2021
Các vị Tổng lãnh thiên thần không chỉ là những sứ giả của Chúa
Các vị Tổng lãnh thiên thần không chỉ là những sứ giả của Chúa
Thánh Raphael, thánh Michael và Gabriel…
Domaine Public / Tổng lãnh Thiên thần Raphael và Tôbia
Vào cuối tháng 9, Giáo hội mời gọi chúng ta mừng lễ các vị thánh không giống như những thánh khác.
Vào ngày 29 tháng 9, Giáo hội mừng kính các thánh Tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel và Raphael. Những thiên thần siêu phàm! Giống như các thiên thần khác, các vị được Thiên Chúa sai đến với loài người: “Chúc tụng Chúa đi hỡi muôn ngàn thiên sứ, bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người, luôn sẵn sàng phụng lệnh” (Ca nhập lễ).
Các Tổng lãnh thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, tuyên bố điều lạ thường của Thiên Chúa, họ luôn ở trước thiên nhan Chúa và phụng sự Ngài suốt cả ngày đêm. Thường các vị được giao cho những nhiệm vụ bất khả thi. Khi ẩn danh, họ mang tên của con người, và mỗi tên mang một chức năng.
Chiến binh, nhà ngoại giao và lòng nhân ái
Đầu tiên là Tổng lãnh thiên thần Michael, nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa”, một chiến binh chống lại con rồng. Michael là thiên thần mạnh mẽ nhất trong số các thiên thần. Ngài là chiến binh xuất sắc chống lại thế lực của quỷ thần. Khi Thiên Chúa cần một sứ thần mạnh mẽ và nhanh nhẹn, Ngài sai gửi Tổng lãnh thiên thần Michael.
Và đây là nhà ngoại giao Gabriel, nghĩa là “Người của Thiên Chúa”. Sách Đanien trình bày Gabriel như một thiên thần phụng lệnh. Trước hết, chúng ta biết ngài trong Tân Ước qua những lần hiện ra với Đức Maria và ông Zacaria. Khi Thiên Chúa muốn loan báo tin trọng đại, Ngài đã sai gửi Tổng lãnh thiên thần Gabriel.
Cuối cùng là Raphael từ nhân, nghĩa là “Thiên Chúa cứu chữa”. Thiên thần hay làm việc thiện này đồng hành với anh bạn trẻ Tobia trong một hành trình tuyệt vời. Cảnh báo cho khách hành hương và những người bộ hành: ngài cũng giải thoát họ khỏi thần khí sự ác. Raphael tự giới thiệu mình là một trong 7 thiên thần chầu chực trước mặt Thiên Chúa, dâng lên Chúa những lời cầu khẩn của chúng ta. Khi Chúa muốn hướng dẫn ai đó trên bước đường của cuộc sống, Ngài sai gửi Tổng lãnh thiên thần Raphael.
Khi các Tổng lãnh thiên thần gửi cho chúng ta những tín hiệu kín đáo
Các Tổng lãnh thiên thần ánh sáng này nói cho chúng ta biết Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào. Còn các thiên thần vô danh khác, gửi đến cho chúng ta những tín hiệu kín đáo, mà không ép buộc bất kỳ ai: họ cho chúng ta trực giác để làm điều thiện, cho chúng ta sự giúp đỡ để biện phân, để trở thành chính mình, can ngăn chúng ta vấp ngã, cho chúng ta một dấu chỉ đúng lúc, một niềm vui sống cho hiện tại.
Khi cử hành lễ các Tổng lãnh thiên thần, Giáo hội nói cho chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trên trần đời này. Thực vậy, các thiên thần cùng chiến đấu với chúng ta, chống lại quyền lực tối tăm. Trên hết, họ mời gọi chúng ta ngợi khen Thiên Chúa và tạm dừng để tôn thờ Chúa, và trong những lúc như vậy, đôi khi chúng ta cảm thấy họ đi qua, dù có cánh hay không, trong thinh lặng dịu êm của lời cầu nguyện.
