2021
PHỤC VỤ VÀ TIN NHƯ MÁTTA
29 20 Tr Thứ Năm Tuần XVII Thường Niên.
Thánh nữ Mác-ta, lễ nhớ.
Lễ nhớ có bài đọc riêng:
1Ga 4,7-16; Ga 11,19-27 (hoặc Lc 10,38-42).
PHỤC VỤ VÀ TIN NHƯ MÁTTA
Matta đã phục vụ Chúa Giêsu qua các bữa ăn ngon, khi Người đến thăm gia đình Matta. Chúng ta có thể nhận thấy Matta đã phải bận rộn sửa soạn bữa ăn cho Chúa Giêsu và các môn đệ của Người như thế nào. Đến nỗi Matta phải xin Chúa Giêsu nhắc cho cô em Maria phụ giúp mình một tay, vì Maria đang ngồi bên chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con với!” Chúa Giêsu rất hài lòng với công việc phục vụ dễ thương của Matta. Tuy vậy, Người muốn cho Matta hiểu rằng việc nghe lời Chúa và cầu nguyện thì có tầm quan trọng hơn.
Chính vì thế, ta thấy Chúa Giêsu đã dịu dàng nói: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện! Chỉ có một chuyện cần mà thôi! Maria em con đã chọn phần tốt nhất!” (Lc 10, 42).
Chúa Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô.” Câu nói độc nhất này trong Tin Mừng của thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Mácta, người em Maria, và Lazarô của Thánh nữ.
Có vẻ như Chúa Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10,38-42, Gioan 11,1-53, và Gioan 12,1-9.
Nhiều người dễ nhận ra Mácta qua câu chuyện của thánh Luca. Khi ấy, Mácta chào đón Chúa Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mácta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông và Mácta là điển hình.
Thử tưởng tượng xem Mácta bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Chúa Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mácta xin Chúa Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Chúa Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mácta. Chúa Giêsu thấy Mácta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Chúa Giêsu nhắc cho Mácta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mácta, chúng ta nhận ra chính chúng ta thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Chúa Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Chúa Giêsu cũng yêu quý Mácta như Maria.
Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mácta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở đấy. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.
Cuộc đối thoại của ngài với Chúa Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mácta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Chúa Giêsu, tin vào sự Phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đức Giêsu nói với cô rằng Ngài là sự sống lại và là sự sống và sau đó đã cho Lazarô sống lại từ cõi chết.
Hình ảnh sau cùng của Mácta trong Tin Mừng đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Chúa Giêsu ít lâu sau đã trở lại Bêthania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Chúng ta đã từng nghe người em trai Lazarô đã tạo nên cả một sự khuấy động khi anh được làm cho sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Chúa Giêsu. Nhưng về phần Mácta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: “Mácta lo hầu hạ.” Cô không nổi bật, cô không thi hành những việc có tính cách phô trương, cô không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Cô chỉ đơn thuần hầu hạ Chúa Giêsu.
Chúng ta không biết nhiều hơn về Mácta và những gì xảy ra cho cô sau đó. Theo một truyền thuyết không đáng tin lắm, thì Mácta cùng với Maria đến giảng Tin Mừng tại nước Pháp sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Nhưng thật là tuyệt vời nếu điều quan trọng nhất có thể nói được về chúng ta là “Những người ấy đã phục vụ”? Thánh Mácta được đặt làm quan thầy của các người phục vụ và đầu bếp.
Khi người em là Lazarô chết, Matta và Maria buồn sầu báo tin cho Chúa Giêsu. Giữa những đau khổ thử thách đó, Matta vẫn giữ được bình tĩnh. Matta đã thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Dù rằng em cô là Lazarô đã chết, Matta vẫn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu cách tuyệt đối: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. (Ga 11, 27).
Với niềm tin của Matta, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho Lagiarô sống lại sau khi chôn cất trong mồ đã bốn ngày.
