2023
Nguồn gốc và ý nghĩa của chữ ”Công Giáo”
2023
Ngôn sứ thầm lặng
Ngôn sứ thầm lặng
Một ngôn sứ có thể phân định lúc nào bỏ tấm biểu ngữ xuống và lấy chậu nước cái khăn ra để rửa chân, lúc nào bỏ chậu nước cái khăn xuống để cầm tấm biểu ngữ giương lên.
Cương vị môn đệ kitô kêu gọi tất cả chúng ta phải mang tính ngôn sứ, là người bênh vực cho công lý, là tiếng nói cho người nghèo và bảo vệ sự thật. Nhưng không phải tất cả chúng ta, theo bản chất hay có ơn gọi đặc biệt để không tuân hành luật dân sự, đi tuần hành biểu tình, dẫn đầu các vụ đình công như các nhân vật Dorothy Day, Martin Luther King, Daniel Berrigan và những nhân vật mang chiều kích ngôn sứ khác. Tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm ngôn sứ, nhưng với một số người, điều này chỉ có nghĩa là dùng chậu nước cái khăn để rửa chân cho người khác hơn là giương cao biểu ngữ.
Có một phương thức làm ngôn sứ rất mạnh dù có vẻ lặng lẽ và riêng tư, nhưng không bao giờ cá nhân. Và những quy luật của nó cũng giống như quy luật của những người nhân danh Chúa Giêsu đang giương biểu ngữ và biểu tình. Những luật này, những luật của tinh thần ngôn sứ kitô là gì?
Thứ nhất, ngôn sứ là người khấn đức yêu thương chứ không khấn tha hóa. Có một sự phân biệt then chốt giữa việc khuấy động vấn đề và tiên tri bằng tình yêu, một phân biệt giữa hoạt động vì vị kỉ và hoạt động vì đức tin và đức cậy. Một ngôn sứ chấp nhận bị hiểu lầm, nhưng không bao giờ tạo hiểu lầm, một ngôn sứ luôn đi tìm một trái tim dịu dàng chứ không tìm trái tim giận dữ.
Thứ hai, công lao của người ngôn sứ là từ Chúa Giêsu chứ không từ ý thức hệ. Các ý thức hệ có thể có nhiều sự thật và có thể dùng để bênh vực chân thành cho công lý. Nhưng người dân có thể tránh xa ý thức hệ, khi thấy nó chính xác là ý thức hệ, một kiểu chuẩn mực ăn nói cho hợp lý và từ đó biện hộ cho việc họ bác bỏ sự thật mà ý thức hệ này đưa ra. Những người chân thật thường tránh xa các tổ chức như Hòa bình xanh, Nữ quyền, Thần học giải phóng, Thuyết Chủng tộc phê phán và nhiều ý thức hệ khác vốn thật sự bao gồm nhiều sự thật, lý do chỉ vì các sự thật này bị gom trong một ý thức hệ. Những người chân thật sẽ không rời xa Chúa Giêsu. Trong cuộc đấu tranh vì công lý và sự thật, chúng ta phải luôn cảnh giác một chuyện là sự thật của chúng ta được rút ra từ Phúc âm chứ không từ một ý thức hệ nào.
Thứ ba, ngôn sứ thì cam kết phi bạo lực. Theo linh mục Dòng Tên Daniel Berrigan, một ngôn sứ luôn tìm cách bỏ khí giới của bản thân thay vì dùng vũ khí, để trở thành kẻ tội phạm bất lực ở thời mà quyền lực là tội phạm. Một ngôn sứ xem trọng lời Chúa Giêsu khi họ xin chúng ta, ai tát má này thì chìa má kia. Một ngôn sứ là hiện thân của cách sống theo chân lý cánh chung, trên thiên đàng sẽ không có súng ống.
Thứ tư, ngôn sứ ở phía tiếng nói Thiên Chúa, cho người nghèo và cho địa cầu. Bất kỳ việc giảng dạy hay hành động chính trị nào không đem lại điều tốt cho người nghèo thì không phải là Phúc âm của Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đến để đem tin mừng cho người nghèo, cho “cô nhi, góa phụ và khách lạ” (quy tắc trong Kinh thánh để xác định những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội). Mục sư Forbes đã nói câu nói lừng danh: ‘Không ai lên thiên đàng mà không có thư giới thiệu của người nghèo.’ Chúng ta không buộc phải tương ứng với Giáo hội.
