2021
Tại sao tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo hội, thay vì tiếng Aramaic hoặc tiếng Do Thái?
Tại sao tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức của Giáo hội, thay vì tiếng Aramaic hoặc tiếng Do Thái?
Tiếng Latinh tiếp tục được bảo tồn trong phụng vụ của Giáo hội và trong nhiều tài liệu chính thức của Giáo hội, nhằm thúc đẩy sự thống nhất giữa các ngôn ngữ.
Stefano Pellicciari | Shutterstock
Mặc dù có vẻ như Giáo Hội Công Giáo không còn sử dụng nhiều ngôn ngữ Latinh nữa, nhưng sự thật thì phức tạp hơn nhiều.
Tờ Aleteia, nghĩa là “Chân Lý Tỏ Tường”, số ra ngày 23 tháng 7, cho biết trên thực tế, chính Công đồng Vatican II đã thúc đẩy việc sử dụng tiếng Latinh trong phụng vụ. Công đồng Vatican II đã không bãi bỏ tiếng Latinh
Trong tài liệu Sacrosanctum Concilium, Công đồng nói khá rõ ràng những gì phải làm với bản ngữ và tiếng Latinh.
Tiếng bản ngữ được thiết kế để sử dụng cho “các bài đọc và chỉ thị, cũng như một số lời cầu nguyện và thánh ca” (Sacrosanctum Concilium, 36).
Ý định ban đầu là thay thế nhiều phần của Thánh lễ bằng các ngôn ngữ địa phương, đồng thời bảo lưu phần còn lại bằng tiếng Latinh.
Tài liệu tương tự này thậm chí còn khuyến khích dạy mọi người hát bằng tiếng Latin!
Tuy nhiên, cần phải thực hiện các bước để các tín hữu có thể nói hoặc hát cùng nhau bằng tiếng Latinh những phần Thông thường của Thánh lễ liên quan đến họ.
Tương tự, Hướng dẫn Chung của Sách Lễ Rôma cũng lặp lại những lời này, nhưng đặt chúng trong bối cảnh duy trì sự thống nhất giữa các nhóm ngôn ngữ khác nhau.
Vì các tín hữu từ các quốc gia khác nhau đến với nhau thường xuyên hơn, nên họ phải biết hát với nhau ít nhất một số đoạn của Thánh lễ Thông thường bằng tiếng Latinh, đặc biệt là Tuyên xưng Đức tin và Kinh Lạy Cha, theo những cách sắp xếp đơn giản hơn.
Giáo hội đã sử dụng tiếng Latinh trong nhiều thế kỷ bởi vì nó được sinh ra trong Đế chế La Mã và khi đế chế đó sụp đổ, Giáo Hội vẫn giữ nó như một cách để thống nhất những người Công Giáo trên toàn thế giới.
Thậm chí, nhiều tài liệu của Giáo hội vẫn được dịch sang tiếng Latinh, và mới đây, Tòa thánh Vatican đã cho ra mắt đài phát thanh tiếng Latinh! Điều này được thực hiện để bảo tồn ngôn ngữ cổ và giúp giữ nó như một lực lượng thống nhất cho tất cả người Công Giáo.
2021
Tại sao người Do Thái và người Samari bất hòa với nhau?
Tại sao người Do Thái và người Samari bất hòa với nhau?
Luôn cần đến một bối cảnh để hiểu được tại sao người ta lại khinh miệt kẻ khác.
Le Christ et la samaritaine Henri Martin musée de Cahors
Khi trở thành kẻ thù, hiếm khi chúng ta có suy nghĩ chín chắn. Chúng ta thường đáp lại bằng cảm xúc và phản ứng. Nếu họ có làm điều gì, chúng ta cũng chống lại họ. Họ có nói gì đi nữa cũng là nói sai. Mọi thứ họ mong muốn đều xấu xa. Cần phải ngăn chặn bất kỳ điều gì họ đang thực hiện.