Mừng lễ thánh nữ Matta hôm nay, chúng ta nguyện xin Chúa qua lời cầu bầu của thánh Matta, ban cho chúng ta sống theo mẫu gương của thánh nữ, luôn ân cần đón tiếp Chúa và sẵn sàng hy sinh phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đón tiếp Chúa bằng việc lắng nghe lời Chúa, suy gẫm và cầu nguyện. Đón tiếp Chúa Giêsu Thánh Thể để có sự sống của Ngài hun đúc tinh thần tông đồ, nuôi dưỡng đời sống đạo. Đón tiếp Chúa với lòng yêu mến chân thành, sẽ giúp chúng ta được gần bên Chúa, gần gũi tha nhân. Đồng thời, theo gương thánh nữ Matta, chúng ta sống đức tin mạnh mẽ giữa những cơn thử thách của cuộc sống. Nhờ đó, chúng ta cố gắng vượt qua những thử thách hiện tại và hướng đến sự phục sinh vinh quang với Chúa Kitô.
2021
Ngày 29 tháng bảy Thánh Nữ Mác-ta
Ngày 29 tháng bảy
Thánh Nữ Mác-ta
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xưa Con Một Chúa đã nhận lời mời và đến trú ngụ tại nhà thánh nữ Mác-ta. Nhờ lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin Chúa cho chúng con hết tình phục vụ Ðức Kitô hiện diện trong mọi người để mai sau được Chúa đón nhận vào nhà Chúa. Chúng con cầu xin …
Lễ nhớ
Ca nhập lễ
Lc 10,38
Đức Giê-su vào làng kia, có một phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà.
Bài đọc
1 Ga 4,7-16
Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ.
7Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
8Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
9Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ như thế này :
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
10Tình yêu cốt ở điều này :
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
11Anh em thân mến,
nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
chúng ta cũng phải yêu thương nhau.
12Thiên Chúa, chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.
Nếu chúng ta yêu thương nhau,
thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta,
và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.
13Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng
chúng ta ở lại trong Người, và Người ở lại trong chúng ta :
đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta.
14Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng
và làm chứng rằng : Chúa Cha đã sai Con của Người đến
làm Đấng cứu độ thế gian.
15Hễ ai tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa,
thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy
và người ấy ở lại trong Thiên Chúa.
16Còn chúng ta,
chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta,
và đã tin vào tình yêu đó.
Thiên Chúa là tình yêu :
ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa,
và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
Đáp ca
Tv 33,2-3.4-5.6-7.8-9.10-11 (Đ. c.2a hoặc c.9a)
Đ.Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa.
2Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.
3Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.
Đ.Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa.
4Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa,
ta đồng thanh tán tụng danh Người.
5Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.
Đ.Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa.
6Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
7Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.
Đ.Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa.
8Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh
để giải thoát những ai kính sợ Người.
9Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy :
hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người !
Đ.Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa.
10Kính sợ Chúa đi, đoàn dân thánh hỡi,
vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi.
11Kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ,
còn ai tìm kiếm Chúa chẳng thiếu của gì.
Đ.Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa.
Tung hô Tin Mừng
Ga 8,12
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 11,19-27
Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
19 Khi ấy, nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô là La-da-rô mới qua đời. 20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. 21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 Nhưng bây giờ con biết : Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” 23 Đức Giê-su nói : “Em chị sẽ sống lại !” 24 Cô Mác-ta thưa : “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” 25 Đức Giê-su liền phán : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. 26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?” 27 Cô Mác-ta đáp : “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, Chúa thật là kỳ diệu khi cho thánh nữ Mác-ta được ơn phục vụ Ðức Kitô Con Chúa. Xưa Chúa đã chấp nhận lòng hiếu khách của thánh nữ, nay xin Chúa cũng vui nhận của lễ và lời cầu của chúng con. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúng con phải chúc tụng sự quan phòng kỳ diệu của Chúa nơi các Thánh, là những đấng đã tận hiến cho Chúa Ki-tô vì Nước Trời. Nhờ sự quan phòng đó, Chúa kêu gọi loài người trở về tình trạng thánh thiện nguyên thủy, và cho họ cảm nghiệm được những ân huệ mà họ sẽ lãnh nhận ở đời sau.
Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con hợp tiếng ca ngợi Chúa và tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Ga 11,27
Bà Mác-ta thưa với Chúa Giê-su : “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, đã đến trong thế gian.”
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúng con đã thông hiệp với Mình và Máu Ðức Kitô Con Một Chúa. Nhờ ơn hiệp lễ, xin cho chúng con không quá lệ thuộc vào cuộc đời chóng qua và ước gì chúng con, khi sống ở đời này, biết noi gương thánh nữ Mác-ta để lại mà tiến bước trong tình yêu mến Chúa và mai sau trên thiên quốc, được vui mừng chiêm ngưỡng thánh nhan. Chúng con cầu xin …
2021
Tại sao tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo hội, thay vì tiếng Aramaic hoặc tiếng Do Thái?
Tại sao tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo hội, thay vì tiếng Aramaic hoặc tiếng Do Thái?
Tiếng Latinh tiếp tục được bảo tồn trong phụng vụ của Giáo hội và trong nhiều tài liệu chính thức của Giáo hội, nhằm thúc đẩy sự thống nhất giữa các ngôn ngữ.
Stefano Pellicciari | Shutterstock
Mặc dù có vẻ như Giáo Hội Công Giáo không còn sử dụng nhiều ngôn ngữ Latinh nữa, nhưng sự thật thì phức tạp hơn nhiều.
Tờ Aleteia, nghĩa là “Chân Lý Tỏ Tường”, số ra ngày 23 tháng 7, cho biết trên thực tế, chính Công đồng Vatican II đã thúc đẩy việc sử dụng tiếng Latinh trong phụng vụ. Công đồng Vatican II đã không bãi bỏ tiếng Latinh
Trong tài liệu Sacrosanctum Concilium, Công đồng nói khá rõ ràng những gì phải làm với bản ngữ và tiếng Latinh.
Tiếng bản ngữ được thiết kế để sử dụng cho “các bài đọc và chỉ thị, cũng như một số lời cầu nguyện và thánh ca” (Sacrosanctum Concilium, 36).
Ý định ban đầu là thay thế nhiều phần của Thánh lễ bằng các ngôn ngữ địa phương, đồng thời bảo lưu phần còn lại bằng tiếng Latinh.
Tài liệu tương tự này thậm chí còn khuyến khích dạy mọi người hát bằng tiếng Latin!
Tuy nhiên, cần phải thực hiện các bước để các tín hữu có thể nói hoặc hát cùng nhau bằng tiếng Latinh những phần Thông thường của Thánh lễ liên quan đến họ.
Tương tự, Hướng dẫn Chung của Sách Lễ Rôma cũng lặp lại những lời này, nhưng đặt chúng trong bối cảnh duy trì sự thống nhất giữa các nhóm ngôn ngữ khác nhau.
Vì các tín hữu từ các quốc gia khác nhau đến với nhau thường xuyên hơn, nên họ phải biết hát với nhau ít nhất một số đoạn của Thánh lễ Thông thường bằng tiếng Latinh, đặc biệt là Tuyên xưng Đức tin và Kinh Lạy Cha, theo những cách sắp xếp đơn giản hơn.
Giáo hội đã sử dụng tiếng Latinh trong nhiều thế kỷ bởi vì nó được sinh ra trong Đế chế La Mã và khi đế chế đó sụp đổ, Giáo Hội vẫn giữ nó như một cách để thống nhất những người Công Giáo trên toàn thế giới.
Thậm chí, nhiều tài liệu của Giáo hội vẫn được dịch sang tiếng Latinh, và mới đây, Tòa thánh Vatican đã cho ra mắt đài phát thanh tiếng Latinh! Điều này được thực hiện để bảo tồn ngôn ngữ cổ và giúp giữ nó như một lực lượng thống nhất cho tất cả người Công Giáo.
2021
Tại sao người Do Thái và người Samari bất hòa với nhau?
Tại sao người Do Thái và người Samari bất hòa với nhau?
