tự thâm sâu con người thiêng liêng của mình nhờ tác động của Thần Khí, sức mạnh duy nhất có thể làm cho chúng ta đi vào mầu nhiệm cứu độ, là Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô: Tái sinh trong Thần Khí, nhờ Thần Khí mà đạt đến thế giới Thiên Chúa, thiết lập một sự hiệp thông tư tưởng và yêu thương với Chúa Cha trong Chúa Kitô: những công thức này vẫn chỉ là công thức nếu không thông qua kinh nguyện cá nhân và kinh nghiệm chứng từ.
Nhưng như Chúa đã xác nhận không ai thấy được Thiên Chúa Cha trừ ra Đức Kitô mà thôi (Ga 1,18. 6,46). Thiên Chúa không còn hiện ra trong sấm chớp hay bằng thị kiến như xưa nữa. Kể từ nay Thiên Chúa Cha tỏ ra trong con người đức Kitô, Đấng không bao lâu nữa sẽ được ánh vinh quang bao phủ. Thứ vinh quang mà Isai chiêm ngắm trong đền thờ xưa chỉ là hình bóng của đức Kitô (Is 6. Ga 12,41). Chúa Kitô đã từng quả quyết “Cha Ta và Ta là một” (Ga 10,30). “Ai thấy Ta là thấy Cha Ta” (c.9). Vì thế từ đây không phải là đền thánh Gierusalem của người Do thái, hay đền thờ của người Samaria ở Garisim (Ga 4, 20) nữa, chỉ còn một nơi duy nhất, một chỗ gặp gỡ duy nhất là chính bản thân đức Kitô, Con Thiên Chúa (Ga 4,21-24. 2,13-22). Từ đây ai đón nhận Ngài là đón nhận Cha Ngài.
Có lẽ câu Philip “Xin tỏ cho chúng con thấy Thiên Chúa Cha” (c.8) phần nào minh chứng ông chưa hiểu mấy về chính Chúa Kitô. Chúa Cha và Chúa Con không thể tách lìa nhau. Con đâm rễ sâu trong Cha và Cha ẩn mình trong Con, Thiên Chúa Cha ở nơi Con và làm việc qua Con. Chúa Giêsu đã quả quyết “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha” (10,38). Các lời nói việc làm của đức Kitô là của Thiên Chúa Cha (5,17-26.30.36.7,16-17. 8,26-29.10,25). Vì thế Chúa Kitô nói nếu không tin vào lời Ngài thí ít ra là hãy tin vào việc làm của Ngài là các phép lạ (10,25.37.38).
Qua bản văn trên chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn minh chứng Ngài là một người thực sự giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Nhưng một đàng Ngài lại khác chúng ta một trời một vực vì Ngài là Thiên Chúa đồng bản tính, đồng việc làm với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Cha qua chính bản thân, lời nói và việc làm của Ngài. Có lẽ lời Chúa trách cứ “Philip à, Thầy đã ở giữa các con biết bao lâu rồi thế mà con chưa biếr Thầy” (c.9). Lời nói này cũng bao hàm như câu của Gioan tiền hô “Trong thế gian có một người mà thế gian không biết” (Ga 1,10).
Nhưng lời ấy vẫn là lời tiên tri vang dội cho mỗi thời đại. Cũng như xưa kia Chúa Giêsu đã sống giữa dân Ngài 33 năm ròng. Ngài đã gặp gỡ, chuyện vãn, nhìn ngắm quê hương Ngài, Ngài đã dạy dỗ và làm phép lạ. Nhưng họ mỉa mai Ngài là con bác thợ mộc (Mc 6,3), là bị mát, cần phải dẫn về quê, là thông đồng với Beelgiêbuth…
Hình như giữa Ngài và chúng ta như có một bức tường lãnh đạm chống đối nào đó, mỗi người trong chúng ta đều mang trong mình một thứ chống đối Thiên Chúa. Chúng ta như cố vùng vẫy thoát ly khỏi tay Ngài. Dù được Ngài mời gọi, nhưng chúng ta vẫn cứ viện những lý do riêng để từ chối Ngài như những người kia từ chối tiệc cưới con vua vậy (Mt 22,1-14). Sau 20 thế kỷ ai trong chúng ta tránh được lời trách của Chúa “Thày đã ở giữa các con biết bao lâu… “. Đã từ lâu các con chưa nhận ra Ta đói khát, cô đơn, hất hủi, khinh miệt. Sau hai ngàn năm sự có mặt của Chúa như thể là sự có mặt trong bóng tối. Và có lẽ không sẽ có mặt như thế mãi đến tận thế. Thiên Chúa ở giữa sự im lặng.
