2021
Chữa Trị Bệnh Tật
01 25 X Thứ Tư Tuần XXII Thường Niên.
Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giuse.
Cl 1,1-8; Lc 4,38-44.
Chữa Trị Bệnh Tật
Bối cảnh trang Tin mừng Luca hôm nay tái hiện lại những phép lạ mà Đức Giêsu đã làm tại nhà mẹ vợ ông Si-môn (Phê-rô). Trình thuật kể rằng, sau khi Chúa Giêsu đã rao giảng ở hội đường, thì các Thầy trò dẫn nhau về thăm nhà mẹ vợ ông Si-môn. Khi đến nơi thì thấy bà mẹ vợ ông đang sốt nặng, tức là đang ở trong một tình trạng nguy kịch, không thể làm gì được. Mọi người đang lo lắng, và họ nài xin Chúa Giêsu chữa lành cho bà. Vậy là Đức Giêsu đã “ra lệnh” cho cơn sốt dứt ngay, và bà trở nên mạnh khỏe để phục vụ mọi người.
Và trình thuật kể tiếp, chiều đến có rất nhiều người “đưa đến” cho Chúa Giêsu những người bệnh tật và bị quỷ ám, và Ngài đã cứu chữa họ hết thảy. Ngài đã nhiệt tình giúp họ, chắc hẵn là rất mệt mỏi, vì tin mừng kể lại có rất đông người đến. Tuy vậy, sáng sớm Chúa Giêsu đã đến nơi hoang vắng cô tích để cầu nguyện, nhưng họ lại tìm đến người và xin Ngài ở lại cùng họ. Chúa Giêsu đã nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.”
Trình thuật tin mừng hôm nay, chúng ta chú ý đến 2 điều:
Những phép lạ Chúa Giêsu đã làm cho không phải bởi lời cầu xin của chính đương sự, nhưng bởi lời cầu xin, bởi lòng của những người khác.
Mọi người muốn giữ Chúa Giêsu lại cho riêng họ, khi nhận được ơn phúc, nhưng Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy, “Loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” không chỉ dành riêng cho một nhóm nhỏ, nhưng cho tất cả mọi người.
Quả vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà mẹ vợ ông Phê-rô, bà đang sốt nặng và bà không thể cầu xin Chúa Giêsu chữa lành cho mình. Trình thuật nói “họ xin Ngài chữa cho bà”, họ ở đây chắc hẵn là những nguời thân của bà, những người hàng xóm láng giềng với bà; chính nhờ lời cầu xin của họ, hay nói đúng hơn nhờ lòng tin của họ mà Chúa Giêsu đã cứu chữa bà. Cũng vậy “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ”. Những người được chữa lành này, ta thấy cũng không phải bởi sự cầu xin của chính họ, nhưng là của những người đưa họ đến với Chúa Giêsu.
Chắc hẵn, ở nơi chính những bệnh nhân ấy, họ cũng có lòng tin vào Chúa Giêsu, nhưng chính họ không thể tự mình đến, hoặc có thể họ không dám đến vì những mặc cảm nơi mình, hoặc cũng có thể là chưa đủ tin vào quyền năng Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây là, những người được chữa lành ở ngôi nhà nhỏ hôm ấy có một sự cộng tác rất tích cực của những người khác, những người biết dẫn người khác đến với Chúa và dẫn Chúa đến với họ. Cuộc sống nơi mỗi người ki-tô hữu chúng ta cũng vậy, luôn được mời gọi để cầu nguyện cho người khác, hướng dẫn người khác đến với Chúa và giúp họ cảm nhận được tình yêu thương của Chúa. Đó cũng chính là sứ mạng ngôn sứ nơi người tín hữu, sứ mạng đã lãnh nhận khi lãnh bí tích thanh tẩy.
Và điều thứ hai, trong trình thuật hôm nay muốn nhắc chúng ra rằng: Ơn Cứu Độ nhờ Tin mừng không phải chỉ dành riêng cho cá nhân, hay chỉ dành cho nhóm thân hữu của chúng ta, nhưng cho tất cả mọi người. Những người trong làng của mẹ vợ ông Phê-rô muốn giữ Chúa Giêsu ở lại với họ, bởi họ thấy những phép lạ điềm thiêng mà Chúa Giêsu đã làm trên họ, họ muốn sở hữu những ân huệ ấy cho riêng cộng đồng của họ, cho làng của họ thôi. Con người là vậy, luôn muốn có và khi có thì luôn muốn chiếm hữu cho riêng mình và rất khó cho chia sẻ với ai.
