2023
Phụng vụ Mùa Chay và đầu Tuần Thánh
Trong năm Phụng vụ, các mùa Phụng vụ có những tầm quan trọng khác nhau. Tam Nhật Vượt qua luôn là trung tâm điểm với cao điểm là lễ Phục sinh. Các mùa khác có những ý nghĩa cũng như tầm quan trọng nhất định, trong đó mùa Chay giữ một ý nghĩa đặc biệt. Mùa Chay kéo dài từ thứ tư lễ Tro và kết thúc trước thánh lễ chiều Tiệc Ly ngày thứ Năm Tuần Thánh. Mùa Chay là thời gian chuẩn bị mừng đại lễ Vượt qua, với lời kêu gọi các tín hữu hãy từ bỏ tội lỗi, hãy hoán cải, cầu nguyện, chay tịnh và thi hành bác ái.[1]
Do đó, mùa Chay là thời gian rất ý nghĩa đối với mỗi tín hữu khi tham dự vào các nghi thức Phụng vụ. Với tâm tình hoán cải của một người con tội lỗi, mùa Chay mời gọi mỗi người hãy hòa giải với Thiên Chúa qua việc từ bỏ đời sống tội lỗi của mình. Nhờ đó mỗi người cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho mình. Với thời gian chuẩn bị trong mùa Chay, các tín hữu hân hoan bước vào việc cử hành mầu nhiệm cao đẹp nhất, mầu nhiệm Chúa Phục sinh.
I* Nguồn gốc của mùa Chay
1* Nguồn gốc và ý nghĩa mùa Chay
Chúng ta không biết một cách chắc chắn rằng mùa Chay do ai thiết lập và đã xuất hiện ở đâu trước tiên, nhưng chỉ biết vào khoảng cuối thế kỷ III đầu thế kỷ IV tại Ai Cập mùa Chay đã hình thành một cách rõ nét, còn tại Rôma vào cuối thế kỷ 4 đã có các quy định chặt chẽ về mùa Chay. Một trong những đặc tính nổi bật của mùa Chay là việc giữ chay tịnh. Khác với chay tịnh mừng lễ Phục sinh thường đi liền trước buổi cử hành Đêm vọng Phục sinh và là thành phần chính yếu của cử hành này, còn chay tịnh của mùa Chay lúc ban đầu vừa nhằm chuẩn bị xa cho Đại lễ Phục sinh, vừa theo gương Đức Giêsu giữ chay tịnh trong hoang địa 40 ngày trước khi bước vào cuộc đời công khai (Mt 4,1-11; Mc 1,12-13; Lc 4,1-13).
Ngoài chay tịnh, còn có cầu nguyện và thực hành bác ái là những đặc tính nổi bật của mùa Chay. Giáo hội luôn liên kết ba hành động này trong đời sống của dân Chúa, bởi vì đây chính là giáo huấn của Chúa Kitô (Mt 6,1-18). Tại Rôma vào cuối thế kỷ IV, các dự tòng chuẩn bị lãnh các bí tích khai tâm vào đêm vọng Phục sinh được mời gọi sống ba đặc tính mùa Chay này, họ phải tập luyện từ bỏ con người cũ, sống đời bác ái và chuyên chăm cầu nguyện. Cũng trong thời gian này các Kitô hữu cũng được mời gọi hoán cải và sám hối để chuẩn bị mừng lễ Phục sinh, cách riêng những người phạm tội nặng và công khai như bỏ đạo, giết người, ngoại tình… họ phải thật lòng sám hối và làm việc đền tội trong suốt mùa Chay, để cuối cùng được ơn tha thứ cũng như hoà giải với Thiên Chúa và Giáo hội trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, trước lễ Phục sinh.
Như vậy mùa Chay mang ý nghĩa cho mọi người:
Đối với toàn thể dân Kitô giáo đây là thời gian mọi người chuyên chăm cầu nguyện, giữ chay tịnh và thực hành bác ái.
Đối với các dự tòng đó là thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho họ lãnh các bí tích khai tâm vào Đêm Phục sinh.
Đối với các hối nhân đây là thời kỳ đền tội và sám hối để xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ và hoà giải.
2* Cấu trúc mùa Chay
Khi nói đến mùa Chay người ta thường nghĩ đến 40 ngày chay tịnh; thực ra cách tính 40 ngày chỉ có vào khoảng giữa thế kỷ IV (từ năm 354 đến 384), vào thời đó mùa Chay bắt đầu từ Chúa nhật thứ nhất mùa Chay và kết thúc trước Tam Nhật Vượt qua và kéo dài đúng 40 ngày. Nhưng vào cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII, thần học về ngày Chúa nhật phát triển, người ta không tính ngày Chúa nhật trong số 40 ngày chay tịnh nữa, và để bù vào những ngày Chúa nhật bị mất, người ta kéo dài mùa Chay thêm một số ngày trước Chúa nhật I mùa Chay để giữ ý nghĩa biểu tượng của con số 40. Cuối cùng ngày thứ Tư trước Chúa nhật I mùa Chay được chọn làm ngày khởi đầu mùa Chay. Nhưng dầu sao cách chọn ngày thứ Tư vẫn không đủ 40 ngày của mùa Chay, bởi vì mùa Chay có 6 Chúa nhật (5 Chúa nhật và Chúa nhật lễ Lá), và nếu muốn tính đủ 40 ngày thì phải chọn ngày thứ Hai chứ không phải thứ Tư. Thế nhưng Giáo hội lại chọn ngày thứ Tư vì hai lý do sau đây:
Truyền thống từ rất lâu trong Giáo hội vẫn coi ngày thứ Tư và thứ Sáu trong tuần là những ngày sám hối, vì vậy khi chọn thứ Tư điều đó sẽ phù hợp với ý nghĩa sám hối và hoán cải của mùa Chay.