Chúng ta dùng thái độ này đối với những kẻ địch của đất nước mình, cũng như với những người cạnh tranh tại nơi làm việc, những đối thủ chính trị, những người hàng xóm khó chịu, và cả những thành viên gia đình chèn ép chúng ta. Những kẻ này không đủ khả năng để làm điều gì đó tốt đẹp. Mọi thứ sẽ được cải thiện nếu họ biến mất lập tức.
Vào thời Kinh thánh, tư tưởng này gần như tóm lược mối quan hệ giữa người Do Thái và người Samari. Tình trạng căng thẳng giữa những nhóm người này quá phổ biến trong cả hai Giao ước đến nỗi khiến chúng ta không còn đặt câu hỏi: Chuyện gì xảy ra với người Samari? Tại sao họ bị ghét như vậy?
Luôn cần đến một bối cảnh để hiểu được tại sao người ta lại khinh miệt kẻ khác. Từ thời dân Israel tiến vào Canaan cho đến thế hệ Đức Giêsu, chuỗi sự kiện trong Kinh thánh tập trung vào mẩu chuyện về các chi tộc sinh sống ở dải đất kéo dài từ Galilê đến Biển Chết. Chúng ta gọi vùng đất này là Israel và ngỡ rằng 12 chi tộc gắn kết trong quan hệ huyết thống và sự trung thành – nhưng hãy rút lại quan điểm này.
Saul, vị vua đầu tiên của Israel, chỉ cai trị trên một số người. Đavít, người kế vị ông, đã đưa toàn bộ các chi tộc về dưới quyền mình. Salomon, con của Đavít, bất lực trong việc gìn giữ sự thống nhất. Khi Salomon qua đời vào năm 930 TCN, vương quốc chia cắt thành vùng Israel rộng lớn miền bắc và vùng Giuđa nhỏ bé ở phương nam. Miền bắc lấy Samari làm kinh đô của mình. Còn các vua của phương nam vẫn giữ lại kinh đô của Đavít tại Giêrusalem.
Như học giả Raymond Brown lưu ý, khoảng cách giữa Samari và Giêrusalem là 35 dặm – gần hơn khoảng cách giữa hai bang dùng chung một sân bay là Baltimore và Washington. Nhưng lân cận không hề đồng nghĩa với giao hảo.
Sau cùng, Samari trở thành tiêu ngữ để chỉ toàn bộ miền đất phía bắc. Tuy nhiên, cả thành phố và vùng đất được biết đến như là Samari đều không biểu thị cho lãnh thổ của “người Samari”. Họ xuất hiện sau này. Vào lúc ấy, những cuộc chạm trán xảy ra giữa hai miền bắc nam trong khoảng 200 năm, với các giai đoạn hợp tác ngắn ngủi.
Hãy nhớ rằng những người ở cả hai bên biên giới đều tuyên bố Abraham là cha và Môsê là nhà giải phóng của mình. Tất cả họ đều thờ phượng Thiên Chúa của Giacóp. Tất cả họ là con cái nhà Israel. Thuở ban đầu, những khác biệt giữa họ chỉ mang tính chính trị. Nhưng rồi chúng lại trở thành vấn đề văn hóa, vì thời gian phân ly khiến hai vương quốc ngày càng xa cách nhau.
Trở lại thời điểm Israel còn là một quốc gia thống nhất, Vua Đavít đã thiết lập Giêrusalam làm trung tâm chính trị và văn hóa. Salomon đã xây dựng Đền thờ tráng lệ ở đây. Sau khi vương quốc chia cắt, Giuđa vẫn còn Đền thờ. Vậy lúc này, các chi tộc Israel ở phương bắc sẽ thờ phượng tại đâu?