Thiên Chúa sinh ra trong cảnh im lìm của đêm thâu. Ngài sống 30 năm trầm lặng. Ngài phục sinh trong đêm khuya. Ngài sống lai, hiện ra rồi đấy nhưng Madalêna tưởng đâu là bác làm vườn (Ga 20,15), hai môn đệ Emmaus tưởng Ngài là khách bộ hành (Lc 24,13), các môn đệ tưởng là ma (Lc 24,36).
Người của Chúa nhận ra tiếng Chúa “Chiên Ta biết Ta” (Ga 10,14). Ai nhẫn nại làm quen với công việc của Chúa sẽ dễ nhận ra Ngài khắp nơi. Chúa ở gần chúng ta lắm ! sách Khải huyền nói “Đây Ta đứng ngoài cửa lòng và Ta gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào dùng bữa với nó, nó với Ta” (3,20). Như vậy nếu chúng ta chưa gặp được Ngài thì lỗi ấy tại ai ?
Chúa Giêsu đã đưa ra một Khẳng định và một câu hỏi: trước hết Ngài nêu lên một chân lý: “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”, đó là một thực tại đã quá thiên nhiên; câu hỏi tiếp sau đó như một nhắc nhở cho Philip: Hãy nhìn lại cuộc sống thân tình giữa Thầy và các môn đệ. Những lời Thầy nói, những việc Thầy làm, không phải là của Thầy mà là của ThiênChúa Cha ở trong Thầy.
Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ không nhận ra Ngài là Thiên Chúa. Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với Philip cũng là lời nhắc nhở chúng ta: đừng để những nét quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước mặt Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm dấu lạ, nhưng dấu lạ xảy ra trước mắt mà chẳng nhìn thấy: hàng ngày qua lời truyền phép, Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ nhưng đã mấy khi chúng ta tỏ thái độ cung kính tin nhận Ngài? Trong cuộc sống biết bao lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa nhưng đã mấy lần chúng ta phản tỉnh để nhận ra ơn lành Ngài ban.
Ước gì chúng ta giữ mãi thái độ tìm kiếm một sự tìm kiếm không ở đâu xa, nhưng trong chính cuộc sống quen thuộc hàng ngày. Đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách ngạc nhiên đặt câu hỏi chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.
2024
Thứ Bảy Tuần IV – Mùa Phục Sinh
Thứ Bảy Tuần IV – Mùa Phục Sinh
Ca nhập lễ
1 Pr 2,9
Anh em là dân riêng của Thiên Chúa,
hãy loan truyền những công trình vĩ đại của Người,
Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối,
vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã dùng bí tích thánh tẩy để tái tạo chúng con nên người mới. Xin cho chúng con tích cực sống mầu nhiệm Vượt Qua, để nhờ ơn thánh Chúa nâng đỡ, chúng con mang lại nhiều hoa trái và được hưởng niềm vui của cuộc sống muôn đời. Chúng con cầu xin…
Ha-lê-lui-a.
Bài đọc 1
Cv 13,44-52
Này đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
44 Vào một ngày sa-bát, gần như cả thành An-ti-ô-khi-a tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng : “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47 Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này : Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.”
48 Nghe thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
50 Nhưng người Do-thái sách động nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
Đáp ca
Tv 97,1.2-3ab.3cd-4 (Đ. c.3cd)
Đ.Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Người.
Đ.Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
2Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ,
mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân ;3abNgười đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa
dành cho nhà Ít-ra-en.