Đó là sự cám dỗ của thế tục, của tính người, tính xác thịt. Chúa Giêsu không lên án vì sự ích kỷ hẹp hòi của họ, bởi Ngài biết thân phận con người là thế và Ngài đã nói: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” Đây là một bài học lớn cho mỗi người tín hữu chúng ta, chúng ta sống là cùng và sống với người khác, do vậy, Hội Thánh không mời gọi con cái mình sống thánh thiện để lên Thiên Đàng một mình, nhưng lên cùng người khác. Chúa Giêsu đã nói và nêu gương cho chúng ta trong cách sống “Tôi còn loan báo cho những thành khác, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Đến lượt mình, chúng ta cũng không giữ Chúa cho riêng mình, nhưng biết giới thiệu và đem Chúa đến cho người khác, bởi tôi được “tái sinh” là để làm việc đó “giới thiệu Chúa cho người khác”.
Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca ghi lại: “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ”. Những dòng kế tiếp cho thấy Chúa Giêsu có uy quyền trên sự dữ. Ở đây sự dữ xuất hiện dưới hai hình thức: bệnh tật và ma quỉ. Chúa Giêsu ra lệnh và quở mắng để chế ngự, nhưng Ngài không tiêu diệt chúng. Ngoài ra, trong nhiều cơ hội khác, Chúa Giêsu làm gương bằng sự ân cần của Ngài đối với các bệnh nhân, kể cả những người mang chứng bệnh khiếp sợ nhất lúc bấy giờ là bệnh phong cùi.
Trong giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Ngài đồng hóa mình với những người bệnh tật, những người nghèo đói, những kẻ sa cơ lỡ bước, những người bị cầm tù. Ngài nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Qua cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đem lại cho đau khổ và bệnh tật ý nghĩa và giá trị cứu rỗi.
Chúa Giêsu có thể chữa lành mà không cần phải cúi xuống trên từng người như thế. Bằng quyền năng, Ngài chỉ có thể phán một lời là tất cả mọi người có thể được lành bệnh. Nhưng Ngài đã không làm như vậy, Ngài muốn đụng chạm đến từng nỗi đau trên thân xác và tinh thần của bệnh nhân. Cũng như Ngài vẫn đang lắng nghe và đụng chạm đến từng tiếng lòng thổn thức của những con tim đau khổ trong từng người chúng ta. Việc chạm vào tay của Chúa Giêsu không chỉ đơn giản như chạm vào bàn tay của một người vô danh. Cho dù bạn là bất cứ ai thì Ngài cũng chỉ muốn chạm vào bạn một cách riêng tư nhất.
2021
Thứ Tư Tuần XXII – Mùa Thường Niên
Thứ Tư Tuần XXII – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 85,3.5
Xin dủ lòng thương con, lạy Chúa,
vì con kêu cầu Chúa suốt ngày.
lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng,
giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, mọi sự tốt lành đều bởi Chúa mà ra, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển, và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Chúng con cầu xin..
Bài đọc
Cl 1,1-8
Lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em cũng như toàn thế giới.
Khởi đầu thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê.
1 Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và anh Ti-mô-thê là người anh em, 2 kính gửi dân thánh tại Cô-lô-xê, là những anh em tín hữu trong Đức Ki-tô. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho anh em ân sủng và bình an.
3 Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, khi cầu nguyện cho anh em. 4 Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Ki-tô Giê-su, và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh ; 5 lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng 6 đến với anh em ; Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy, từ ngày anh em được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực sự là gì. 7 Anh em đã học hỏi điều này với anh Ê-páp-ra là người đồng sự yêu quý của chúng tôi và là người thay thế chúng tôi với tư cách là người phục vụ trung thành của Đức Ki-tô. 8 Chính anh đã cho chúng tôi hay về lòng mến mà Thần Khí ban cho anh em.
Đáp ca
Tv 51,10.11 (Đ. c.10b)
Đ.Lạy Chúa, con tin cậy vào tình thương Chúa
mãi mãi đến muôn đời.