Giáo hội kế thừa truyền thống Do Thái về biến cố xuất hành ra khỏi Ai Cập, mà theo truyền thống này Chúa đã giải thoát dân và giao ước với họ vào ngày thứ Tư trong tuần. Ngày thứ Tư được coi là mốc điểm của biến cố cứu độ, đó cũng chính là ý nghĩa của mùa Chay khi Giáo hội chuẩn bị mừng biến cố Vượt qua của Chúa Kitô.[2]
Vì những lý do này mà ngày nay chúng ta nên hiểu 40 ngày chay tịnh của mùa Chay chỉ mang nghĩa biểu tượng chứ không theo cách tính toán chính xác. Vì thế “Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch” đã không xác định mùa Chay kéo dài bao nhiêu ngày mà chỉ nói cách chung: “Bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro và kết thúc ngay trước thánh lễ Tiệc Ly”;[3] trong khi đó lại minh nhiên xác định mùa Phục sinh kéo dài 50 ngày.[4]
a* Thứ Tư lễ Tro – khởi đầu mùa Chay
Ban đầu ngày thứ Tư khởi đầu mùa Chay không có cử hành nào đặc biệt, nhưng vào thế kỷ X tại vùng Rhénan (Đức), người ta thấy việc xức tro được cử hành rộng rãi vào ngày thứ Tư. Quả thực, cử chỉ xức tro có trong văn hoá của nhân loại từ lâu nhưng mang nhiều ý nghĩa khác nhau: Người Yogi và người Sadđou bên Ấn Độ lấy tro xoa mình để biểu thị việc chối bỏ mọi vinh hoa trần thế; còn truyền thống Trung Hoa lại phân biệt tro khô với tro ẩm, theo Lieu-Tseu (Liệt Tử) thì tro ẩm là điềm báo tử.[5] Còn trong truyền thống Kinh thánh, tro là biểu tượng của sự mau qua, của tính bấp bênh đời người. Cuộc sống con người chỉ là tạm bợ, dù con người có là gì đi nữa thì không ai thoát cái chết, chính cái chết sẽ biến đổi tất cả ra tro bụi. Abraham trong cuộc mặc cả với Chúa về việc tiêu hủy thành Sodoma và Gomora (St 18,16-33) đã tự nhận mình chỉ là tro bụi (St 18,27). Trước mặt Chúa con người yếu đuối mỏng dòn, họ chỉ là tội nhân cần được thanh luyện. Lửa thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ thiêu đốt tội lỗi và tính kiêu căng con người thành tro bụi (Ed 28,18). Vì thế, Tro còn là dấu chỉ của tâm tình sám hối và hoán cải (Gs 7,6; 2 Sm 13,19; Ed 27,30; G 2,12; 42,6 ), người rắc tro lên đầu hoặc ngồi trên tro biểu lộ sự buồn phiền, đau khổ và ăn năn.
Giáo hội ban đầu cũng duy trì ý nghĩa xức tro theo truyền thống Cựu ước. Các tín hữu thuở ban đầu thường xức tro để tỏ lòng sám hối; đặc biệt là đối với người có tội công khai thì cử chỉ này là cách biểu hiện bề ngoài của thái độ sám hối nội tâm. Vào thời đầu của Giáo hội, xức tro diễn tả hai ý nghĩa cơ bản sau:
Con người chỉ là thụ tạo, thân phận mau qua. Trước mặt Thiên Chúa con người không là gì để tự mãn, mỏng dòn và mau thay đổi.
Xức tro nhắc đến thái độ nội tâm của con người: vì là thụ tạo, mau qua, con người phải biết khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa. Loại bỏ tính tự mãn là cách thức tẩy trừ tội lỗi để đưa con người sống ân tình với Thiên Chúa, Đấng không thay đổi và bảo đảm sự hiện hữu của con người.
Cho đến năm 1091 (thế kỷ XI), Công đồng miền Bénévent (Ý) mới chỉ thị: “Ngày thứ Tư lễ Tro, tất cả mọi người, giáo sĩ và giáo dân, đàn ông và phụ nữ, đều phải nhận tro”. Và chỉ từ thế kỷ XIII, việc xức tro mới thực sự được cử hành trong phụng vụ của toàn Giáo hội.[6]
b* Các Chúa nhật dành cho dự tòng
Trong những thế kỷ đầu Giáo hội chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho các dự tòng trước khi cử hành thánh tẩy cho họ. Có ba giai đoạn trong tiến trình gia nhập Kitô giáo:
Giai đoạn khởi giảng Tin mừng là thời gian đầu tiên các dự tòng có thiện cảm và bước đầu tìm hiểu Kitô giáo.
Giai đoạn học đạo kéo dài nhiều năm, và thời gian cuối của giai đoàn này thường trùng vào mùa Chay.
Giai đoạn nhiệm huấn kéo dài trong suốt tuần Bát nhật Phục sinh sau khi đã chịu thánh tẩy.
Vì giai đoạn cuối để gia nhập đạo trùng vào mùa Chay nên Giáo hội cử hành một số nghi thức đặc biệt dành cho các dự tòng: Chúa nhật I mùa Chay cử hành nghi thức tuyển chọn, còn gọi là nghi thức ghi danh, qua nghi thức này, người dự tòng chính thức là ứng viên đón nhận các bí tích khai tâm vào Đêm Phục sinh. Sau đó vào Chúa nhật, thứ III, IV và V họ sẽ tham dự các nghi thức “khảo hạch”, tức giám mục sẽ giảng dạy và hỏi các dự tòng tổng quát về giáo lý Kitô giáo, kế đó ngài sẽ cử hành nghi thức trao kinh cho họ, nghĩa là trao cho họ hai kinh Tin Kính và Lạy Cha, họ sẽ học hai kinh này và đọc lại cho giám mục nghe mỗi khi ngài giảng dạy vào những Chúa nhật kế tiếp của mùa Chay trong thời gian học đạo.