Vị vua đầu tiên của họ, Giêrôbôam, đã thiết lập các trung tâm thờ phượng tại Bethel và Đan với một con bê vàng lộng lẫy ở mỗi địa điểm. Con bê tượng trưng cho vị trí của Thiên Chúa – được hiểu tương đương với nơi đặt hòm bia giao ước tại Giêrusalem. Dĩ nhiên, con bê cũng nhắc nhớ chúng ta về câu chuyện thờ ngẫu tượng rất đáng tiếc trong sách Xuất hành. Tất nhiên những người Giuđa buộc tội những người phương bắc vì việc thờ tượng vàng. Trong thực tế, chẳng có điều gì tốt đẹp để những người Giuđa nói về các dân miền bắc, và vì người Giuđa viết ra phần lớn cuốn Kinh thánh mà chúng ta có, nên thật khó để biết liệu những chỉ trích của họ chính xác hay phóng đại. Đây là vấn đề của việc có kẻ thù: Sau một thời gian, thật khó để biết đâu là điều chiếm ưu thế giữa những mục tiêu khách quan và sự thù ghét.
Hãy đến với câu chuyện về đế chế Assyria tàn bạo. Chúng ta có thể tin vào đặc tính này, vì các ghi chép lịch sử thời kỳ này trình bày chi tiết những hành vi độc ác của người Assyria. Vào khoảng năm 722 TCN, Assyria thôn tính vương quốc Israel phương bắc, trục xuất 27.290 người từ Samari đến những nơi xa xôi. “Mười chi tộc thất lạc nhà Israel” chính thức bị lạc mất ở đây khi các chi tộc phương bắc phân tán. Tại quê nhà họ, Assyria gieo mầm lãnh thổ bằng những người Babylon và các dân vùng Lưỡng Hà khác. Những người Assyria bẻ gãy ý chí của các nhóm người bị chinh phục theo cách này, xóa bỏ căn tính, văn hóa và tôn giáo của họ.
Còn ở phương nam, nhà Giuđa chứng kiến địch thủ phương bắc bị tàn phá – nên nhớ, Giêrusalem chỉ cách đó 35 dặm. Chẳng có nhiều thời gian thanh thản để hả hê. Một thế kỷ sau, sức mạnh của Assyria suy yếu, và Babylon bước lên vị trí siêu cường mới trong khu vực. Năm 587 TCN, Babylon đè bẹp Giêrusalem, đưa tất cả những người giỏi nhất đi lưu đày.
Vậy điều gì xảy ra trong khi những người Giuđa còn đang lưu đày? Người khác đến cư trú. Giêrusalem là một đống đổ nát, chắc chắn, nhưng vẫn còn nhiều nơi hữu dụng nằm xung quanh. Khi những người Giuđa ở Babylon rốt cuộc cũng được tự do nhờ người Ba Tư vào năm 538 TCN, họ vẫn quan tâm đến Giêrusalem và trở về để tìm kiếm những người còn sót lại trong vùng. Họ khinh miệt “những người Samari” ở đây. Điều tồi tệ hơn nữa là những người trở về từ cuộc lưu đày chịu phụ thuộc bởi lãnh địa của người Ba Tư ở Samari lúc bấy giờ. Việc tranh giành quyền hành giữa Giuđa và Samari lại xuất hiện.
Một số học giả cho rằng những người Samari có lẽ là những người Israel đến từ xứ Samari, tản ra khắp lãnh thổ khi những người Giuđa vắng mặt. Một số lại cho rằng những người Samari không phải là dân Israel nhưng là hậu duệ của các sắc dân vùng Lưỡng Hà – những người ngoại quốc – do Assyria gieo rắc lên xứ sở. Những người khác mô tả những người Samari như hậu duệ của người Giuđa không bị lưu đày với những người còn lại – vì họ đã chạy trốn rồi quay về khi nguy hiểm qua đi. Hoặc bởi vì họ không có đủ kỹ năng hay học vấn để Babylon sử dụng, và do đó bị bỏ lại. Trong bất kỳ trường hợp nào, những người không bị lưu đày đã không chịu nỗi đau khổ của họ hàng và không đáng được xem như một phần trong số họ.