10Phần tôi,
khác gì cây ô-liu xanh rờn trong nhà Thiên Chúa,
tôi tin cậy vào tình thương Thiên Chúa
mãi mãi đến muôn đời.
Đ.Lạy Chúa, con tin cậy vào tình thương Chúa
mãi mãi đến muôn đời.
11Lạy Chúa, con nguyện tạ ơn Ngài luôn mãi, vì Ngài đã ra tay.
Trước mặt những người hiếu trung với Chúa,
con trông đợi danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo.
Đ.Lạy Chúa, con tin cậy vào tình thương Chúa
mãi mãi đến muôn đời.
Tung hô Tin Mừng
Lc 4,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Lc 4,38-44
Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
38 Khi ấy, Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Bấy giờ, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất : tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.
40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng : “Ông là Con Thiên Chúa !” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.
42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43 Nhưng Người nói với họ : “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” 44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin cho của lễ này đem lại cho chúng con muôn vàn ơn phúc, để mầu nhiệm cứu độ chúng con cử hành trong thánh lễ thấm nhập và đổi mới cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì chính Người, khi sinh ra đã đổi mới con người cũ, khi chịu khổ hình, đã tẩy xoá tội lỗi chúng con, khi từ cõi chết sống lại, đã khai lối vào chốn trường sinh, và khi lên cùng Chúa là Cha, Người đã mở cửa Nước Trời.
Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con hát bài ca chúc tụng Chúa và không ngừng tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Tv 30,20
Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng nhân hậu,
Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con đã được bồi dưỡng nơi bàn tiệc thiên quốc; xin cho Bí Tích này giúp chúng con thêm lòng yêu mến, và thúc đẩy chúng con hết lòng phục vụ Chúa trong anh em. Chúng con cầu xin …
2021
Mười điều răn được phân chia như thế nào
Mười điều răn được phân chia như thế nào
Bản văn ghi lại mười điều răn mà chúng ta đọc trong Kinh thánh không được trình bày theo kiểu đánh số… vậy phải phân chia nó như thế nào cho hợp lý nhất?
Chúng ta đọc thấy trong Thánh vịnh 32 (33) như sau: “Hãy tạ ơn Người, họa với tiếng cầm, hãy đàn ca Người, hòa theo tiếng sắt thập huyền” (Tv 32,2). Bạn đã bao giờ hát đối đáp từng câu của mười điều răn? Trong phụng vụ của Giáo phận Anh giáo được Tòa thánh phê chuẩn, mười điều răn thỉnh thoảng được công bố lúc bắt đầu Thánh lễ theo thể thức kinh cầu. Vị linh mục xướng: “Thiên Chúa truyền dạy những lời này và phán…”, rồi ngài thuật lại từng điều một. Sau mỗi điều, ca đoàn và cộng đoàn hát lên: “Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót trên chúng con, và hướng lòng chúng con tuân giữ lề luật này”.
Tôi lớn lên cùng với thực hành này hàng tháng, và việc Giáo hội kết hợp nó vào trong phụng vụ chính thức thật là một điều vừa thú vị vừa có đôi chút lạ lẫm – hơi lạ bởi vì cách phân chia mười điều răn theo Anh giáo khác với lễ nghi Latinh truyền thống của Công giáo. Hai cách phân chia khác nhau ra sao và lý do của chuyện này là gì? Chúng ta sẽ bàn thêm sau.
Tuy nhiên thập huyền cầm nhắc nhớ chúng ta, tất cả các dây của chúng đều dùng để ca ngợi Thiên Chúa. Thánh Augustinô chọn câu thánh vịnh trích ở trên và xem nó là dịp để giảng dạy về mười điều răn. Ở nơi khác, trong những chú giải tuyệt vời của ngài về các thánh vịnh (loạt bài giảng đầu tiên tại Hippo), ngài khuyên bảo chúng ta rằng, chúng ta sẽ là lời ngợi ca sống động dâng Thiên Chúa nếu chúng ta sống tốt lành. Do đó, không đáng ngạc nhiên khi ngài lấy hình tượng của chiếc thập huyền cầm làm biểu tượng cho một đời sống công chính – cụ thể là sống theo mười điều răn. Một đời sống tương hợp với các giới răn chính là một bài ca ngợi khen ngân lên gấp mười lề luật.