- Võ Tá Hoàng chuyểnngữ
2021
Xác minh Bí tích Giải tội bằng văn phạm Kinh thánh
Xác minh Bí tích Giải tội bằng văn phạm Kinh thánh
Những người Tin lành không thể phản đối cách hiểu của Công giáo về Bí tích Giải tội dựa trên nền tảng ngữ pháp trong Tin mừng Gioan
Domaine Public / Tổng lãnh Thiên thần Raphael và Tôbia
Gioan 20,23 là đoạn văn then chốt đối với những người Công giáo khi đưa ra bằng chứng Kinh thánh cho Bí tích Giải tội. Đoạn văn cho biết: “Nếu các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha; nếu các ngươi cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ”.
Có vẻ rõ ràng là một người Công giáo có thể lập luận rằng Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ thẩm quyền để tha tội.
Nhưng những người Tin lành không cho là vậy. Một số tranh luận rằng bản văn tiếng Hy Lạp cho thấy việc tha thứ hay cầm giữ tội lỗi là điều Thiên Chúa đã thực hiện trước khi các tông đồ tuyên bố như vậy. Todd Baker, một nhà biện giải Tin lành, trước kia là tín hữu Công giáo, đưa ra lập luận theo kiểu sau:
“Cụm từ ‘được tha’ và ‘bị cầm giữ’ mà Đức Giêsu đã nói được diễn đạt ở thì hoàn thành. Như vậy, câu này có thể hiểu theo nghĩa đen: ‘Nếu các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ đã được tha rồi; nếu các người cầm giữ tội ai, thì tội họ đã bị cầm giữ rồi’. Bất cứ ai quen thuộc với ngữ pháp Hy Lạp sẽ biết rằng thì hoàn thành thường diễn tả một hành động đã hoàn tất trong quá khứ cùng với những kết quả đang diễn ra. Do đó, sự tha thứ hay cầm giữ tội lỗi đã xảy ra trước khi các môn đồ được ban quyền để tuyên bố như vậy. Thì hoàn thành được sử dụng trong Gioan 20,23 nằm ở thể bị động và một lần nữa cho thấy Thiên Chúa đang hành động cách riêng lẻ, để tha thứ hoặc cầm giữ trên đối tượng chịu tác động. Đức Giêsu ban thẩm quyền cho môn đệ là để họ xác nhận hoặc phủ nhận tùy theo trường hợp, mà ở đó, Thiên Chúa đã định đoạt xong những kết quả cho mỗi hành động.
Đối với Baker, thì hoàn thành của các từ tiếng Hy Lạp, được chuyển dịch thành “được tha” (apheōntai) và “bị cầm giữ” (kekratēntai), ngụ ý một tình trạng bền vững, đã bắt đầu trước khi hành vi “tha thứ” và “cầm giữ” được thực hiện. Và Baker lập luận rằng điều này ngụ ý Thiên Chúa là Đấng tha thứ và cầm giữ, chứ không phải các tông đồ.
Chúng ta phải giải đáp như thế nào?
Đầu tiên, chúng ta cần chỉ ra rằng vấn đề không phải là liệu Thiên Chúa có phải là Đấng tha thứ hoặc cầm giữ hay không. Giáo hội Công giáo khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng tha thứ (và cầm giữ) trong Bí tích Giải tội (GLHTCG 1441). Ngài thực hiện điều này thông qua thừa tác vụ của các tông đồ (GLHTCG 1495).
Vấn đề thật sự ở đây là Thiên Chúa thực hiện việc này vào thời điểm nào?
Baker giả định rằng việc sử dụng thì hoàn thành ở vế thứ hai của một câu điều kiện – tức mệnh đề chính (“tội họ được tha”) – nhất thiết phải qui chiếu đến một hành động có trước so với vế thứ nhất của câu điều kiện – tức mệnh đề điều kiện (“Nếu các ngươi tha tội cho ai”). Đây là lý do ông ta giải thích bản văn này theo nghĩa các tông đồ chỉ đơn thuần tuyên bố điều mà Thiên Chúa đã thực hiện rồi.