Điều chắc chắn là “những người ở xứ sở này” rất kỳ quặc. Họ không cử hành đúng các nghi lễ tôn giáo và có đủ thứ ý tưởng không thích hợp về Thiên Chúa. Những người Samari xem núi Garizim phương bắc thánh thiêng hơn núi Sion ở Giêrusalem. Họ chỉ thừa nhận Ngũ thư của Môsê – từ Sáng thế đến Đệ nhị luật – như là kinh thánh của họ. Những người hồi hương từ Babylon đã soạn tác các sách lịch sử và sưu tập các sách ngôn sứ để thêm vào sách thánh của mình. Một số các ngôn sứ – Amos, Isaia, Hôsê, Edêkien và Mica – chẳng có lời nào tốt lành về dân gốc Samari.
Những người lãnh đạo Giuđa cũng đã cố gắng giải quyết xung đột. Tư tế Étra nghĩ rằng có thể hòa giải hai nhóm người này. Nhưng thống đốc Giơrúpbaben lại tiếp cận theo lối phân biệt chủng tộc: Máu của chúng không tinh sạch. Chúng đơn giản “không phải là chúng ta”. Tranh cãi bằng lời nói dẫn tới sự xúc phạm, sự xúc phạm lại dẫn tới bạo lực.
Hai nhóm người chia rẽ. Những người Samari tập trung lại ở khu vực phía bắc Sikhem. Kế tiếp người Ba Tư, khi người Hy Lạp, rồi đến Ai Cập, và cuối cùng là Rôma kiểm soát khu vực này, xứ Samari ngày càng trở nên Hy hóa; nghĩa là càng giống với đế quốc hơn. Những người Giuđa bài xích những ảnh hưởng bên ngoài bằng mọi giá. Vào thế kỷ thứ I, “một tên Samari” là điều kinh khủng nhất bạn có thể gọi người Dothái – điều mà những kẻ gièm pha Đức Giêsu gọi Ngài trong Tin mừng Gioan.
Vậy nên thật táo bạo biết bao khi Đức Giêsu kể câu chuyện về người Samari nhân hậu! Ngài cũng tham gia cuộc trao đổi kéo dài với một phụ nữ Samari mà Ngài gặp bên bờ giếng, rồi sau đó chào đón cả cộng đoàn của cô khi họ tìm gặp Ngài. Cư dân Giuđa đã mất hàng thế kỷ để tách những người Samari ra khỏi xã hội của mình bằng luật lệ và sự ngược đãi. Đức Giêsu khởi xướng triển vọng đã đến lúc phải thừa nhận những kẻ bên lề này. Một ngàn năm cãi vả và chia rẽ có lẽ đã quá đủ. Khi thế hệ đầu tiên của Giáo hội sai Philipphê đi loan báo Tin mừng ở Samari, đó là một chủ trương đầy táo bạo và gây kinh ngạc. Và điều này đưa đến “niềm vui lớn lao trong thành ấy” (Cv 8,8).
Chúng ta căm ghét kẻ thù của mình vì nhiều lý do: chính trị, lịch sử, tôn giáo, huyết thống, sự lập dị, cảm giác bất bình, sự đối lập được kế tục.
Chúng ta ghét người khác vì họ không giống chúng ta, và điều đó làm chúng ta khó chịu. Chúng ta không bằng lòng việc họ lấy điều gì đó của chúng ta, hay điều mà họ có thể lấy nếu chúng ta để cho họ có cơ hội. Sự thù ghét bắt đầu từ đâu đó. Sự thừa nhận cũng vậy.
Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ
2021
Chúa Giêsu có cử hành thánh lễ đầu tiên bằng tiếng Aram không?
Chúa Giêsu có cử hành thánh lễ đầu tiên bằng tiếng Aram không?
Có thể Chúa Giêsu đã cử hành Bữa Tiệc Ly, Thánh lễ đầu tiên, bằng ngôn ngữ phổ biến của Ngài.
Bữa Tiệc Ly được người công giáo xem như bữa thiết lập Bí tích Thánh Thể chính thức, mở đầu cho việc cử hành phụng vụ Thánh Lễ.
