2024
TINH THẦN CỦA LUẬT
12.6Thứ Tư trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
1 V 18:20-39; Tv 16:1-2,4,5,8,11; Mt 5:17-19
TINH THẦN CỦA LUẬT
Thấy Chúa Giê-su hành xử khá tự do. Chữa bệnh ngày sa-bát. Không ăn chay. Lui tới với người tội lỗi, phong cùi. Nhiều người nghĩ rằng Chúa đến để phá huỷ Lề Luật. Nhưng hôm nay Chúa minh định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Chúa kiện toàn thế nào? Có ba yếu tố cơ bản. Kiện toàn bằng tình yêu. Xưa kia luật là cứng ngắc. Khắt khe. Không nhân nhượng. Nhưng Chúa đã cho biết nền tảng của Lề Luật là tình yêu. Phải giữ luật vì lòng yêu mến. Mến Chúa và yêu người. Như Chúa dạy: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ”. Thậm chí Người còn ban hẳn một điều răn mới thay cho các điều răn cũ. Đó là phải thương yêu. Kiện toàn bằng lòng thương xót. Xưa kia máy móc nghĩ rằng cứ giữ luật là nên công chính. Tôi có thể tự mình nên công chính. Nay phải cậy nhờ lòng thương xót của Chúa. Chỉ nhờ lòng thương xót của Chúa tôi mới có thể được ơn cứu độ. Kiện toàn bằng Thần Khí. “Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống”
Với Thánh Phao-lô thì cho chúng ta biết Chúa kiện toàn bằng Thần Khí. Giao Ước cũ căn cứ trên chữ viết. Giao Ước dựa vào Thần Khí. Chữ viết thì giết chết. Thần Khí mới ban sự sống. Chữ viết thì mau qua. Thần Khí thì vĩnh cửu. Vì thế Giao Ước mới là hoàn hảo. Và người phục vụ Giao Ước mới cũng sẽ được vinh quang. “Nếu việc phục vụ Lề Luật – thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá – mà được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang – dù đó chỉ là vinh quang chóng qua -, thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao…Thật vậy nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại chẳng vinh quang hơn sao”?
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Chúa Giêsu bảo ta rằng “dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, cũng không được bãi bỏ”. Nói được rằng Chúa Giêsu ủng hộ việc có nhiều luật lệ và điều răn chăng? Chắc chắn là không.
Các kinh sư và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn Lề Luật: Tất cả vì luật. Chúa Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hạng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sabát (x. Lc 6,8-11; 13,14; 14,1-6; 6,1-2…). và các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn (x. Lc 11,38). Họ cho rằng: Ngài muốn phá bỏ Lề Luật, nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “… đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môisê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Như ta biết, đối với Chúa Giêsu chỉ có một điều răn thâu tóm mọi điều răn khác. Đó là điều răn dạy phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Nhưng bởi chỉ có một điều răn nền tảng, thì không có nghĩa là không có điều răn nào khác cũng quan trọng.
Để yêu thương như Chúa muốn, người ta không thể giữ mực chung chung, mà phải đi vào cụ thể, phải chú ý đến cả những điều nhỏ nhặt. Tình yêu được hình thành từ vô vàn những sự chăm chú, từ vô số những cái tế nhị, từ ngàn lẻ một những chuyện nhỏ nhặt. Ta đừng tin những ai nói mình yêu Chúa yêu anh em mà lại bất chấp mọi điều khác.
Xin Chúa thổi tình yêu của Ngài vào trong cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ giới răn Đạo Chúa và giáo huấn của Giáo hội Chúa Kitô, chúng ta giữ Luật Chúa không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, nhưng thực thi với tinh thần của tình yêu.
2024
Thứ Tư Tuần X – Mùa Thường Niên
Thứ Tư Tuần X – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 26,1-2
Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của con
con còn sợ người nào ?
Chúa là thành luỹ bảo vệ đời con,
con khiếp gì ai nữa ?
Chính bọn thù địch, bọn làm khổ con
phải lảo đảo té nhào.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, xin đáp lời con cái nài van mà soi sáng cho biết những gì là chính đáng, và giúp chúng con đủ sức thi hành. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Để dân này nhận biết Ngài là Thiên Chúa và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.
Bài trích sách các Vua quyển thứ nhất.