Nhưng Baker đã đưa ra một giả định sai. Hãy xem xét điều mà cùng một tác giả là Gioan đã nói trong thư 1Gioan 2,5: “Còn ai giữ lời Ngài, thì quả thật nơi người ấy tình yêu Thiên Chúa được nên trọn” [Hy Lạp: teteleiōtai – bị động hoàn thành].
Câu này sử dụng cùng một cấu trúc như Gioan 20,23:
Mệnh đề điều kiện | Mệnh đề chính | |
Ga 20,23 | “Nếu các ngươi tha tội cho ai” | “thì tội họ được tha [bị động hoàn thành]” |
1Ga 2,5 | “Còn ai giữ lời Ngài” | “thì quả thật nơi người ấy tình yêu Thiên Chúa được nên trọn [bị động hoàn thành]” |
Trong 1Gioan 2,5, thánh Gioan sử dụng teteleiōtai ở thì hoàn thành trong mệnh đề chính, tuy nhiên sự nên trọn không được hoàn thành trước khi tuân giữ lời Đức Kitô, như nguyên tắc ngữ pháp của Baker đòi hỏi, nhưng đồng thời với việc tuân giữ lời Đức Kitô. Thật rõ ràng, cách đặt câu của thánh Gioan ngụ ý rằng hành động xảy ra khi điều kiện nêu trong mệnh đề điều kiện được thực hiện.
Dưới đây là một số các đoạn văn khác, theo đó, hành động ở thì hoàn thành trong mệnh đề chính không xảy ra trước nhưng đồng thời với việc thực hiện mệnh đề điều kiện:
- Giacôbê 2,10: “Ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì trở thành[Hy lạp: gegonen – chủ động hoàn thành] có tội về hết mọi điểm”. Việc mắc tội xảy ra vào thời điểm sa ngã về một điểm của lề luật.
- Rôma 7,2: “Phụ nữ có chồng thì luật buộc phải theo chồng bao lâu chồng còn sống; nhưng nếu chồng cô qua đời thì cô được tháo cởi[Hy Lạp: katērgētai– bị động hoàn thành] khỏi sự ràng buộc theo luật đối với người chồng”. Sự tháo cởi khỏi luật trở nên hiện thực vào lúc chồng của người phụ nữ qua đời.
- Rôma 13,8: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, trừ phi là yêu mến nhau; vì ai yêu mến anh em mình thì người ấy giữ trọn[Hy Lạp: peplērōken– chủ động hoàn thành] lề luật”. Lề luật được giữ trọn khi một người yêu mến anh em mình.
- Rôma 14,23: “Ai hồ nghi mà cứ ăn thì người đó bị kết án[Hy Lạp: katakekritai – bị động hoàn thành]”. Sự kết án nẩy sinh hiệu lực khi sự hồ nghi xuất hiện.
Theo sự soi dẫn của những đoạn văn này, chúng ta có thể kết luận vấn đề bằng những lời của Henry J. Cadbury, một cố học giả Kinh thánh người Mỹ: “Người ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng hành vi hay tình trạng được ngụ ý bằng thì hoàn thành [ở mệnh đề chính] không nhất thiết có trước so với mệnh đề kia [mệnh đề điều kiện] (Tạp chí Văn chương Kinh thánh, tập 58, số 3).