II* Cử hành phụng vụ trong mùa Chay
1* Cử hành thứ Tư lễ Tro
Trước Công đồng Vaticanô II, vào ngày thứ Tư lễ Tro, nghi thức làm phép và xức tro được cử hành ngay đầu thánh lễ, còn trong Nghi thức hiện nay, việc xức tro được đặt trong phần Phụng vụ Lời Chúa sau bài Tin mừng, và người ta không nhất thiết phải cử hành Thánh Thể sau khi xức tro, bởi vì Nghi thức xức tro có thể cử hành trong thánh lễ hay ngoài thánh lễ.[7] Khi cử hành ngoài thánh lễ, sau phần xức tro cộng đoàn sẽ đọc lời nguyện chung để kết thúc buổi cử hành phụng vụ. Sách lễ Rôma hiện nay đặt nghi thức xức tro vào loại cử hành sám hối (celébration pénitentielle).
Trước đây, khi xức tro, chỉ có một công thức duy nhất: “Ta là thân cát bụi, sẽ trở về cát bụi” (St 3,19). Công thức này được trích từ Cựu ước, nhắc đến giá trị truyền thống của cử chỉ xức tro và ý nghĩa đích thực mỏng manh của đời người. Nhưng trong Nghi thức hiện nay, công thức này lại được bổ túc bằng công thức thứ hai trích từ Tân ước, lời của Đức Kitô: “Hãy sám hối và đón nhận Tin mừng” (Mc 1,15). Chính lời Đức Kitô soi sáng và mang cho cử chỉ xức tro ý nghĩa mới: xức tro không chỉ nhắc đến thân phận mỏng dòn yếu đuối của nhân loại, nhưng việc đón nhận Tin mừng sẽ làm cho con người thấy rõ hơn thân phận yếu đuối của mình, và như thế cử chỉ sám hối vừa là điều kiện đi trước vừa là kết quả theo sau của việc đón nhận Lời Chúa.
2* Các bài đọc Kinh thánh trong thánh lễ mùa Chay
Bài đọc ngày Chúa nhật: các bài đọc này xoay quanh hai bài Cựu ước và Tin mừng, còn bài thánh thư khi thì soi sáng cho bài Cựu ước, khi thì khai triển tư tưởng của bài Tin mừng. Đối với các bài Cựu ước, mỗi năm trong ba năm A, B, C đều nhắc đến các biến cố lớn trong lịch sử dân Chúa xưa để hướng đến mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô. Chẳng hạn chúng ta có các chủ đề của từng Chúa nhật như sau:
+ Giao ước – sa ngã, giao ước Nôê, dân được tuyển chọn tuyên xưng niềm tin (Chúa nhật I);
+ Abraham – ơn gọi, hiến tế Isaac, giao ước (Chúa nhật II);
+ Môsê – Nước chảy từ tảng đá, Chúa ban lề luật, Thiên Chúa mặc khải Danh của Người (Chúa nhật III).
+ Dân Chúa sống trong đất hứa – Vua Đavít, lưu đày và trở về, lễ Vượt qua trong đất hứa (Chúa nhật IV).
+ Các ngôn sứ – Ezekiel, Giêrêmia, Isaia (Chúa nhật V).
Còn đối với các bài Tin mừng, thì Chúa nhật I và II cả ba năm đều đọc như nhau trình thuật Chúa Kitô chịu cám dỗ (CN I) và biến hình (CN II) theo các Phúc âm nhất lãm. Ba Chúa nhật còn lại được gọi là các Chúa nhật “khảo hạch” dành cho dự tòng, và theo truyền thống người ta đọc ba trình thuật sau đây: mặc khải của Chúa cho người thiếu phụ Samaria (Ga 4,5-42), Chúa chữa người mù từ khi mới sinh (Ga 9,1-41) và sự phục sinh của Lazarô (Ga 11,1-45). Hiện nay, ba đoạn Tin mừng này được đọc trong ba Chúa nhật (III, IV, V) của năm A, nhưng theo luật phụng vụ vẫn có thể đọc trong năm B và C.
Các bài đọc trong tuần: Cũng theo các chủ đề chính yếu của ngày Chúa nhật, bài đọc I luôn luôn trích từ Cựu ước chứ không lấy từ các thư Tân ước, các bài Tin mừng nhắc đến tâm tình sám hối và hoán cải. Kể từ tuần IV mùa Chay, các bài Tin mừng lấy từ Phúc âm Gioan, đặc biệt vào tuần V các trình thuật xoay quanh những cuộc tranh luận căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái để chuẩn bị dẫn đến cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa.
3* Các lời nguyện trong thánh lễ
Các lời nguyện chia làm hai loại: Kinh Tạ ơn và các lời nguyện khác.
Kinh Tạ ơn có nội dung rất phong phú nhờ 12 lời tiền tụng khác nhau: 6 lời tiền tụng dành riêng theo từng Chúa nhật với các chủ đề như: cám dỗ, biến hình, thiếu phụ Samaria, người mù từ khi mới sinh, Lazarô sống lại và lễ Lá); 6 lời tiền tụng chung khác được dùng trong suốt mùa Chay, trong đó 2 lời tiền tụng cuối được dành cho tuần 5 và mấy ngày đầu của Tuần Thánh. Tất cả 12 lời tiền tụng này đều có nguồn gốc từ rất lâu trong truyền thống phụng vụ Rôma, chẳng hạn 4 lời tiền tụng chung được đọc trong suốt mùa Chay có từ thế kỷ V.[8]
Các lời nguyện khác cũng theo các chủ đề của từng Chúa nhật mùa Chay và được trích từ các nguồn phụng vụ cổ xưa. Chẳng hạn nhấn mạnh thân phận yếu đuối của con người và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa; ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô; niềm vui của những người được cứu độ; những đòi hỏi của Tin mừng và sự dấn thân của người tín hữu…
4* Chúa nhật lễ Lá
Trước cuộc canh tân Tuần Thánh của đức Piô XII (1955), Nghi thức làm phép và rước lá được cử hành trong nhà thờ và được đặt trong phần cử hành Lời Chúa: sau khi làm phép lá xong, chỉ mình chủ tế cùng với người giúp lễ cầm cành lá đi rước chung quanh nhà thờ, trong lúc đó, mọi người đứng đợi chủ tế rước xong rồi mới tham dự vào Thánh Thể. Tuy nhiên, cuộc canh tân Nghi thức Tuần Thánh của Đức Piô XII (1955) đã trả lại cho Nghi thức những giá trị và ý nghĩa mà Giáo hội thực hiện trong những thế kỷ đầu, đồng thời phục hồi sự tham dự tích cực của người tín hữu. Chẳng hạn mọi người được mời gọi tham dự vào nghi thức làm phép lá và đi rước. Nghi thức phải được cử hành ở một nơi thích hợp ngoài nhà thờ, từ nơi đó đoàn rước tiến về nơi cử hành thánh lễ, nghĩa là có cuộc rước lá thực sự của toàn thể dân chúng đi từ nơi này đến chỗ kia, chứ không phải cuộc rước chỉ gồm một vài người trong khi đó dân chúng đứng đợi. Nghi thức 1955 cũng lấy lại truyền thống đọc bài Tin mừng Chúa Kitô khải hoàn vào Giêrusalem để đọc trong nghi thức làm phép lá. Cuối cùng, Nghi thức Tuần Thánh hiện nay đã đón nhận Nghi thức 1955 gần như nguyên vẹn chỉ với một vài thích nghi nhỏ.