Đ.Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
3cdToàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.4Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đ.Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Tung hô Tin Mừng
- Ga 8,31b-32
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Nếu anh em ở lại trong lời Thầy, thì anh em thật là môn đệ Thầy, và anh em sẽ biết sự thật.” Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 14,7-14
Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”
8 Ông Phi-líp-phê nói : “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời : “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói : ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’ ? 10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy : Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy ; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin thánh hoá và chấp nhận của lễ này, là biểu hiệu lễ tế thiêng liêng của Giáo Hội; xin Chúa cũng thương tình biến đổi chúng con thành của lễ muôn đời đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa mọi lúc, nhất là trong mùa cực thánh này, chúng con càng hãnh diện tung hô Chúa khi Ðức Ki-tô đã được hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Người không ngừng hiến thân vì chúng con, và luôn làm trạng sư bênh vực chúng con trước toà Chúa. Người đã bị sát tế mà không còn chết nữa, dù đã bị giết mà vẫn sống luôn mãi.
Vì thế với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu đều nhảy mừng. Cũng vậy, các Dũng thần và các Quyền thần không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Ga 17,24
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho con. Ha-lê-lui-a.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa cử hành lễ tạ ơn để tưởng nhớ Ðức Kitô Con Chúa, như lời Người truyền dạy, và chúng con đã được rước Mình và Máu Thánh Người; cúi xin Chúa nhận lời chúng con khẩn nguyện và ban cho chúng con được thêm lòng yêu mến. Chúng con cầu xin…
2024
Thứ Sáu Tuần IV – Mùa Phục Sinh
Thứ Sáu Tuần IV – Mùa Phục Sinh
Ca nhập lễ
Kh 5,9-10
Lạy Chúa,
Chúa đã lấy máu đào cứu chuộc chúng con,
thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ,
thuộc mọi nước mọi dân.
Chúa đã làm cho chúng con
thành một vương quốc, thành những tư tế
để phụng thờ Thiên Chúa. Ha-lê-lui-a.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã thương cứu chuộc chúng con bằng giá máu của Con Một Chúa và làm cho chúng con được tự do hoàn toàn; xin nhận lời chúng con cầu khẩn mà cho chúng con biết nhận Chúa là lẽ sống và tìm được trong Chúa niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn. Chúng con cầu xin…
Bài đọc 1
Cv 13,26-33
Điều Thiên Chúa hứa, thì Người đã thực hiện khi làm cho Đức Giê-su sống lại.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
26 Khi đến An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, ông Phao-lô đứng giữa hội đường và nói : “Thưa đồng bào Ít-ra-en, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta. 27 Dân cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giê-su ; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày sa-bát. 28 Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử. 29 Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ. 30 Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. 31 Trong nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân.
32 “Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này : điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, 33 thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2 : Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.”
Đáp ca
Tv 2,6-7.8-9.10-11 (Đ. c.7)
Đ.Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.
6“Chính Ta đã đặt vị quân vương Ta tuyển chọn,
lên trị vì Xi-on, núi thánh của Ta.”7Tân vương lên tiếng : Tôi xin đọc sắc phong của Chúa,
Người phán bảo tôi rằng : “Con là con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
Đ.Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.
8Con cứ xin, rồi Cha ban tặng
muôn dân nước làm sản nghiệp riêng,
toàn cõi đất làm phần lãnh địa.9Con sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành,
nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm.”
Đ.Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.
10Vậy giờ đây, hỡi các vua chúa, hãy biết điều,
thủ lãnh trần gian, nào tỉnh ngộ !11Đem lòng kính sợ mà phụng thờ Đức Chúa,
hãy khiếp run phủ phục dưới chân Người !
Đ.Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.