Nhưng Lề luật chỉ có hai điều trước khi trở thành mười. Như Đấng Cứu độ đã dạy, nó được tóm lại thành “điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất”: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”, và điều thứ hai cũng “giống với” điều trước: “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Vì lẽ này, thánh Augustinô dạy chúng ta rằng tấm bia Lề luật thứ nhất của Môsê liên quan đến tình yêu Thiên Chúa, còn tấm thứ hai liên quan đến tình yêu người thân cận. Như vậy, có ba điều luật trên một tấm bia và bảy điều luật trên tấm còn lại. Cũng giống như tấm bia đầu tiên bắt đầu với cội nguồn sự tồn tại của chúng ta là Thiên Chúa Cha, rồi sau đó hướng đến các Ngôi vị Thần linh ở điều thứ hai và ba, thì tấm thứ hai gồm bảy điều, cũng bắt đầu với cội nguồn của đời sống trần thế và những người gần gũi chúng ta nhất là các bậc cha mẹ, rồi sau đó tiến tới những mối tương quan và các khía cạnh khác của đời sống mà qua đó chúng ta thể hiện tình yêu người thân cận của mình; chúng gộp lại thành mười điều.
Sự phân chia này luôn được Giáo hội Tây phương sử dụng. Có sự thống nhất trong cách phân chia giữa những người Công giáo Rôma và những người thuộc phái Luther, những người ủng hộ cách sắp xếp của thánh Augustinô. Còn trong Giáo hội Đông phương cũng như tất cả người Do Thái và các tín đồ Tin lành trừ phái Luther, họ cũng dùng mười điều răn nhưng phân chia chúng thành năm điều cho mỗi bảng mà không qui chiếu đến trật tự dựa trên việc tóm kết các điều răn theo đức ái. Dĩ nhiên truyền thống nào cũng đáng quí.
Giáo lý Hội thánh Công giáo cho chúng ta biết chính xác điều mà tôi vừa trình bày:
“Việc phân chia và đánh số các điều răn có thay đổi theo dòng lịch sử. Quyển Giáo Lý này theo cách phân chia của thánh Augustinô đã trở thành truyền thống trong Hội Thánh Công Giáo. Các giáo phái Luther cũng theo cách phân chia này. Các giáo phụ Hy Lạp phân chia hơi khác; cách chia này còn gặp thấy trong Giáo Hội Chính thống và các cộng đoàn Cải Cách.
Mười Điều Răn nêu ra các đòi hỏi của tình mến Chúa yêu người. Ba điều răn đầu đề cập đến tình yêu đối với Thiên Chúa, và bảy điều sau, đến tình yêu đối với tha nhân.
‘Như Chúa đã đúc kết tất cả lề luật và các tiên tri vào trong hai giới răn yêu mến…; Mười Điều Răn cũng được chia thành hai bảng. Ba điều khắc trên một bảng, và bảy điều trên bảng kia’” (GLHTCG 2066-2067).
Vì thế, hoàn toàn sai lầm khi tuyên bố rằng sự phân chia điều răn thứ nhất thành hai điều là một biến thể của đạo Tin lành nhằm phản đối việc tôn kính ảnh tượng của Công giáo, khi dành điều răn thứ hai riêng biệt để chống lại việc thờ các ngẫu tượng. Không phải vậy, các giáo phụ Đông phương, những người dạy phải tôn kính các ảnh tượng thậm chí còn mạnh mẽ hơn cả các giáo phụ Tây phương, giải thích việc đánh số này như là sự cấm đoán các ảnh tượng trong phụng tự, nhưng chỉ cấm các ảnh tượng ngụy thần; còn Thiên Chúa thật, các thiên thần và các thánh của Người không phải là ngẫu tượng. Và cuối cùng, bất kỳ ai viếng thăm một nhà thờ Tin lành thuộc bất kỳ chi phái nào ngày nay, chí ít sẽ thấy ở đây một số ảnh tượng của Đức Giêsu, các tông đồ hay Thánh gia thất. Nếu bạn thăm một nhà thờ thuộc phái Luther ở Đức, bạn luôn luôn thấy thánh giá trên bàn thờ, các họa tiết của bàn thờ với hình ảnh của Đức Mẹ và Hài nhi, và cả một số các vị thánh không xuất hiện trong Kinh thánh. Quả thật, điều răn thứ hai theo cách đánh số Công giáo, truyền phải tôn kính Thánh danh, dạy chúng ta tôn kính một dấu chỉ, một biểu tượng, một ý niệm khả thính, vì cũng như một bức tranh, một từ ngữ đại diện cho đối tượng mà nó định danh. Về mặt này, có một sự khác biệt nhỏ giữa một từ ngữ và một bức tranh. Và đáng buồn là theo kinh nghiệm của tôi, những người Tin lành mộ đạo hiếm khi kêu danh Đức Chúa cách vô cớ hơn những người Công giáo mộ đạo! Như vậy, họ cũng tôn kính các ảnh tượng, và đôi khi làm điều đó tốt hơn cả chúng ta.