III* Một số quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay
Quy luật cử hành phụng vụ trong mùa Chay khá chặt chẽ và được xếp thành ba loại sau đây: Chúa nhật, Tuần Thánh và ngày trong tuần.
1* Chúa nhật mùa Chay
Theo “Bảng ghi ngày phụng vụ” trong Sách lễ Rôma các Chúa nhật mùa Chay đứng hàng số 2, có bậc lễ ưu tiên trên các lễ trọng về Chúa, Đức Maria và các thánh. Vì thế khi các lễ trọng trùng vào bất cứ Chúa nhật mùa Chay nào, năm ấy phải dời lễ trọng sang ngày thứ Hai liền kế đó.[9] Ví dụ: Lễ Truyền tin (25/3) của năm 2001 trùng vào Chúa nhật IV mùa Chay năm C, thì ngày 25/3 của năm 2001 phải cử hành thánh lễ và đọc giờ kinh phụng vụ theo Chúa nhật IV mùa Chay, mọi cử hành của lễ Truyền tin phải dời sang ngày thứ Hai (26/3); cùng một trường hợp đối với lễ trọng mừng thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria 19/3/2000 trùng vào Chúa nhật II mùa Chay B.
Vì Chúa nhật mùa Chay có vị trí quan trọng theo bảng xếp hạng thứ tự các ngày phụng vụ, nên vào Chúa nhật mùa Chay, cấm không được cử hành các thánh lễ có nghi thức riêng (RM 372), ví dụ: hôn phối, thêm sức, phong chức, khấn dòng… kể cả thánh lễ an táng. Điều này cho chúng ta hiểu rằng, vào ngày Chúa nhật mùa Chay không được phép dùng bản văn phụng vụ của các thánh lễ có nghi thức riêng, nhưng khi nhu cầu đòi hỏi và cần thiết, vẫn có thể cử hành các nghi thức bí tích vào những ngày này, miễn là phải tôn trọng toàn bộ bài đọc Kinh thánh và bản văn phụng vụ của Chúa nhật mùa Chay đó. Ví dụ: Chúa nhật III mùa Chay phải cử hành an táng cho một tín hữu, người ta sẽ không được phép cử hành thánh lễ cầu hồn, nhưng phải dùng mọi bản văn của Chúa nhật 3 mùa Chay, rồi sau thánh lễ, sẽ cử hành các nghi thức tiễn biệt cho người quá cố như thường lệ.
Cũng không được phép cử hành thánh lễ bổn mạng, tạ ơn, cầu mùa… vào các ngày Chúa nhật mùa Chay (RM 374). Ví dụ: thánh Vinh Sơn Phêriê mừng ngày 5/4, bổn mạng giáo xứ, theo luật phụng vụ được nâng lên hàng lễ trọng riêng,[10] hôm đó lại nhằm ngày Chúa nhật mùa Chay, thì năm ấy người ta không được phép dâng thánh lễ mừng bổn mạng giáo xứ đúng ngày, mà phải dời vào ngày nào đó thuận tiện trong tuần, vì theo luật, lễ trọng riêng đứng dưới bậc lễ của Chúa nhật mùa Chay nhưng trên bậc lễ của các ngày trong tuần.
2* Ngày trong tuần thuộc mùa Chay
Các ngày thường trong tuần thuộc mùa Chay có vị trí ưu tiên trên các lễ nhớ buộc,[11] vì thế khi các lễ nhớ buộc trùng vào những ngày thường trong mùa Chay, thì các lễ này trở thành các lễ nhớ tự do, người ta sẽ dùng bản văn phụng vụ của ngày trong tuần mùa Chay, mặc dù linh mục vẫn được phép đọc lời nguyện nhập lễ của vị thánh được nhớ (RM 355). Cũng vậy, trong những ngày này không được phép cử hành thánh lễ ngoại lịch hay nhu cầu do lòng sùng kính riêng (RM 375), ví dụ: thứ Tư đầu tháng kính thánh Giuse, thứ Sáu đầu thánh kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, thứ Bảy đầu tháng kính Đức Maria…
Tuy nhiên được phép cử hành các thánh lễ sau đây vào những ngày thường của mùa Chay: các lễ trọng chung và riêng, lễ an táng, lễ bổn mạng giáo xứ hay dòng tu, lễ có nghi thức riêng, lễ kính, lễ tuỳ nhu cầu theo lệnh của bản quyền địa phương, lễ cầu hồn khi vừa được tin một người qua đời (còn gọi là lễ phát tang).