Tung hô Tin Mừng
Ga 14,6
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 14,1-6
Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường ?” 6 Đức Giê-su đáp : “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin đón nhận lễ vật của chúng con là con cái trong nhà, và thương tình bảo vệ chúng con luôn mãi. Ước gì chúng con không để mất những ơn đã lãnh nhận trong lễ Vượt Qua này và được hưởng phúc lộc muôn đời Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa mọi lúc, nhất là trong mùa cực thánh này, chúng con càng hãnh diện tung hô Chúa khi Ðức Ki-tô đã được hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Người không ngừng hiến thân vì chúng con, và luôn làm trạng sư bênh vực chúng con trước toà Chúa. Người đã bị sát tế mà không còn chết nữa, dù đã bị giết mà vẫn sống luôn mãi.
Vì thế với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu đều nhảy mừng. Cũng vậy, các Dũng thần và các Quyền thần không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Rm 4,25
Đức Ki-tô, Chúa chúng ta,
đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta,
và Người đã sống lại
để chúng ta được nên công chính. Ha-lê-lui-a.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, xin không ngừng bảo vệ chúng con. Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình để cứu chuộc chúng con, xin cho chúng con cũng được chia sẻ phần vinh quang phục sinh của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
2024
Hãy đi loan báo Tin Mừng – Tân Phúc Âm hóa
25.4 Thánh Máccô, Thánh Sử
Cv 13:13-25; Tv 89:2-3,21-22,25,27; Ga 13:16-20
Hãy đi loan báo Tin Mừng – Tân Phúc Âm hóa
Marcô là ai? Chắc chắn Ngài không phải là một trong 12 tông đồ. Nhưng một người tên Marcô đã được các cộng đoàn Kitô giáo sơ khai biết đến, nhiều như là người bạn đồng hành của thánh Phaolô và như người bạn thân ái của thánh Phêrô ở Roma (Cl 4, 10; 1 Pr 5, 13; 2 Tm 4, 11). Sách Công vụ ba lần nói tới một “Gioan cũng gọi là Marcô” (Cv 12, 12; 25, 15. 17) là bạn thiết của thánh Barnaba.
Các học giả thường đồng ý rằng: Marcô đã được nói tới trong các thánh thư, Gioan tên Marcô trong sách công vụ và tác giả Phúc âm thứ II đều chỉ là một người. Đồng ý với sự đồng hóa trên, chúng ta có thể phác họa hình ảnh của thánh sử như sau:
Ngài là con của Maria. Một góa phụ giàu có ở Giêrusalem có một người giúp việc và căn nhà rộng rãi làm nơi tụ họp các tín hữu.
Năm 43, sau khi thoát khỏi ngục tù, thánh Phêrô đã chọn nhà này làm nơi trú ngụ (Cv 12, 12-17). Như thế, Marcô sớm quen thuộc với những ghi nhận của thánh Phêrô. Hai năm sau, tức là năm 45, chúng ta thấy Marcô và thánh Barnaba cùng đi trong cuộc hành trình thứ nhất của Phaolô. Nhưng khi đoàn truyền giáo đi về hướng bắc, Marcô đã từ giã để trở về Giêrusalem (Cv 13, 13). Phaolô bất bình và không muốn nhận cho Marcô đi theo trong cuộc hành trình thứ hai. Năm 50, như Barnaba đề nghị, Barnaba về phe với Marcô, và đáp tàu về Cyprus là quê hương của Barnaba (Cv 15, 36-39).
Chúng ta không thấy nói gì đến Marcô nữa cho tới năm 61 khi Ngài ở Roma với Phaolô (Cl. 4, 10), ba năm sau tức là năm 64 thánh nhân vẫn có mặt ở Roma vì Phêrô có nhắc tới tên Người trong các lời chào của mình (1Pr 5, 13). Đây là năm thánh Phêrô chịu tử đạo. Ít lâu sau đó có lẽ thánh Marcô đã bắt đầu viết sách Phúc âm ở Roma, dầu một số tác giả mới đây cho rằng ở Alexandri. Năm 67, thánh sử ở Ephesô vì một ít tháng trước khi qua đời, thánh Phaolô dặn dò Timothêô đưa theo Marcô đến Roma (2Tm 4, 14). Mối bất hòa xưa đã được hàn gắn hoàn toàn.