Như thế, nguyên tắc ngữ pháp của Baker hoàn toàn không đứng vững khi đối chiếu với những đoạn văn tương đồng.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tiến xa hơn nữa trong việc bảo vệ cách hiểu của Công giáo. Những nơi khác trong Kinh thánh, từ Hy Lạp aphiēmi, dịch thành “được tha”, được dùng ở thì hoàn thành và hàm nghĩa rằng các tội lỗi được tha thứ căn cứ trên hành động của người được tha tội. Chẳng hạn, hãy xem xét Luca 5,20.23, ở đó, Đức Giêsu tha tội của người bại liệt: “Thấy họ có lòng tin như vậy, Ngài bảo: ‘Này anh, tội anh được tha [Hy Lạp: apheōntai – bị động hoàn thành] cho anh’… Nói ‘Tội anh được tha [Hy Lạp: apheōntai – bị động hoàn thành] cho anh’, hay nói ‘Hãy chỗi dậy mà đi’, điều nào dễ hơn?”.
Một ví dụ khác là Luca 7,47. Đức Giêsu tha tội cho người phụ nữ đã xức dầu cho Ngài tại nhà ông Simon người Biệt phái: “Vì thế tôi bảo với các ông, tội của chị rất nhiều, nhưng được tha [Hy Lạp: apheōntai – bị động hoàn thành], vì chị đã yêu mến nhiều”.
Luca không có ý định dùng thì hoàn thành của aphiēmi trong những đoạn văn này để tách biệt sự tha thứ tội lỗi ra khỏi lời tuyên bố của Đức Giêsu tại hiện trường. Đúng hơn, Luca, giống như những người chứng kiến, đã hiểu những lời của Đức Giêsu như là một sự tuyên bố để tha tội ngay tại thời điểm Ngài nói rằng những tội ấy được tha.
Hãy xem xét điều Luca ghi lại trong cả hai bản văn ngay sau những tuyên bố của Đức Giêsu:
- Luca 5,21: “Các ký lục và Biệt phái mới suy tính rằng: ‘Người này là ai mà nói những lời phạm thượng như thế? Ai có thể tha tội ngoài một mình Thiên Chúa?’”.
- Luca 7,49: “Bấy giờ những kẻ đồng bàn mới nghĩ bụng: ‘Người này là ai mà lại tha được tội?’”.
Nếu chúng ta không hề có ý định phân tách sự tha tội ra khỏi hành động tha tội của Đức Giêsu bởi thì hoàn thành của từ aphiēmi trong những đoạn văn của Tin mừng Luca kể trên, vậy thì chúng ta cũng không thể làm điều tương tự đối với các tông đồ trong Gioan 20,23. Như Cadbury viết: “Có phải chúng ta sẽ chấp nhận “chức tư tế” đối với Đức Giêsu dựa theo từ apheōntai trong Luca, rồi lại bác bỏ tư cách này đối với các tông đồ dựa theo chính từ này trong Gioan? Xét các trường hợp này theo cùng một cách không phải là điều phù hợp hơn hay sao? (Tạp chí Văn chương Kinh thánh, tập 58, số 3).
Đối với Baker, phủ nhận đặc quyền tha tội của các tông đồ dựa vào việc Gioan sử dụng thì hoàn thành của từ aphiēmi nhưng lại chấp nhận đặc quyền ấy của Đức Giêsu khi cũng cùng một từ và một thì được Luca sử dụng là điều tùy tiện. Cũng là một sai lầm khi ông ta để mặc những niềm tin mang tính định kiến của mình khi bước vào ngưỡng cửa của khoa chú giải Kinh thánh.
Tóm lại, việc Gioan sử dụng thì hoàn thành của aphiēmi trong Gioan 20,23 không có khả năng hủy đi những tuyên bố theo Công giáo về sự ủng hộ của Kinh thánh dành cho Bí tích Giải tội. Nếu một người Tin lành muốn phản đối một cách đọc như thế, họ cần dựa trên những căn cứ khác. Và khó có thể thực hiện điều này vì bối cảnh cho thấy Đức Giêsu trao quyền hợp pháp cho các môn đệ để họ thi hành điều Ngài truyền dạy: “Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: ‘Hãy lãnh nhận Thánh Thần. Nếu các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha; nếu các ngươi cầm giữ tội ai, thì tội họ bị cầm giữ’” (Ga 20,22-23).
Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ
2021
NGƯỜI LỚN NHẤT LÀ NGƯỜI PHỤC VỤ THA NHÂN
27 21 Tr Thứ Hai Tuần XXVI Thường Niên.
Thánh Vi-xen-tê Phao-lô [Vincent de Paul], Linh mục, lễ nhớ.
Dcr 8,1-8; Lc 9,46-50.
NGƯỜI LỚN NHẤT LÀ NGƯỜI PHỤC VỤ THA NHÂN
Vincent de Paul sinh ngày 24 tháng 4 năm 1581 tại Pouy miền Ranquine, Gascony, nước Pháp. Ngay từ nhỏ, ngài đã tỏ ra có một lòng bái ái cao cả đối với người nghèo khó. Năm 1596, ngài học thần học tại Toulouse và chịu chức linh mục năm 20 tuổi.
Tháng 7 năm 1605, trong chuyến tàu từ Marseille tới Narbonne, tàu của cha Vincent bị hải tặc Thổ Nhĩ Kỳ tấn công và bị bắt giam giữ để bán làm nô lệ tại Phi Châu nhưng cha Vincent được cứu ra nhờ hoán cải người chủ mua người và được trở về Pháp. Tại Pháp, cha Vincent phục vụ cho một xứ đạo gần Paris. Cha nhiệt thành với các linh hồn và được nhiều người tín nhiệm.
Nhìn cảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt cha Vincent để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện nghi.
Chính nữ Bá Tước de Gondi (có người đầy tớ được cha Vincent giúp đỡ) đã thúc giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền. Ngay lúc đầu cha Vincent thừa khiêm tốn để nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này, nhưng sau một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh Sơn (the Congregation thành Priests thành the Mission – Lazarists). Các linh mục này, với các lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc.
Sau này cha Vincent tổ chức các nhóm bác ái để chữa trị tinh thần cũng như thể xác của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của thánh nữ Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái (the Congregation thành the Daughters thành Charity) “mà tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố.” Ngài huy động các bà giầu có ở Paris để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.
Ðáng để ý nhất, cha Vincent là một người hay cáu kỉnh — ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ “rất khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng.” Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Cha Vincent qua đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Paris, nước Pháp. Đức Giáo Hoàng Benedictus XIII đã tôn phong Chân Phước cho cha Vincent đệ Phaolô ngày 13 tháng 8 năm 1729. Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Clement XII đã nâng cha Vincent đệ Phaolô – vị tông đồ của lòng bác ái lên hàng hiển thánh ngày 16 tháng 6 năm 1737. Ðức Giáo Hoàng Leo XIII ngày 12 tháng 5 năm 1885 đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh Sơn, được thành lập năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ thánh Vinh Sơn.
Sau nhiều cuộc di dời, hài cốt thánh nhân được đặt trong một bức tượng bằng sáp để trong một chiếc hòm xinh đẹp tại nguyện đường nhà mẹ dòng thánh Vinh Sơn đường Rue de Sèvres, thành phố Paris. Phần đầu của pho tượng giống hệt như đầu thánh nhân.
Tuy nhiên trái tim còn toàn vẹn của ngài được đặt trong một chiếc hòm bằng vàng được bày kính trên bàn thờ đài vị kính ngài trong nguyện đường trụ sở nhà mẹ của dòng Nữ Tử Bác Ái tại số 140 đường Rue du Bac, Paris. Cách xa thánh tích thánh Vinh Sơn một chút, bên dưới bàn thờ cạnh là thi hài nguyên vẹn của người con thiêng liêng của ngài là thánh nữ Catherine Labouré, người được Đức Mẹ hiện ra và ban cho chiếc ảnh Đức Mẹ Hay Làm Phép Lạ. Cũng trong nguyện đường này, trên bàn thờ cạnh còn có một chiếc hòm kính có tượng sáp trong có xương của thánh nữ Louise de Marillac, vị đồng sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái.