20 Hồi đó, vua A-kháp sai người đi mời toàn thể con cái Ít-ra-en và triệu tập các ngôn sứ trên núi Các-men. 21 Bấy giờ, ông Ê-li-a đến bên dân và nói : “Các người nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người ; còn nếu là Ba-an thì cứ theo nó !” Nhưng dân chúng không đáp lại lời nào. 22 Ông Ê-li-a lại nói với dân : “Chỉ sót lại mình tôi là ngôn sứ của Đức Chúa, còn ngôn sứ của Ba-an có những bốn trăm năm mươi người. 23 Hãy cho chúng tôi hai con bò mộng ; họ hãy chọn lấy một con, chặt ra và đặt trên củi, nhưng đừng châm lửa ; tôi cũng làm thịt con bò kia, rồi đặt trên củi, nhưng sẽ không châm lửa. 24 Đoạn các người hãy kêu cầu danh thần của các người ; còn tôi, tôi kêu cầu danh Đức Chúa. Vị thần nào đáp lại bằng lửa thì vị đó chính là Thiên Chúa. Toàn dân trả lời và nói : ”Đề nghị hay đó !” 25 Bấy giờ, ông Ê-li-a nói với các ngôn sứ Ba-an : “Các người chọn lấy một con bò và làm trước đi, vì các người đông hơn. Rồi hãy kêu cầu danh thần của các người nhưng đừng châm lửa.” 26 Vậy, họ lấy con bò người ta đưa cho họ, làm thịt, rồi kêu cầu danh thần Ba-an từ sáng tới trưa : “Lạy thần Ba-an, xin đáp lời chúng tôi !” Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời, và họ nhảy khập khiễng bên cạnh bàn thờ họ đã dựng. 27 Đến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng : “Kêu lớn tiếng lên, người là một vị thần mà ! Người đang mải suy nghĩ, hay là đi vắng, hoặc trẩy đường xa ; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi !” 28 Họ càng kêu lớn tiếng hơn, và theo thói tục của họ, họ dùng gươm giáo rạch mình đến chảy máu. 29 Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói liên miên cho tới giờ dâng lễ ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời, không người để ý.
30 Bấy giờ ông Ê-li-a nói với toàn dân : “Các người hãy lại đây.” Toàn dân tiến lại gần ông. Ông dọn lại bàn thờ Đức Chúa đã bị phá huỷ. 31 Ông Ê-li-a lấy mười hai phiến đá, theo số các chi tộc con cháu ông Gia-cóp, người đã được Đức Chúa phán bảo rằng : “Tên ngươi sẽ là Ít-ra-en.” 32 Ông dùng các phiến đá ấy xây lại một bàn thờ kính Đức Chúa. Ông đào một đường mương chung quanh bàn thờ rộng cỡ hai thúng hạt giống. 33 Ông xếp củi lên, rồi làm thịt con bò mộng và đặt trên đống củi. 34 Ông nói : “Hãy đổ nước đầy bốn lu rồi tưới lên lễ vật và củi.” Họ làm như vậy. Ông nói : “Lần thứ hai nữa”, họ làm lần thứ hai. Ông lại nói : “Lần thứ ba !” và họ làm thêm lần thứ ba. 35 Nước chảy tràn quanh bàn thờ, khiến đường mương cũng đầy nước. 36 Đến giờ dâng lễ, ngôn sứ Ê-li-a tiến ra và nói : “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, và Ít-ra-en ! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa, và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. 37 Xin đáp lời con, lạy Đức Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận biết : Ngài là Đức Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.” 38 Bấy giờ lửa của Đức Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn. 39 Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói : “Đức Chúa quả là Thiên Chúa ! Đức Chúa quả là Thiên Chúa !”
Đáp ca
Tv 15,1-2a.3a và 4.5 và 8.11 (Đ. c.1)
Đ.Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
1Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.2aCon thưa cùng Chúa : “Ngài là Chúa con thờ.”
Đ.Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
3aCòn thần ngoại xứ này,
vẫn gia tăng tàn phá,
và thiên hạ tới tấp chạy theo.4Máu tế thần, con quyết chẳng dâng.
Đ.Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
5Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con ;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.8Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
Đ.Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
11Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống :
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi !
Đ.Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Tung hô Tin Mừng
Tv 24,4b.5a
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Lạy Thiên Chúa con thờ, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mt 5,17-19
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
17 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. 18 Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. 19 Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa chúng con dâng tiến lễ vật này, để tỏ lòng thần phục suy tôn; cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận và cho chúng con được thêm lòng mến Chúa. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúa đã tác thành mọi sự trong vũ trụ, đã sắp đặt cho thời gian thay đổi tuần hoàn.
Còn loài người, Chúa đã dựng nên giống hình ảnh Chúa và bắt mọi sự kỳ diệu quy phục loài người để họ thay quyền Chúa thống trị mọi loài Chúa đã sáng tạo và luôn ca tụng Chúa vì muôn việc kỳ diệu Chúa đã làm, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Bởi vậy, trong khi cử hành lễ hân hoan này, cùng với toàn thể các Thiên thần, chúng con ca ngợi tung hô Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 17,3
Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ bảo vệ,
là Đấng giải thoát con,
lạy Thiên Chúa con thờ,
chính Ngài phù hộ con.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, xin dùng ơn thiêng của bí tích này để chữa lành và bổ dưỡng chúng con, cho chúng con thoát khỏi mọi khuynh hướng xấu và bước đi vững vàng trên con đường thánh thiện. Chúng con cầu xin. . . . .
2024
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG
11.6Thánh Barnabas, Tông Đồ
1 V 17:7-16; Tv 4:2-3,4-5,7-8; Mt 5:13-16
MUỐI VÀ ÁNH SÁNG
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách.
Ngài là một người Do Thái được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem. Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân.
Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo Hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan Marô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn. Ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhưng chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc Âm. Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35).