Việc đánh số các điều răn theo một trong những cách đó được các giáo sư kinh viện thời Trung cổ gọi là một sự “phân biệt mà không khác biệt”. Bản văn mười điều răn chúng ta thấy trong Kinh thánh không hề xuất hiện theo kiểu liệt kê, và Đệ nhị luật cho chúng ta biết rằng có mười điều răn trên hai bia đá của Môsê, và do đó, chúng ta phân chia chúng theo thói quen, nhưng tất cả chúng ta đều dùng chung một bản văn.
Qua những gì đã trình bày, tôi cho phép mình nói rằng cách phân chia của thánh Augustinô tốt hơn về mặt huấn giáo. Nó đồng thời dạy về mười điều răn và về bản chất của chúng căn cứ trên điều răn yêu thương, là điều răn gồm hai phần, có nguồn gốc từ sự sáng tạo và sinh sản; và như thế, cách phân chia này giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của mười điều răn.
Trên thực tế, Đấng Cứu độ chúng ta đã đơn giản hóa hơn nữa, bằng cách ban cho chúng ta một điều răn mới và duy nhất: “Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”. Nếu chúng ta giữ trọn được điều duy nhất này, chúng ta sẽ giữ trọn được hai điều và cả mười điều, bất kể chúng được phân chia ra sao. Khi đó, việc thực thi mười điều răn sẽ không chỉ là một bài thánh vịnh; nó sẽ trở thành một bản tình ca! Và Diễm ca sẽ là Xuất hành và Đệ nhị luật mới của chúng ta…
Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ
2021
QUYỀN NĂNG CỦA THẦY GIÊSU
31 24 X Thứ Ba Tuần XXII Thường Niên.
1Tx 5,1-6.9-11; Lc 4,31-37.
QUYỀN NĂNG CỦA THẦY GIÊSU
Ma quỷ biết Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi sự thiện hảo, đáng yêu mến. Thế nhưng chúng lại không chấp nhận để Thiên Chúa can thiệp vào đời chúng; với một lòng thù hận không thể rút lại, chúng không chấp nhận một mối tương giao nào với Thiên Chúa. Thế mà giờ đây chúng vẫn phải đối mặt với Ngài. Đó chính là nỗi thống khổ cùng cực của ma quỷ, của hoả ngục: muốn hoá thành hư không để khỏi đau khổ mà không thể được. Đó là lý do của tiếng kêu thét: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?”
Tin mừng hôm nay, thánh sử Luca đã đề cập tới quyền năng thần linh của Chúa Giêsu tại Ca-phác-na-um. Chúa Giêsu tỏ quyền năng qua lời giảng dạy, qua các phép lạ, qua việc xua trừ tà thần… để minh chứng rằng: không những Thiên Chúa đang ở với Ngài, mà chính Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến, là Đấng “Thiên Chúa ở cùng” con người. Vì thế, Ngài dùng quyền năng duy chỉ tìm kiếm cho vinh quang Cha Ngài và hoàn tất ý định của Thiên Chúa Cha mà thôi.
“Ngài xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Galilê”. Thánh sử Luca giới thiệu về địa điểm hoạt động trong một ngày điển hình của Chúa Giêsu tại thành này như tóm lược hoạt động cứu thế của Ngài.