Dọc theo các tranh Thánh Kinh, ta nhận thấy các môn đệ bộc lộ bản tính trần tục, nặng tính ích kỷ, hẹp hòi của các ông khi băn khoăn tính toán xem ai là người lớn nhất. Trong lòng các ông còn chất chứa những tham vọng, ghen tương, khi thấy những người khác nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Với tất cả những điều đó, mỗi chúng ta hãy cùng suy niệm 2 ý tưởng sau:
Chúa muốn xóa tan những suy nghĩ của các môn đệ còn mang nặng tính toán trần thế. Ngài không khiển trách các ông về việc tranh giành ngôi thứ, vì Ngài đã gọi đã chọn các ông với tất cả thực chất những con người đầy tham vọng và yếu đuối, để rồi Ngài sẽ giúp các ông thắng vượt những thái độ tầm thường đó. Ngài nhẹ nhàng dạy các ông biết đâu là giá trị đích thực, đâu là cái làm cho con người trở thành người lớn trong Nước Trời, và cũng là cách sống của Ngài là khiêm tốn và phục vụ: “Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.
‘Em bé’ là hình ảnh những người người bé mọn, yếu thế, tầm thường, bị người đời khinh rẻ. ‘Em bé’ cần được bao bọc chở che và nâng đỡ, cần được đón tiếp, yêu thương, trân trọng: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy.” Như vậy, đối với Chúa, người làm lớn phải là người sống khiêm nhường và biết phục vụ người khác, và đối tượng để phục vụ và yêu thương là những người bé nhỏ, nghèo hèn thấp kém trong xã hội.
Ta thấy các môn đệ học được bài học “khiêm tốn và phục vụ” nơi Chúa Giêsu, khi Ngài yêu thương những người bé nhỏ, người bị khinh khi, người nghèo khổ, đặc biệt, khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các ông và khi Ngài hiến thân mình chịu chết trên thánh giá.
Gioan thưa với Chúa Giêsu: ” Lạy Thầy, chúng con thấy một người kia lấy danh Thầy mà trừ quỷ, và chúng con đã ngăn cản nó, vì nó không theo Thầy cùng với chúng con”.
Thái độ của Gioan là một thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Cả các môn đệ cũng có cùng tư tưởng cục bộ như vậy. Họ muốn giữ độc quyền. Họ độc quyền về Thiên Chúa, về Đức Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ái,… Họ muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm.
Thế nhưng rồi ta nhìn thấy nơi Chúa Giêsu có quan điểm hoàn toàn khác với các môn đệ: “Các con chớ ngăn cản, vì ai không chống nghịch các con, tức là thuận với các con”. Ngài không chấp nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi mở hơn nhiều. Ngài có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ quỷ.
Thái độ cởi mở của Chúa Giêsu cảnh báo người Kitô hữu hôm nay cần nhìn lại sự khép kín và độc đoán của mình.
Không nên tách biệt những người theo Chúa và những kẻ không theo, Kitô hữu và dân ngoại. Vì, đâu chỉ người có đạo Chúa mới sống bác ái, làm từ thiện,…
Thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng ích kỷ chứ không phải từ lòng đạo đức chân thật. Cần loại bỏ thái độ ích kỷ, ghen tương để cùng nhau chung xây thế giới và xã hội loài người tốt đẹp hơn.
Và với tất cả những điều đó, ta thấy trang Tin Mừng hôm nay mời gọi người Kitô hữu hãy đi theo con đường của Chúa. Con đường của Chúa khác hẳn cách sống của người đời; đó là sống khiêm tốn và phục vụ tha nhân; đó là cởi mở, quảng đại và cộng tác, đối thoại với mọi người để xây dựng thế giới ngập tràn ánh sáng văn minh của tình thương, đề cao nhân phẩm của con người, đặc biệt quan tâm giúp đỡ những người bị đối xử bất công, những người nghèo khổ, yếu đuối.