3* Những ngày đầu tuần thánh
Cuộc Thương khó và Phục sinh của Đức Kitô cùng với những biến cố liên quan đến sự kiện đó hợp thành một thời điểm cao trọng nhất trong năm phụng vụ gọi là Tuần Thánh. Vì thế, “Hội thánh Mẹ chúng ta, tưởng niệm Chúa đã phục sinh mỗi tuần vào ngày Chúa nhật, và còn lại họp mừng Chúa đã chịu khổ nạn và đã phục sinh mỗi năm một lần vào kỳ đại lễ Phục sinh”.[12]
Cao điểm của Tuần Thánh chính là Tam Nhật Vượt qua, cũng gọi là Tam Nhật Thánh hoặc Tam Nhật Phục sinh. Đó là trung tâm điểm của đức tin Kitô giáo nói về cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Tam Nhật Vượt qua – gồm thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy Tuần Thánh, và lễ Phục sinh. Đêm Vọng Phục sinh được xem là đỉnh cao của Tam Nhật Thánh, kỷ niệm biến cố Phục sinh của Đức Kitô. Mặc dù năm phụng vụ khởi đầu vào mùa Vọng nhưng vẫn đạt tới đỉnh cao trong Tam Nhật Thánh, đặc biệt vào lễ Phục sinh, lễ trọng của các lễ trọng. Giáo lý Công giáo mô tả tầm quan trọng của Tam Nhật Thánh như sau:
Bắt đầu bằng Tam Nhật Thánh như nguồn ánh sáng, thời đại mới của sự phục sinh đổ đầy cả năm phụng vụ bằng sự rực rỡ của ánh sáng. Dần dần, về phương diện khác của nguồn gốc này, năm được tôn lên bằng phụng vụ. Đây thực sự là “năm của ân sủng Thiên Chúa”. Sự cứu độ hoạt động trong khung thời gian, nhưng vì sự viên mãn trong cuộc Vượt qua của Chúa Giêsu và sự tràn đầy Thánh Thần, đỉnh cao của lịch sử được tiên báo là “sự nếm trước” và Vương quốc của Thiên Chúa đến trong thời đại của chúng ta.[13]
Các Kitô hữu tưởng niệm cuộc Thương khó và sự Phục sinh của Chúa Giêsu từ thời các Tông đồ, vì sự chết và sự sống lại của Người là trung tâm ơn cứu độ Kitô giáo. Ít là vào thế kỷ II, các Kitô hữu đã cử hành Đêm Vọng Phục sinh, bắt đầu đêm thứ Bảy, tiếp tục đến sáng lễ Phục sinh. Trong Đêm Vọng Phục sinh, các Kitô hữu tưởng niệm lịch sử ơn cứu độ, chờ đợi sự trở lại của Chúa Giêsu, và cử hành sự phục sinh của Chúa Giêsu vào sáng sớm Chúa nhật Phục sinh. Trong Đêm Vọng Phục sinh, các tân tòng lãnh nhận bí tích Thánh tẩy và bí tích Thánh Thể lần đầu tiên.
Từ việc cải cách phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Đêm Vọng Phục sinh và Tam Nhật Thánh lại đạt được vị thế ưu tiên trong lịch Phụng vụ Công giáo Tây phương. Luật năm Phụng vụ và lịch Phụng vụ đã đặt Tam Nhật Thánh đi liền với mùa sau mùa Chay trong Giáo hội Công giáo.
3.1* CHÚA NHẬT LỄ LÁ
a* Nguồn gốc
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattatia, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattatia tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattatia bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng, đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời ngôn sứ Dacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời ngôn sứ Dacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Trước lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu đã vào thành Giêrusalem. Trên đường đi, dân chúng đã lũ lượt đón Người. Họ bẻ cành cây rải lên khắp đường cho Người đi qua, nhiều người mang theo những cành thiên tuế. Có người còn trải áo choàng lên đường cho Người đi. Dân chúng cùng nhau reo hò như trong một hợp xướng: “Vạn tuế Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Vạn tuế khắp cả trời cao” (Mt 21,9). Những tiếng hoan hô Đức Giêsu bộc lộ một niềm hy vọng vào Đấng Thiên Sai. Họ cũng không quên rằng Đấng sẽ tái lập ngôi báu Đavít, cũng là Đấng thực hiện công trình và kế hoạch Thiên Chúa.
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu công khai tỏ ra mình là Vua, là Đấng Thiên Sai. Người muốn làm trọn lời ngôn sứ Dacaria từng loan báo ngày Đức Vua ngự vào Giêrusalem một cách uy nghiêm nhưng khiêm tốn: “Người cỡi trên lưng lừa con… Đó là vị vua mang hòa bình đến cho mọi dân nước, sẽ thống trị đất biển sông núi cho đến tận cùng trái đất” (Dc 9,9-10).
b* Ý nghĩa của thánh lễ
Trước tiên, Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Đã có lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẩn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: “Hoan hô chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”. Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, Latinh và Hy Lạp, “Giêsu Nadarét Vua dân Do Thái”. Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên Thập Giá, nhưng các sách Phúc âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng Tôi”. Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng. Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại. Hôm nay trong cái nghịch lý của lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta.
c* Ý nghĩa của nghi thức kiệu lá
Nghi lễ này không phải chỉ là nghi thức tưởng niệm, nhưng còn là để cử hành một mầu nhiệm, một hành động thánh của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo. Nghi thức rước là này là một sự tuyên xưng Đức Kitô, nhưng đồng thời cũng là để chúng ta tuyên xưng đức tin của chúng ta đối vào Chúa chúng ta. Những tiếng hoan hô nói lên tâm tình hiện tại của các Kitô hữu đó là lòng hoan hỉ và biết ơn sâu xa đối với tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Ngoài ra, nghi lễ này cũng còn mang một ý nghĩa khác, đó là hướng chúng ta về vinh quang của ngày chung thẩm. Đoàn rước tượng trưng cho cho bước đầu tiên của Giáo hội hành hương về Giêrusalem Thiên Quốc. Ý nghĩa đó còn rõ rệt hơn khi đoàn người từ từ tiến vào thánh đường, đi đầu là thánh giá. Với hình ảnh này, Giáo hội không những nhắc lại kỷ niệm Đức Giêsu vào Thành thánh Giêrusalem, mà còn gợi cho chúng ta về hình ảnh một bữa tiệc Thánh Thể trong đó mọi người cùng chia sẻ một tấm bánh sự sống đời đời, và thập giá Đức Kitô sẽ mở đường vào Giêrusalem Thiên Quốc cho đoàn người vô số đã được thánh Gioan miêu tả trong sách Khải Huyền (Kh 7,9-10).