Luôn cần đến một bối cảnh để hiểu được tại sao người ta lại khinh miệt kẻ khác.
Le Christ et la samaritaine Henri Martin musée de Cahors
Khi trở thành kẻ thù, hiếm khi chúng ta có suy nghĩ chín chắn. Chúng ta thường đáp lại bằng cảm xúc và phản ứng. Nếu họ có làm điều gì, chúng ta cũng chống lại họ. Họ có nói gì đi nữa cũng là nói sai. Mọi thứ họ mong muốn đều xấu xa. Cần phải ngăn chặn bất kỳ điều gì họ đang thực hiện.
Chúng ta dùng thái độ này đối với những kẻ địch của đất nước mình, cũng như với những người cạnh tranh tại nơi làm việc, những đối thủ chính trị, những người hàng xóm khó chịu, và cả những thành viên gia đình chèn ép chúng ta. Những kẻ này không đủ khả năng để làm điều gì đó tốt đẹp. Mọi thứ sẽ được cải thiện nếu họ biến mất lập tức.
Vào thời Kinh thánh, tư tưởng này gần như tóm lược mối quan hệ giữa người Do Thái và người Samari. Tình trạng căng thẳng giữa những nhóm người này quá phổ biến trong cả hai Giao ước đến nỗi khiến chúng ta không còn đặt câu hỏi: Chuyện gì xảy ra với người Samari? Tại sao họ bị ghét như vậy?
Luôn cần đến một bối cảnh để hiểu được tại sao người ta lại khinh miệt kẻ khác. Từ thời dân Israel tiến vào Canaan cho đến thế hệ Đức Giêsu, chuỗi sự kiện trong Kinh thánh tập trung vào mẩu chuyện về các chi tộc sinh sống ở dải đất kéo dài từ Galilê đến Biển Chết. Chúng ta gọi vùng đất này là Israel và ngỡ rằng 12 chi tộc gắn kết trong quan hệ huyết thống và sự trung thành – nhưng hãy rút lại quan điểm này.
Saul, vị vua đầu tiên của Israel, chỉ cai trị trên một số người. Đavít, người kế vị ông, đã đưa toàn bộ các chi tộc về dưới quyền mình. Salomon, con của Đavít, bất lực trong việc gìn giữ sự thống nhất. Khi Salomon qua đời vào năm 930 TCN, vương quốc chia cắt thành vùng Israel rộng lớn miền bắc và vùng Giuđa nhỏ bé ở phương nam. Miền bắc lấy Samari làm kinh đô của mình. Còn các vua của phương nam vẫn giữ lại kinh đô của Đavít tại Giêrusalem.
Như học giả Raymond Brown lưu ý, khoảng cách giữa Samari và Giêrusalem là 35 dặm – gần hơn khoảng cách giữa hai bang dùng chung một sân bay là Baltimore và Washington. Nhưng lân cận không hề đồng nghĩa với giao hảo.
Sau cùng, Samari trở thành tiêu ngữ để chỉ toàn bộ miền đất phía bắc. Tuy nhiên, cả thành phố và vùng đất được biết đến như là Samari đều không biểu thị cho lãnh thổ của “người Samari”. Họ xuất hiện sau này. Vào lúc ấy, những cuộc chạm trán xảy ra giữa hai miền bắc nam trong khoảng 200 năm, với các giai đoạn hợp tác ngắn ngủi.
Hãy nhớ rằng những người ở cả hai bên biên giới đều tuyên bố Abraham là cha và Môsê là nhà giải phóng của mình. Tất cả họ đều thờ phượng Thiên Chúa của Giacóp. Tất cả họ là con cái nhà Israel. Thuở ban đầu, những khác biệt giữa họ chỉ mang tính chính trị. Nhưng rồi chúng lại trở thành vấn đề văn hóa, vì thời gian phân ly khiến hai vương quốc ngày càng xa cách nhau.