Ta hãy cùng nguyện xin Chúa dạy cho mỗi chúng ta biết bỏ đi những tính toán nhỏ nhen, ghen tương ích kỷ. Xin Chúa dạy chúng ta biết sống quảng đại và vị tha. Xin Chúa dạy chúng ta trở nên giống Chúa hơn mỗi ngày để phục vụ yêu thương hết mọi người.
2021
Thánh Vinh-sơn Phao-lô, linh mục
Thánh Vinh-sơn Phao-lô, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Ca nhập lễ
Lc 4,18
Thánh Thần ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
sai đi báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn,
băng bó những tấm lòng tan nát.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Vinh-sơn Phao-lô, linh mục mọi đức tính xứng bậc tông đồ, để thánh nhân phục vụ người cùng khốn và đào tạo hàng giáo sĩ. Xin cho chúng con biết nghe lời người dạy, bắt chước việc người làm mà xả thân vì bác ái. Chúng con cầu xin …
Bài đọc
1 Cr 1,26-31
Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
26 Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem : khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. 27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh ; 28 những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, 29 hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người. 30 Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, 31 hợp như lời đã chép rằng : Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.
Đáp ca
Tv 111,1-2.3-4.5-7a.7bc-8.9 (Đ. c.1a)
Đ.Hạnh phúc thay người kính sợ Chúa.
1Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa,
những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban
2Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường,
dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc.
Đ.Hạnh phúc thay người kính sợ Chúa.
3Gia đình họ phú quý giàu sang,
đức công chính của họ tồn tại muôn đời.
4Giữa tối tăm bừng lên một ánh sáng
chiếu rọi kẻ ngay lành :
đó là người từ bi nhân hậu và công chính.
Đ.Hạnh phúc thay người kính sợ Chúa.
5Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn,
biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình.
6Họ sẽ không bao giờ lay chuyển,
thiên hạ muôn đời còn tưởng nhớ chính nhân.
7aHọ không lo phải nghe tin dữ.
Đ.Hạnh phúc thay người kính sợ Chúa.
7bcHọ an tâm và tin cậy Chúa,
8luôn vững lòng không sợ hãi chi
và rốt cuộc coi khinh lũ địch thù.
Đ.Hạnh phúc thay người kính sợ Chúa.
9Kẻ túng nghèo, họ rộng tay làm phúc,
đức công chính của họ tồn tại muôn đời,
uy thế họ vươn cao rực rỡ.
Đ.Hạnh phúc thay người kính sợ Chúa.
Tung hô Tin Mừng
Ga 10,14
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mt 9,35-38
Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
35 Khi ấy, Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
36 Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. 37 Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. 38 Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Vinh-sơn biết can đảm lấy cuộc sống để diễn tả các mầu nhiệm thánh nhân cử hành. Xin Chúa dùng sức mạnh của thánh lễ này làm cho chúng con cũng trở nên của lễ làm đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con,
Chúa cho Hội Thánh được hân hoan mừng lễ thánh Vinh-sơn Phao-lô để nhờ gương sáng đời sống đạo đức của (các) ngài, Chúa củng cố Hội Thánh, nhờ lời giảng dạy, Chúa giáo huấn, và nhờ lời cầu khẩn đẹp lòng Chúa, Chúa giữ gìn Hội Thánh.
Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con luôn luôn hát ca chúc tụng Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Tv 106,8-9
Nào ta cảm tạ Chúa,
vì lòng Chúa từ nhân,
đã làm cho người trần
bao kỳ công tuyệt diệu :
Họng ráo khô, Chúa cho uống phỉ tình
bụng đói lả, Người cho ăn thoả thích.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã dùng bí tích Thánh Thể bồi dưỡng chúng con. Ước gì gương bác ái thánh Vinh sơn để lại vừa khích lệ, vừa nâng đỡ chúng con. Ðể chúng con hăng hái đem Tin Mừng cho người nghèo như chín h Con Một Chúa. Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.