d* Cử hành
Nghi thức đầu thánh lễ là kiệu lá. Mọi người cầm lá trong tay và tập họp tại một nơi thích hợp để làm phép lá. Linh mục và những người giúp lễ mặc phẩm phục đỏ tiến vào nơi giáo dân tụ họp để làm phép lá. Nghi thức làm phép lá kết thúc, đoàn rước tiến vào nhà thờ để cử hành thánh lễ như những thánh lễ Chúa nhật khác.
Cử hành thánh lễ: Điều khác trong thánh lễ hôm nay có đọc bài Thương Khó kể về những cực hình mà Đức Giêsu đã phải chịu trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Người nơi trần gian này. Trên bàn thờ, các bình bông được thay bằng những bình lá.
3.2* BA NGÀY ĐẦU CỦA TUẦN THÁNH
a* Thứ Hai
Ca nhập lễ và Thánh thư của ngày hôm nay lấy lại lời ngôn sứ Isaia và các thánh vịnh 34, 142 nói lên tiếng thở than của người công chính trong khi bị bắt mà không tìm cách chống lại kẻ bắt bớ mình nhưng biết chạy đến kêu cầu cùng Thiên Chúa. Tiếng thở than đau thương đó là tiếng kêu thương của người bị bỏ rơi. Đây là hình ảnh của Đức Kitô, Chúa chúng ta. Người đã chịu bắt bớ và chết trên thập giá vì loài người chúng ta. Người vẫn còn hấp hối trong Giáo hội cho đến ngày sau hết. Bao lâu Giáo hội còn tội lỗi, bấy lâu còn phải chiến đấu không ngừng (xc. Ep 6,12). Những kẻ thù đó đang len lỏi trong mỗi người chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng được nhờ vào giá máu của Đức Kitô. Điều cần thiết là chúng ta phải biết sống cuộc khổ nạn của Người bằng những hy sinh và từ bỏ những gì ngăn cản chúng ta đến với Người.
b* Thứ Ba
Hôm nay Giáo hội hướng tất cả ý chí, tình yêu và lòng biết ơn của Giáo hội vào thánh giá của Đức Kitô với niềm hy vọng lớn lao nhất là mong được cứu thoát khỏi tội lỗi và được sự sống bất diệt với Người. Ca nhập lễ hôm nay nói lên vinh dự và giá trị cứu độ của thập giá Đức Kitô. Nếu nhận thức được thế nào là cuộc sống với Đức Kitô và cho Đức Kitô, chúng ta sẽ không tìm được một vinh dự nào trong nhân loại ngoài thập giá của Người (Gl 6,14). Vì thế, trong lời nguyện thánh lễ, Giáo hội muốn chúng ta dứt khoát với dĩ vãng tội lỗi để mặc lấy con người mới nhờ vào giá trị thập giá của Đức Kitô. Muốn vậy, chúng ta nhất quyết đi vào con đường của Thầy Chí Thánh để cùng chết với tội lỗi.
c* Thứ Tư
Theo tập truyền của Giáo hội, ngày hôm nay là ngày khởi đầu cuộc thương khó của Đức Kitô. Vì thế, ngay từ thời các tông đồ, hôm nay là một ngày chay tịnh khắc khổ và ngày chuẩn bị gần nhất cho cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Phụng vụ ngày hôm nay mang một màu sắc trọng thể hơn những ngày trước và tất cả các kinh lễ đều nhắc tới những đau khổ của Người, báo trước ơn cứu chuộc nhờ vào cái chết của Người (xc. Is 53).[14]
Nhờ sự vâng lời tuyệt đối, Đức Kitô đã được tuyên phong là Chúa Tể, một danh hiệu tượng trưng cho uy quyền của Thiên Chúa mà chỉ dành riêng cho một mình Đức Chúa trong thời Cựu ước. Đặc quyền này được diễn tả trong bài đọc Thánh Thi của Isaia mô tả Đức Chúa báo thù những địch thù của Người qua hình ảnh người thợ ép nho từ guồng máy trở về, áo đẫm máu. Trong bài đọc này chúng ta thấy lý do áo Người bị hoen đỏ vì không có ai giúp đỡ mà chỉ một mình Người phải đẩy một khối nho khổng lồ vào guồng máy với tất cả sức lực của mình. Đây chính là hình ảnh vị Thẩm Phán tối cao đến xét xử trần gian và địch thủ của Người bị tiêu diệt. Nhưng trước khi xét xử, Người phải chiến đấu thực sự với sa tan, với tội lỗi của loài người, với những hèn nhát, lãnh đạm và khước từ của chúng ta.[15]
Lớp Thần IV, Học viện Đa Minh,
Nguồn: Trang tin www.catechesis.net
[1] Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Tổng quát (Tp. HCM: Đại Chủng Viện thánh Giuse, 2001), tr. 92.
[2] Michel Coirault, Pour connaitre les fêtes juives, chrétiennes et musulmanes, Cerf, 1991, tr. 12-13.
[3] Sách lễ Rôma, ‘Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch’, Rôma 1975, số 28.
[4] Văn kiện vừa dẫn, số 22.
[5] Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, Từ điển văn hoá thế giới, Mục từ “Tro”, bản dịch Việt ngữ do nhà xuất bản Đà Nẵng, trường viết văn Nguyễn Du thực hiện, 1997, tr. 948.
[6] P. Jounel, Le cycle pascal, trong A.G. Martimort, l’Eglise en prière, tome IV “La liturgie et le temps”, Desclée, 1983, tr. 82.
[7] Sách lễ Rôma, việt ngữ 1992, tr. 186.