Trở lại thời điểm Israel còn là một quốc gia thống nhất, Vua Đavít đã thiết lập Giêrusalam làm trung tâm chính trị và văn hóa. Salomon đã xây dựng Đền thờ tráng lệ ở đây. Sau khi vương quốc chia cắt, Giuđa vẫn còn Đền thờ. Vậy lúc này, các chi tộc Israel ở phương bắc sẽ thờ phượng tại đâu?
Vị vua đầu tiên của họ, Giêrôbôam, đã thiết lập các trung tâm thờ phượng tại Bethel và Đan với một con bê vàng lộng lẫy ở mỗi địa điểm. Con bê tượng trưng cho vị trí của Thiên Chúa – được hiểu tương đương với nơi đặt hòm bia giao ước tại Giêrusalem. Dĩ nhiên, con bê cũng nhắc nhớ chúng ta về câu chuyện thờ ngẫu tượng rất đáng tiếc trong sách Xuất hành. Tất nhiên những người Giuđa buộc tội những người phương bắc vì việc thờ tượng vàng. Trong thực tế, chẳng có điều gì tốt đẹp để những người Giuđa nói về các dân miền bắc, và vì người Giuđa viết ra phần lớn cuốn Kinh thánh mà chúng ta có, nên thật khó để biết liệu những chỉ trích của họ chính xác hay phóng đại. Đây là vấn đề của việc có kẻ thù: Sau một thời gian, thật khó để biết đâu là điều chiếm ưu thế giữa những mục tiêu khách quan và sự thù ghét.
Hãy đến với câu chuyện về đế chế Assyria tàn bạo. Chúng ta có thể tin vào đặc tính này, vì các ghi chép lịch sử thời kỳ này trình bày chi tiết những hành vi độc ác của người Assyria. Vào khoảng năm 722 TCN, Assyria thôn tính vương quốc Israel phương bắc, trục xuất 27.290 người từ Samari đến những nơi xa xôi. “Mười chi tộc thất lạc nhà Israel” chính thức bị lạc mất ở đây khi các chi tộc phương bắc phân tán. Tại quê nhà họ, Assyria gieo mầm lãnh thổ bằng những người Babylon và các dân vùng Lưỡng Hà khác. Những người Assyria bẻ gãy ý chí của các nhóm người bị chinh phục theo cách này, xóa bỏ căn tính, văn hóa và tôn giáo của họ.
Còn ở phương nam, nhà Giuđa chứng kiến địch thủ phương bắc bị tàn phá – nên nhớ, Giêrusalem chỉ cách đó 35 dặm. Chẳng có nhiều thời gian thanh thản để hả hê. Một thế kỷ sau, sức mạnh của Assyria suy yếu, và Babylon bước lên vị trí siêu cường mới trong khu vực. Năm 587 TCN, Babylon đè bẹp Giêrusalem, đưa tất cả những người giỏi nhất đi lưu đày.
Vậy điều gì xảy ra trong khi những người Giuđa còn đang lưu đày? Người khác đến cư trú. Giêrusalem là một đống đổ nát, chắc chắn, nhưng vẫn còn nhiều nơi hữu dụng nằm xung quanh. Khi những người Giuđa ở Babylon rốt cuộc cũng được tự do nhờ người Ba Tư vào năm 538 TCN, họ vẫn quan tâm đến Giêrusalem và trở về để tìm kiếm những người còn sót lại trong vùng. Họ khinh miệt “những người Samari” ở đây. Điều tồi tệ hơn nữa là những người trở về từ cuộc lưu đày chịu phụ thuộc bởi lãnh địa của người Ba Tư ở Samari lúc bấy giờ. Việc tranh giành quyền hành giữa Giuđa và Samari lại xuất hiện.