Người ta không chắc chắn Marcô là tác giả sách Tin Mừng thứ hai, nhưng người ta rất đồng ý về đời sống của Ngài là một phần tử thực hiện lệnh truyền đi rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô cho mọi dân tộc không phân biệt ranh giới không gian và thời gian. Sách Công Vụ Tông Đồ (13, 13, 15, 38) đã cho chúng ta thấy Marcô còn trẻ người non dạ, vì Thánh Phaolô đã thất vọng từ chối không nhận Marcô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai của Ngài.
Tuy nhiên khi trở về Giêrusalem quê nhà cha mẹ, Marcô đã có nhiều điểm tốt phụng vụ cộng đồng Kitô hữu tiên khởi. (Cv. 12, 12). Rồi Ngài đi với cậu mình là Bêrnabê đi truyền giáo ở đảo Síp. (Chypre), sau đó đến Rôma nhập đoàn với Thánh Phaolô đang bị tù, và Ngài đã giúp Thánh Phêrô như là một thông dịch viên, có lẽ nhờ công việc này, đã xuất bản cuốn Tin Mừng Marcô, rất tượng hình, rất gần kinh nghiệm của Phêrô sống với Đức Giê-su; người ta còn nói Ngài còn là Giám Mục tiên khởi Hội Thánh ở Alexandria, và sau cùng ở Venise, nên Tin Mừng của Ngài có biểu tượng nổi tiếng là con sư tử.
Chúng ta hãy trở lại Tin Mừng của Ngài. Người ta tin tác phẩm Tin Mừng là của Ngài đã để lại một tâm sự trong đoạn 14, 51-52 kể lại: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn chỉ một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng”. Đây cũng là dấu chỉ sự sống lại trong những người được sai đi rao giảng Tin Mừng và cũng đủ trả lời khá rõ ràng về tác giả Tin Mừng là của Thánh Marcô, một Tin Mừng có một có một sức mạnh rất cụ thể sống động chống lại sức mạnh của quỉ dữ muốn làm hại Chúa Giêsu.
Ngày nay người ta khá coi thường một thứ Tin Mừng có nhiều phép lạ, nó lôi kéo chú ý về những kỳ lạ hơn về sứ điệp thứ tha và giải tháot của Tin Mừng; may thay bản văn vẫn ưu tiên dành cho lời Chúa. Hãy suy nghĩ đến sức mạnh tâm hồn của các vị truyền giáo, đến những ân huệ các Ngài đã mang đến cho một thế giới trong lầm than được nghe loan báo về Đấng Cứu Thế đã toàn thắng, đã đoạt được vinh quang của ngai tòa Thiên Chúa. Như Marcô, khiêm tốn nhưng hăng say, chính Ngài đã tiếp tục theo chân những người nghèo khó nói những lời định mệnh cho đến tận thế để nối đất của chúng ta với trời.
Thánh Mác-cô là một trong bốn tác giả đã ghi lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Bốn thánh sử viết Tin Mừng của Chúa Giêsu là Matthêu, Marcô, Luca và Gioan. Tất cả bốn thánh sử, mỗi người một vẻ, mỗi người một cách đã tường thuật đầy đủ cuộc đời của Chúa Giêsu. Thánh Marcô đã được Chúa gọi mời, tuyển chọn để trở nên tông đồ và là một người tường thuật lại đời sống của Chúa Giêsu.
Thánh Mác-cô là người Do Thái, thuộc dòng họ Lêvi. Sau khi Chúa lên trời, thánh nhân theo thánh Phêrô, vị tông đồ trưởng, sang La mã. Thánh nhân được thánh Phêrô trìu mến và yêu thương, nâng đỡ cách đặc biệt. Thánh Marcô hăng say giảng đạo và nhờ lòng nhiệt thành, hăng say loan báo Tin Mừng cho Chúa Giêsu, nhiều người đã quay trở về với Chúa và Giáo Hội. Số người trở lại càng ngày càng đông, nhưng không có một tài liệu nào để giúp giáo dân học hỏi và tham khảo. Nhiều người ao ước có một bản viết về cuộc đời của Chúa Cứu Thế. Với những yêu cầu và khao khát của nhiều người. Thánh Marcô đã viết lại cuộc đời của Chúa Giêsu một cách mạch lạc và rõ ràng theo chương mục dựa theo lời giảng dạy của thánh Phêrô. Thánh Phêrô đã cho phép phổ biến và dùng trong giáo đoàn.