[8] A.G. Martimort, quyển IV “La liturgie et le temps” trong “L’Église en prière”, Deselée, 1983, tr. 87.
[9] Sách lễ Rôma, ‘Những quy luật tổng quát về năm phụng vụ và niên lịch’, Rôma 1975, số 5.
[10] Bảng ghi ngày phụng vụ, số 4.
[11]Ibid., từ số 2 đến số 9.
[12]SC, số 102.
[13] GLCG, số 1168.
[14]Xc. The Liturgy and Time, trang 37.
[15]Xc. Sđd, trang 38-39.
2023
Chứng nhân Phục Sinh
9.4 Chúa Nhật Lễ Phục Sinh
St 10:34,37-43; Tv 118:1-2,16-17,22-23; Cl 3:1-4; 1 Cr 5:6-8; Ga 20:1-9
Chứng nhân Phục Sinh
Chúa Ki-tô đã Phục Sinh như trong tin mừng Gio-an 20,1-9 đã tường thuật một cách tỉ mỉ như một nhân chứng đã mắt thấy tai nghe, diễn tả hành trình mà các tông đồ, cụ thể là 3 nhân vật: Ma-ri-a Mac-đa-la, Phê-rô và Gio-an đã trải qua để tiến đến niềm tin “Chúa đã Phục Sinh”. Chúng ta có thể suy niệm về vai trò của Phêrô và Gioan trong ý nghĩa về Giáo hội học. Nhưng hôm nay chúng ta lưu ý đến chính cuộc phục sinh của Chúa Kitô và ý nghĩa của biến cố này.
Tin mừng của thánh Gioan hôm nay đã trình thuật lại cho chúng ta nghe về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu và “ngôi mộ trống” của Ngài. Những sự kiện được mô tả trong bài Phúc âm thánh Gioan không chỉ muốn minh chứng cho chúng ta biết về sự sống lại của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng điều trọng yếu nhất chính là nền tảng cho lòng tin vào mầu nhiệm của sự sống lại.
Qua các dấu chỉ bên ngoài nơi mộ Chúa, Maria Mađalena, Phêrô, và người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến đã chắc chắn rằng Thầy mình đã sống lại. “Họ đã thấy và họ đã tin” (Ga 20,8). Điều này cho chúng ta thấy được niềm tin mãnh liệt của họ, mặc dầu trước đây họ vẫn chưa hiểu được Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết như thế nào!
Đức tin là một điều không thể thiếu được trong cuộc sống của mỗi một người Kitô hữu. Có đức tin là một điều cần thiết, tuyên xưng đức tin lại là một điều cần thiết hơn nữa. Trong niềm vui trọng đại của ngày Chúa Giêsu Phục sinh, chúng ta hãy cùng nhau dành một chút thời gian để suy niệm niềm tin yêu nầy.
Thánh Phao-lô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích,… chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền” (1Cr 15,12-19).
Vậy Phục Sinh là gì? Đâu là ý nghĩa của biến cố Phục Sinh?
Phục Sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp con trai bà góa thành Na-im (Lc 7,11-17), con gái ông Gia-ia (Lc 8,40-56), và đặc biệt là ông La-za-rô (Ga 11,1-45). Cả ba trường hợp này người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ, có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là phải trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giê-su hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết nhưng khi nói rằng Ngài Phục Sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi chết lại. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài. Nhưng quan trọng hơn nữa, Chúa Kitô Phục sinh trở nên nguồn sự sống và sự sống lại của chúng ta. Điều Chúa nói trước đây: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24) bây giờ trở nên sự thực qua việc Chúa sống lại.
Khi chúng ta nói về mầu nhiệm, bất cứ mầu nhiệm nào nhưng nhất là mầu nhiệm Đức Giêsu sống lại, mầu nhiệm đó có liên quan đến ta cách riêng biệt và ta không thể giả vờ không biết điều ấy, mầu nhiệm này liên kết chặt chẽ với đời sống và hạnh phúc của ta. Một mầu nhiệm từ đó con người không thể “trốn thoát” mà không làm phương hại chính mình.
Cần thêm rằng thật tốt và ích lợi cho ai “chạm” đến hoặc được mầu nhiệm ấy chạm đến. Có người nghĩ rằng vì là mầu nhiệm nên điều đó làm nhục ta, làm ta mất danh giá, đánh mất tự chủ và sự cao cả, đánh gục ta ngay từ nền tảng lý trí và dẫn ta vào đường lối mù quáng của sự cả tin. Chẳng có gì sai lạc cả! Đối diện với mầu nhiệm nghĩa là với điều gì vượt trên việc ta kinh nghiệm về sự vật và con người, là dấu chỉ của cội nguồn cho thấy rằng con người không hoàn toàn là trần tục, và được mời gọi đến một thế giới cao hơn cái cát bụi trần đời này.
Sau cùng, mầu nhiệm nhắc nhớ, làm sống lại nơi con người nơi mà từ đó nó phát xuất ra, sứ mạng của nó ở trần gian, điểm đến và mục đích cuộc đời của nó. Đó chẳng phải là sự cao cả của con người khi sánh với thế giới thụ tạo đó sao?
Hôm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Đức Kitô sống lại, sự sống chiến thắng sự chết, bảo đảm cho sự sống vĩnh cửu của ta, được ẩn giấu nơi Thiên Chúa. Mầu nhiệm này không được truyền lại cho ta nhờ các nhà tư tưởng vĩ đại nhất lịch sử hoặc nhờ những nhà thần bí trong các tôn giáo. Ta cũng chẳng thể biết gì nhờ các pháp sư các phù thủy đủ loại qua các thời đại.