Một số học giả cho rằng những người Samari có lẽ là những người Israel đến từ xứ Samari, tản ra khắp lãnh thổ khi những người Giuđa vắng mặt. Một số lại cho rằng những người Samari không phải là dân Israel nhưng là hậu duệ của các sắc dân vùng Lưỡng Hà – những người ngoại quốc – do Assyria gieo rắc lên xứ sở. Những người khác mô tả những người Samari như hậu duệ của người Giuđa không bị lưu đày với những người còn lại – vì họ đã chạy trốn rồi quay về khi nguy hiểm qua đi. Hoặc bởi vì họ không có đủ kỹ năng hay học vấn để Babylon sử dụng, và do đó bị bỏ lại. Trong bất kỳ trường hợp nào, những người không bị lưu đày đã không chịu nỗi đau khổ của họ hàng và không đáng được xem như một phần trong số họ.
Điều chắc chắn là “những người ở xứ sở này” rất kỳ quặc. Họ không cử hành đúng các nghi lễ tôn giáo và có đủ thứ ý tưởng không thích hợp về Thiên Chúa. Những người Samari xem núi Garizim phương bắc thánh thiêng hơn núi Sion ở Giêrusalem. Họ chỉ thừa nhận Ngũ thư của Môsê – từ Sáng thế đến Đệ nhị luật – như là kinh thánh của họ. Những người hồi hương từ Babylon đã soạn tác các sách lịch sử và sưu tập các sách ngôn sứ để thêm vào sách thánh của mình. Một số các ngôn sứ – Amos, Isaia, Hôsê, Edêkien và Mica – chẳng có lời nào tốt lành về dân gốc Samari.
Những người lãnh đạo Giuđa cũng đã cố gắng giải quyết xung đột. Tư tế Étra nghĩ rằng có thể hòa giải hai nhóm người này. Nhưng thống đốc Giơrúpbaben lại tiếp cận theo lối phân biệt chủng tộc: Máu của chúng không tinh sạch. Chúng đơn giản “không phải là chúng ta”. Tranh cãi bằng lời nói dẫn tới sự xúc phạm, sự xúc phạm lại dẫn tới bạo lực.
Hai nhóm người chia rẽ. Những người Samari tập trung lại ở khu vực phía bắc Sikhem. Kế tiếp người Ba Tư, khi người Hy Lạp, rồi đến Ai Cập, và cuối cùng là Rôma kiểm soát khu vực này, xứ Samari ngày càng trở nên Hy hóa; nghĩa là càng giống với đế quốc hơn. Những người Giuđa bài xích những ảnh hưởng bên ngoài bằng mọi giá. Vào thế kỷ thứ I, “một tên Samari” là điều kinh khủng nhất bạn có thể gọi người Dothái – điều mà những kẻ gièm pha Đức Giêsu gọi Ngài trong Tin mừng Gioan.
Vậy nên thật táo bạo biết bao khi Đức Giêsu kể câu chuyện về người Samari nhân hậu! Ngài cũng tham gia cuộc trao đổi kéo dài với một phụ nữ Samari mà Ngài gặp bên bờ giếng, rồi sau đó chào đón cả cộng đoàn của cô khi họ tìm gặp Ngài. Cư dân Giuđa đã mất hàng thế kỷ để tách những người Samari ra khỏi xã hội của mình bằng luật lệ và sự ngược đãi. Đức Giêsu khởi xướng triển vọng đã đến lúc phải thừa nhận những kẻ bên lề này. Một ngàn năm cãi vả và chia rẽ có lẽ đã quá đủ. Khi thế hệ đầu tiên của Giáo hội sai Philipphê đi loan báo Tin mừng ở Samari, đó là một chủ trương đầy táo bạo và gây kinh ngạc. Và điều này đưa đến “niềm vui lớn lao trong thành ấy” (Cv 8,8).
Chúng ta căm ghét kẻ thù của mình vì nhiều lý do: chính trị, lịch sử, tôn giáo, huyết thống, sự lập dị, cảm giác bất bình, sự đối lập được kế tục.
Chúng ta ghét người khác vì họ không giống chúng ta, và điều đó làm chúng ta khó chịu. Chúng ta không bằng lòng việc họ lấy điều gì đó của chúng ta, hay điều mà họ có thể lấy nếu chúng ta để cho họ có cơ hội. Sự thù ghét bắt đầu từ đâu đó. Sự thừa nhận cũng vậy.
Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