Mặc dù ngày nay Thánh lễ được cử hành bằng nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới, nhưng có thể Chúa Giêsu đã dùng công thức thiết lập Thánh Thể bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Vào thế kỷ I, ở Palestine, có ba ngôn ngữ được sử dụng trong dân chúng: Tiếng Aram, Hy Lạp và Do Thái. Mỗi ngôn ngữ đều có chức năng riêng của nó và được sử dụng bởi từng nhóm cụ thể.
Tiếng Aram được các học giả chấp nhận rộng rãi xem như ngôn ngữ chính mà Chúa Giêsu đã nói.
Tiếng Do Thái được duy trì bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo Palestine ở thế kỷ đầu, nhưng nó không phải là ngôn ngữ phổ biến mà ai cũng biết nói. Chúa Giêsu đã chứng minh rằng Ngài có thể đọc tiếng Do Thái khi cầm được cuộn sách trong hội đường (Lc 4, 16-30), nhưng hầu hết các môn đệ của Ngài đều mù chữ, không biết tiếng Do Thái.
Ngày nay tiếng Aram vẫn được sử dụng trong nghi lễ Maron (thuộc Liban).
Trong số các truyền thống phụng vụ của Giáo hội ngày nay, tiếng Aram vẫn được dùng cho các công thức thiết lập Thánh Thể theo nghi lễ Maron.
Theo Giáo phận thánh Maron [Eparchy of St. Maron], “Phụng vụ Maron là phụng vụ nguyên thủy được phát triển ở Antiôkia bằng tiếng Aram ngay sau thời các Tông đồ… Các ngôn ngữ trong phụng vụ Maron là tiếng Syro-Aram cổ được dùng trong một số phần cố định (Trisagion[1], Qadishat aloho; hai cách đến gần bàn thờ; truyền phép bánh và rượu).
Đó là cách độc nhất vô nhị để trải nghiệm phụng vụ, nghe công thức thiết lập Bí tích Thánh thể bằng ngôn ngữ mà Chúa Giêsu đã dùng.
Giuse Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
(gpquinhon.org 26.07.2021)
[1] Trisagion: Tam Thánh Ca [(a) Lập lại ba lần tán dương Thiên Chúa, như trong sách Isaia 6,3 (b) Một loại ứng đáp hay tán tụng ngắn mà Giáo Hội đông phương thường dùng].
2021
Kho Tàng Quí Giá
28 19 X Thứ Tư Tuần XVII Thường Niên.
Thánh Giu-se Men-ki-o Ga-xi-a Sam-pe-đơ-rô Xuyên (Melchior Garcia Sampedro), Giám mục (U1858), Tử đạo.
Xh 34,29-35; Mt 13,44-46.
Kho Tàng Quí Giá
Có câu chuyện vui như sau: Có hai bố con nọ được nhà vua trao cho một mảnh ruộng để cày cấy mà sinh sống. Một hôm đang cuốc xới trên thửa mộng, ông bô cuốc phải một vật cứng, khi khám phá ra thì đó là một cái cối giã bằng vàng và một cái chày. Ông quyết định đem nộp lại cho nhà vua, vì lòng thật thà và nghĩ rằng ruộng đất này là của nhà vua ban cho. Nhưng cô con gái thì khôn ngoan hơn nói với cha rằng: “Cha đừng nộp cho nhà vua, kẻo nhà vua sẽ đòi cả cái chày nữa”.
Quả thật, đúng như dự tính của cô gái, nhà vua đòi cái chày thì ông trả lời: “Không có, vì chì có bấy nhiêu”. Nhà vua không tin và bắt ông giam vào ngục. Khi nghe biết sự khôn ngoan của cô gái, nhà vua cưới cô làm vợ. Nhưng sống trong một thời gian, không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhà vua nói với hoàng hậu: “Trong 24 giờ nữa cô phải rời khỏi đây và cô có thể mang theo cái gì mà cô thấy quí nhất!”. Cô gái nghĩ dễ thôi, vì là hoàng hậu rồi, nên mới nói với các quan cận thần hầu rượu cho vua uống say rồi lấy vải quấn lại và mang theo về nhà quê.