Là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh các môn đệ Đức Giê-su đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài, Tin Mừng ấy là: Ai tin nhận Đức Giê-su, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được Phục Sinh như Ngài. Ngày nay tất cả mọi người tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là là niềm tin vào sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Ki-tô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm, và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
Hãy nhìn vào mẫu gương sống động của Đức Kitô, Chúa chúng ta. Ngài đã khiêm hạ để sống kiếp người như ta. Chính khi tiếp nhận mọi mùi vị của cuộc sống. Ngài đã mặc cho cuộc sống một chân lý, một ý nghĩa, một hướng đi. Cuộc sống có ngọt ngào có đắng cay, có lao nhọc có nghỉ ngơi, có thành công có thất bại. Tất cả đều mang một ý nghĩa. Trong Đức Kitô, mất mát trở thành thắng lợi, thua thiệt trở thành cơ may, đau khổ trở thành dịu ngọt, và cái chết sẽ trở thành khởi đầu cho cuộc sống.
2023
Chúa đã sống lại
8.4 Lễ Vọng Phục Sinh
Rm 6:3-11118; Mt 28:1-10; Rm 6:3-11118; Mc 16:1-7
Chúa đã sống lại
Đức Kitô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với Người.
“Hôm nay là ngày Thiên Chúa dựng nên.
Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ”
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay, cộng đoàn chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Phục Sinh. Đó là niềm vui mừng và hoan lạc không chỉ cho chúng ta là những người có niềm tin, mà còn cho toàn thể nhân loại. Quả vậy, như lời Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì niềm tin của chúng ta trở nên vô ích. Và chúng ta là người dại dột hơn ai hết vì chúng ta tin vào một chuyện hão huyền”. Thế nhưng, sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta nhìn sự kiện Chúa Giêsu phục sinh như một cuộc tạo thành mới. Bài trích sách Sáng Thế kể về trình thuật Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật mà trung tâm điểm là con người. Với công trình tạo dựng ấy, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Thế nhưng, tình trạng tốt đẹp đó đã bị phá hỏng bởi ông bà Nguyên Tổ đã nghe theo lời ma quỷ mà phạm tội bất tuân, chống lại Thiên Chúa. Tội lỗi ban đầu đó đã khiến cho đau khổ và sự chết tràn vào thế gian. Ảnh hưởng của tội lỗi, không chỉ trên sự sống của con người, mà còn trên muôn loài, muôn vật.
Như lời Thánh Phaolô: “Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22). Nhưng nhờ sự chết và sống lại của Đức Kitô, mà muôn loài được giải thoát khỏi vòng tội lỗi và sự chết. Không chỉ có thế, sự Phục sinh của Đức Kitô, còn mang đến cho nhân loại sự sống mới sung mãn hơn, tràn đầy hơn sự sống mà nhân loại đã có thuở ban đầu. Vậy nên, chúng ta mới hiểu được lý do tại sao trong đêm Vọng Phục Sinh này Giáo Hội lại ca lên: “Ôi ! tội A-dong thật là cần thiết, tội đã được tẩy xóa nhờ cái chết của Chúa Kitô. Ôi! tội hồng phúc, vì đã cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc cao sang”. (x.Exsultet).
Đức Giêsu Kitô – Chúa chúng ta đã sống lại từ cõi chết, đang từng giây phút tìm chúng ta giữa cái chết trong đại dịch này và mồ chết do tội lỗi đem đến. Chính Ngài đang tìm chúng ta giữa cảnh đời đang đau khổ mà có lúc chúng ta cảm thấy cô đơn. Đức Giêsu Phục Sinh là nguồn hy vọng duy nhất của thế giới. Nơi Ngài, thần chết đã chịu thua. Nơi Ngài, quyền lực của hỏa ngục bị đánh bại; và chính nơi Ngài, nhân loại tìm được ơn giải thoát.
Đức Giêsu Kitô – Chúa chúng ta đã sống lại từ cõi chết, để giúp chúng ta cảm nhận được tình yêu không bờ bến của Ngài. Tình yêu chiến thắng cả sự chết và để ta có thể hiểu rằng mọi lỗi lầm của ta không thể sánh được với tình yêu của Ngài, ví tựa hạt nước tan vào trong biển cả và ví tựa như hạt cát rơi vào biển đại dương mênh mông. Càng suy niệm về điều đó, ta lại càng cảm thấy thấm thía khi nghe những lời của tiên tri Isaia xưa nói:“Dầu tội ngươi có đỏ như son, cũng nên trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều cũng nên trắng như bông” ( Is 1,18).
Tội lỗi vốn là điều đáng chê trách và cần được loại bỏ nếu không muốn nói là điều kinh tởm vì Đức Giêsu Chúa chúng ta đã phải trả một cái giá thật đắt cho điều đó. Thế nhưng, có đôi khi chính nhờ những vấp phạm bản thân mà ta lại được lớn lên và tín thác hơn vào tình yêu Thiên Chúa. Nhờ những lúc thấy cuộc đời tối tăm mà ta mới nhận ra rằng ánh sáng thật cần thiết. Tội trở nên hồng phúc cho nhân thế khi ta biết nhận ra tình yêu Thiên Chúa để sẵn sàng phó thác cuộc sống ta cho Ngài. Tội chỉ trở nên là tội hồng phúc, khi ta biết vượt qua để nhận lãnh ơn Cứu độ, ân sủng của Ngài để kiên cường chiến đấu giữ vững niềm tin trong mọi thử thách.
Hiểu được giá trị sâu xa ấy, ắt hẳn chúng ta thấy mọi sự dưới cái nhìn hoàn toàn khác khi phải đối diện với những yếu đuối của bản thân và tha nhân. Ta không thất vọng cũng chẳng lên án ai. Đức Giêsu đã chỗi dậy, Ngài ban cho chúng ta tất cả tình yêu và niềm hy vọng. Đêm nay, khi tham dự Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, chúng ta cùng nhau cảm tạ Thiên Chúa và quyết tâm sống lại với Ngài bằng cách chia sẻ niềm tin Phục Sinh của mình cho tha nhân, bằng một đời sống chứng ta theo Chúa với sứ mạng Loan Báo Tin Mừng. Vì thế, ta hãy cùng hát lên: ALLELUIA ! ALLELUIA!!! Chúa đã sống lại thật! ALLELUIA!