Trong Tin Mừng hôm nay. Thánh Marcô đã ghi lại mệnh lệnh của Chúa Giêsu trước khi Ngài về trời : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,16). Mệnh lệnh Truyền giáo vẫn là nỗi ưu tư hàng đầu của Hội Thánh Chúa Kitô trải qua mọi thời đại.
Một sự kiện nổi bật trong Năm Đức Tin là cuộc kỷ niệm kéo dài hai ngày tại Rome về phẩm giá của cuộc sống và những phương thế để kết hợp giáo huấn này trong chương trình Tân Phúc Âm Hóa.
Cha Geno Sylva, vị đại diện của các dân tộc nói tiếng Anh tại Hội Đồng Giáo Hoàng Thúc đẩy Tân Phúc Âm Hóa, hy vọng sự kiện này sẽ nói lên một tiếng nói rõ ràng với thế giới trần tục và thế giới “sẽ phải lắng nghe và kết luận rằng ‘quả thật, có một nền văn hóa sự sống phát ra từ Giáo Hội.’ ” Đó là hai ngày hội quốc tế từ với một buổi thảo luận giáo lý về “Tin Mừng Sự Sống và Phúc Âm mới”.
Sự kiện này sẽ giúp “khám phá ra các chân lý lâu dài và vượt thời gian của thông điệp”Evangelium Vitae” do Chân Phước John Paul II ban hành năm 1995 và vai trò chính mà ‘Tin Mừng Sự Sống’ vẫn tiếp tục trong việc truyền giáo mới của Giáo Hội. Cha Sylva giải thích rằng điều quan trọng trong việc rao giảng chính là lúc mà người nghe “hiểu về đức tin của chúng ta và lý do tại sao chúng ta tin.”
Hiểu về đức tin của chúng ta và lý do tại sao chúng ta tin.”. Thiết tưởng đó cũng là điều then chốt để cho các Kitô hữu chúng ta phát triển đức tin của mình để rao giảng Tin Mừng. Cũng còn đó nhiều người lớn cũng như giới trẻ còn quá coi thường việc tham dự Phụng vụ Thánh lễ Chúa Nhật, khi vẫn còn ngồi vật vờ ngoài sân, gốc cây dự lễ cho xong như là mình chẳng biết tin là gì. Như vậy một người lương dân đi qua chắc hẳn họ cũng thắc mắc phải chăng niềm tin của chúng ta chỉ là một số luật buộc phải giữ cho xong. Cũng có trường hợp con cái kết hôn với người không công giáo nay trở lại. Nhưng gia đình họ vẫn buộc người công giáo phải làm theo những ý muốn của họ như xem ngày, giờ tốt… Người công giáo vẫn theo, không tuyên xưng đức tin của mình.
Tân Phúc Âm Hóa vẫn là lời mời gọi của Giáo Hội cho con cái mình. Tham dự tích cực sốt sắng trong Phụng vụ cũng là một lời rao giảng thiết thực. Thánh lễ Hôn phối khi có cô dâu, chú rể là tân tòng. Gia đình họ là lương dân khi tham dự chắc chẳn cũng cảm nghiệm được lý do tại sao chúng ta tin. Khi vào gia đình xui gia là lương dân. Trước khi nói chuyện chuẩn bị đám cưới cho con cái. Người Công giáo xin phép gia chủ để thắp một nén nhang trên bàn thờ Tổ Tiên của họ. Thiết tưởng cũng là cách mình rao giảng Tin Mừng. Theo Đạo Công giáo không phải là bỏ ông bà cha mẹ như một số người vẫn quan niệm, và như vậy việc rao giảng chính là lúc mà người nghe “hiểu về đức tin của chúng ta và lý do tại sao chúng ta tin.”.