Năm sau, dự định hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công Vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo Hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc Âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công Vụ các tông đồ. cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào thơ mục Thánh Kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do Thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc Âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Ngài đã chép tay.
Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Sau khi giảng bài Tám Mối Phúc, Chúa Giê-su nói các môn đệ phải là muối và ánh sáng. Hiển nhiên là muối mang vị mặn thiên đàng. Và ánh sáng Nước Trời. Quả thật thế gian đang hư hỏng vì thói cạnh tranh. Tìm tiền của. Mạnh hiếp yếu. Tìm hưởng thụ vui chơi. Tàn nhẫn. Lương tâm hoen ố. Áp bức. Người tông đồ của Chúa cần có vị muối mặn và ánh sáng của Tám Mối Phúc. Không coi trọng tiền của. Tránh xa quyền lực. Giữ tâm hồn trong sạch. Biết cảm thương. Hiền lành khiêm nhường. Để ướp mặn thế gian. Để soi sáng thế gian. Thế gian sẽ không bị hư hỏng. Thế gian sẽ biết đi trong ánh sáng. Đến hạnh phúc.
Ê-li-a cũng là muối và là ánh sáng của Chúa. Giữa một dân tộc hư hỏng vì chạy theo vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben, ông vẫn giữ lòng trung tín với Chúa. Muối đó ướp mặn bà goá Xa-rép-ta. Khiến cho bà tin tưởng vào Chúa. Không tìm chạy theo lợi lộc vật chất. Nhưng đã hi sinh phục vụ vị tiên tri. Tiên tri chiếu lên ánh sáng của Chúa. Ánh sáng sự thật. Nên lời hứa của tiên tri được thực hiện. “Ông Ê-li-a nói với bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói….Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”. Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán”
Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khoẻ của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng… là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng sát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối… Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”.
Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiêm nhường, yêu thương, tự huỷ, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm… thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối, vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
2024
Thánh Ba-na-ba tông đồ
Thánh Ba-na-ba tông đồ
lễ nhớ bắt buộc
Ca nhập lễ
- Cv 11,24
Vị thánh này có phúc
vì đáng được kể thêm vào số Tông Đồ :
Người thật là tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã truyền phải dành riêng thánh Ba-na-ba là một người đầy lòng tin và Thánh Thần, để thánh nhân đưa nhân loại về với Chúa. Xin cho mọi tín hữu biết dùng lời nói và việc làm để trung thành loan báo Tin Mừng Ðức Kitô như thánh nhân đã can đảm rao truyền. Chúng con cầu xin…
Bài đọc 1
Cv 11,21b-26 ; 13,1-3
Ông Ba-na-ba là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
11 21b Hồi ấy, có một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.
22 Tin ấy đến tai Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem, nên người ta cử ông Ba-na-ba đi An-ti-ô-khi-a. 23 Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Ba-na-ba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa. 24 Ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm rất nhiều người theo Chúa.
25 Ông Ba-na-ba trẩy đi Tác-xô tìm ông Sao-lô. 26 Tìm được rồi, ông đưa ông Sao-lô đến An-ti-ô-khi-a. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người. Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu.
13 1 Trong Hội Thánh tại An-ti-ô-khi-a, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-ôn biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô. 2 Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo : “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm.” 3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.
Đáp ca
Tv 97,1.2-3ab.3cd-4.5-6 (Đ. c.2b)
Đ.Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân.
1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Người.
Đ.Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân.
2Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ,
mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân ;3abNgười đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa
dành cho nhà Ít-ra-en.
Đ.Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân.
3cdToàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.4Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đ.Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân.
5Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt,
nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca.6Kèn thổi vang xen tiếng tù và,
tung hô mừng Chúa, vị Quân Vương !
Đ.Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân.
Tung hô Tin Mừng
- Mt 28,19a.20b
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mt 10,7-13
Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : “Anh em hãy đi rao giảng : Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng kiếm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
11 “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin thánh hoá của lễ chúng con dâng, và ban cho chúng con lửa yêu mến nồng nàn xưa đã thiêu đốt lòng thánh Ba-na-ba và thúc đẩy thánh nhân đem ánh sáng Tin Mừng đến cho dân ngoại, Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì Chúa đã cho Hội Thánh được đứng vững trên nền tảng các Tông Ðồ, để Hội Thánh luôn là dấu chỉ trường tồn sự thánh thiện của Chúa nơi trần gian, và trình bày giáo lý bởi trời cho mọi người.
Vì thế, giờ đây và cho đến muôn đời, cùng với toàn thể đạo binh thiên quốc, chúng con sốt sắng chúc tụng và tung hô Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Ga 15,15
Chúa nói :
“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa,
vì tôi tớ không biết việc chủ làm.
Thầy gọi anh em là bạn hữu,
vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy,
Thầy đã tỏ cho anh em biết.”
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, nhân ngày lễ thánh Ba-na-ba tông đồ, Chúa đã ban cho chúng con bảo chứng của cuộc sống vĩnh cửu. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho chúng con một ngày kia được chiêm ngưỡng chính Ðức Kitô, Ðấng chúng con vừa đón rước trong mầu nhiệm thánh lễ này. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.