Tỉnh dậy, nhà vua ngạc nhiên vì không phải mình ở đền vua mà là nhà tranh vách đất nghèo nàn. Nhà vua hỏi tại sao? Hoàng hậu cười đáp: -Vì vua đã cho phép mang cái gì quí nhất thì tôi đã mang theo ông đó.
Đó chỉ là cái khôn ngoan thế gian mà thôi, nhưng luật pháp Chúa mới là sự khôn ngoan của Nước Trời. Hai dụ ngôn ta vừa nghe có cùng một ý nghĩa: Nước Trời rất quý giá nên đáng cho người ta bán tất cả để đổi lấy. Nước Trời quý hơn tất cả, bởi chỉ có Nước Trời mới tồn tại vĩnh viễn, còn mọi giá trị khác, dù là đức vua có quý giá mấy thì rồi cũng sẽ hư mất. Vì “lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì?”.
Trong Tin Mừng hôm nay, với hai dụ ngôn có nội dung gần như nhau, một lần nữa, Chúa Giêsu muốn đề ra cái nghịch lý ấy: vì Nước Trời, con người phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất tất cả. Thế nhưng Nước Trời là gì? Chúa Giêsu xem ra đã không mất giờ và dài dòng trong những lý thuyết khô khan. Với các môn đệ, Ngài nói như một mệnh lệnh: “Hãy theo Ta” và họ đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Với người thanh niên giàu có, Ngài mời gọi: “Hãy về bán tất cả tài sản, phân phát cho người nghèo, và trở lại đi theo Ta”.
Hãy đi theo Ngài, vì Ngài là tất cả. Hãy đánh đổi mọi sự để được sống với Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của Nước Trời: nơi Ngài, con người tìm được kho tàng quí giá nhất; nơi Ngài, con người được sống và sống sung mãn. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào”. Các môn đệ được kêu gọi trước tiên để sống với Ngài. Ðược sống với Ngài, đi theo Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống, đó là nội dung đích thực của tư cách làm môn đệ.
Kitô giáo do đó thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát.
Dù sống trong hoàn cảnh nào, bất cứ người môn đệ nào của Chúa Kitô cũng đều cảm nghiệm được lời tiên báo của Ngài: “Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ”. Không bị bách hại công khai, thì cũng bị chống đối hay loại trừ, đó là số phận của người Kitô hữu.
Thánh Augustino sau bao phen đam mê lạc thú, nhưng cuối cùng cũng đã phải thốt lên: “Lạy Chúa, linh hồn con khắc khoải sao xuyến cho đến khi con tìm được Chúa”! Và tìm được Chúa như lời thánh Têrêsa Avila nói: -Chỉ có Chúa mới là giá trị tuyệt đối cho mọi cuộc tìm kiếm và một mình Chúa là quá đủ rồi.
Chúa Giêsu khéo léo mượn hình ảnh kho báu và viên ngọc quý, vốn là những gì ai cũng muốn có, để hướng đến một kho báu, một viên ngọc quý giá khác, đó là chính Chúa. Thật vậy, Chúa là kho báu, là viên ngọc quý mà mọi người đều choáng ngợp, và tìm mọi cách “chiếm hữu” cho được. Mọi sự trên trần gian này sánh với Chúa đều vô nghĩa. Các tông đồ đã nhận ra Chúa là tất cả, nên đã sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo. Các tu sĩ cũng vậy, một khi cảm nhận chỗ đứng tất yếu của Chúa trong cuộc đời mình, đã không thể làm gì khác hơn là rũ bỏ mọi sự để hoàn toàn sống cho Chúa, thuộc trọn về Chúa. Đây cũng là cảm nhận của những ai sau một thời gian đánh mất Chúa, lại tìm được Ngài qua ơn trở lại, như thánh Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld…
Cuộc đời chúng ta cần thiết đó là Chúa Giêsu, kho tàng mà chúng ta tìm kiếm đó là Nước Trời. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sông; để dù khi ăn, khi uống, hay làm bất cứ việc gì, luôn để tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phân đấu, mất mát.