Ở đây, chúng ta không thấy thánh sử nhắc đến các môn đệ, vì ông chưa thuật lại việc kêu gọi các đệ tử. “Ngày sa-bát, Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng”, đó là thói quen của Chúa Giêsu khi Ngài đến hội đường trong các dịp lễ hội “Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh”(4,15). “Dân chúng sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Ngài có uy quyền”, không như các kinh sư khác, dân chúng nhận ra quyền năng trong chính lời giảng dạy của Chúa Giêsu, khiến họ xầm xì, bàn tán và ngạc nhiên. Lời nói của Ngài có sức mạnh lạ thường. Lời đầy quyền năng và lời trừ quỷ thần ô uế kế tiếp là một trong những biểu hiện của lời quyền năng ấy. Giáo huấn và chữa lành có liên hệ mật thiết với nhau.
“Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập”. Người Do Thái ưa dùng từ “thần ô uế” nghĩa là xấu xa. Điều đó chỉ rõ sự đối kháng giữa sức mạnh ác thần và sức mạnh Thánh Thần. Ở đây, thánh sử Luca viết về một người bị quỷ ô uế nhập. Việc chữa lành đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi Ngài giảng dạy dân chúng là thực hiện việc trục xuất quỷ ô uế này, giải thoát con người khỏi sự kiềm chế của sự dữ. Quỷ ô uế la to “Ông Giêsu Nagiaret…. ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?…ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Qua lời này, chúng ta thấy tên quỷ nhận ra người trừ tà là ai và biết rõ sứ vụ của Ngài, nên nó chống cự lại. Nó tự hỏi đã đến giờ thế giới của sự ác, của tối tăm, của ma quỷ sụp đổ chưa ? Chúa Giêsu có đến tiêu diệt nó sớm quá chăng? có trước thời hạn không? Tên quỷ này còn biết danh xưng của Đức Giêsu “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ở đây không phải là lời tuyên xưng đức tin, nhưng như một lời cám dỗ về địa vị, về thiên tính của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không muốn quỷ nói ra danh xưng đó vì “giờ” của Ngài chưa đến, nên Ngài quát mắng tên quỷ ” Câm đi! ” và ra lệnh ” Hãy xuất khỏi người này!”. Đây là một lời hăm dọa và cũng là lệnh truyền. Lời Ngài có uy quyền khiến ma quỷ phải tuân lệnh. Quỷ vật người ấy ngã xuống, nhưng không làm hại người bệnh và xuất ra. Quỷ xuất ra cách công khai. Mọi người đều thấy và nhận ra quyền năng trong lời nói của Chúa Giêsu “Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải xuất”.
Với tất cả những điều như thế, dân chúng đã nhận ra sức mạnh của Lời phát xuất từ con người Đức Giêsu. Lời chữa lành. Lời xua trừ tà thần. Lời giải phóng con người khỏi sự khống chế của sự dữ. Lời đem lại sự sống. Và họ đồn thổi danh tiếng Ngài ra khắp vùng đó.
Trong cuộc sống ngày nay, giữa một xã hội thực dụng và tội lỗi, tà thần lan tràn và len lỏi vào từng ngóc nghách của cuộc sống, tâm hồn của con người. Càng ngày càng có nhiều người tâm thần không ổn định, nội tâm bị cưỡng bức. Họ tìm đến y học, pháp thuật, ma thuật… mà quên đi Đấng có quyền xua trừ ma quỷ và chữa lành nội tâm họ. Họ tìm đến con người để được chữa lành thể xác nhưng lại quên đi một vị thần linh, một vị Thiên Chúa uy quyền, toàn năng trên mọi người, mọi vật, có quyền sinh tử cả xác và hồn. Con người ngày càng bị lệ thuộc, bị khống chế bởi tà thần khác nhau như : danh vọng, địa vị, tiền bạc, hưởng thụ… đến khi không được đáp ứng theo nhu cầu hoặc cuộc sống không có lối thoát, họ tìm cách kết liễu cuộc đời.
Chúa Giêsu giảng dạy như Ðấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: “Câm đi, hãy ra khỏi người này”, thì phép lạ liền xẩy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các Luật sĩ đương thời.
Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: “Sự thật sẽ giải phóng các ngươi”.
Lời Chúa là lời chân thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ xiềng xích của dối trá, để lời tuyên xưng và cuộc sống của chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội đầy trói buộc và dối trá thì chứng tá cuộc sống là lời nói có giá trị nhất.