Thứ năm, ngôn sứ không tiên đoán tương lai nhưng gọi tên hiện tại theo tầm nhìn của Thiên Chúa. Một ngôn sứ tìm hiểu xem ngón tay Thiên Chúa chỉ vào đâu trong cuộc sống hàng ngày, để cho thấy sự trung tín hay bất tín của chúng ta với Thiên Chúa, cũng như để cho thấy tương lai của chúng ta trong kế hoạch mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đó là thách thức của Chúa Giêsu khi Ngài bảo chúng ta hãy đọc dấu chỉ của thời đại.
Thứ sáu, ngôn sứ lên tiếng từ đức cậy. Ngôn sứ không dựa trên tầm nhìn và năng lực từ mơ tưởng hay tinh thần lạc quan, nhưng là từ đức cậy. Đức cậy kitô giáo không dựa trên tình hình thế giới hôm nay tốt hay xấu. Đức cậy kitô giáo dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, lời hứa được ứng nghiệm trong sự phục sinh của Chúa Giêsu, bảo đảm với chúng ta, chúng ta có thể phó mình cho đức mến, chân lý và công chính, kể cả khi thế giới giết chúng ta vì thế. Tảng đá chắn ngôi mộ rồi sẽ được lăn ra.
Thứ bảy, tâm hồn và chính nghĩa của ngôn sứ không bao giờ biệt lập. Chúa Giêsu quả quyết với chúng ta: trong nhà Ngài có nhiều chỗ. Tính ngôn sứ kitô giáo phải bảo đảm, không ai hay nhóm nào có thể biến Thiên Chúa thành thượng đế của riêng nhóm mình hay quốc gia mình. Thiên Chúa bình đẳng đối với tất cả mọi dân, mọi nước.
Cuối cùng, ngôn sứ không chỉ lên tiếng hay nói về bất công, mà còn có thể hành động và hành động một cách can trường, dù phải hy sinh mạng sống. Ngôn sứ là người khôn ngoan, những là người hành động, dù phải mất bạn bè, mất danh vọng, mất tự do hay thậm chí mất mạng sống. Một ngôn sứ có đủ tình yêu vị tha, hy vọng và can trường hành động, bất chấp tất cả. Một ngôn sứ không bao giờ cố tìm cách tử đạo, nhưng nếu phải, thì họ chấp nhận.
Tôi nghĩ điểm cuối cùng này là điểm thách thức nhất với các ngôn sứ “thầm lặng”. Những người minh triết không nổi tiếng, không dẫn đầu biểu tình, nhưng đó cũng chính là thách thức. Một ngôn sứ có thể phân định lúc nào bỏ tấm biểu ngữ xuống và lấy chậu nước cái khăn ra để rửa chân, lúc nào bỏ chậu nước cái khăn xuống để cầm tấm biểu ngữ giương lên.
Ronald Rolheiser,
J.B. Thái Hòa dịch
2023
THIÊN ĐÀNG HỎA NGỤC HAI BÊN
THIÊN ĐÀNG HỎA NGỤC HAI BÊN
Hỏi: Con nghe người ta nói là năm 1999 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng tuyên bố: Thiên đàng không ở trên chín tầng mây, hỏa ngục cũng không ở trong lòng đất. Nếu thế, không lẽ Đức Cố Giáo Hoàng đi ngược lại với Giáo lý Công giáo? Hơn nữa, còn mâu thuẫn với bí mật thứ nhất Fatima khi ba trẻ được Đức Mẹ cho thấy hỏa ngục dưới lòng đất?
Trả lời:
Câu hỏi này sẽ được trả lời theo hai bước. Thứ nhất, thay vì nghe “người ta nói”, chúng ta thử lục lại xem thật sự Đức Cố Giáo Hoàng đã nói gì. Tiếp đó, chúng ta sẽ cùng phân tích chính những điều Đức Cố Giáo Hoàng đã nói, để xem liệu có thật những điều Ngài nói đi ngược với Giáo lý Công giáo (GLCG) hay ngược với bí mật thứ nhất của Fatima không nhé!
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói gì?
Điều mà bạn “nghe người ta nói” có vẻ như có liên hệ đến hai bài nói chuyện của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong buổi tiếp kiến khách hành hương tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào hai ngày thứ Tư cuối tháng 7 năm 1999. Đức Cố Giáo Hoàng đã dựa trên nền tảng Kinh Thánh và các suy tư thần học để quảng diễn về ý nghĩa của thiên đàng và hoả ngục. Có thể tìm đọc hai bài này ở trang web chính thức của Vatican.
Đây là tựa đề của bài nói chuyện ngày 21 tháng 7: John Paul II, General Audience, link[1]. Có thể tạm tóm lược điều ngài nói như sau:
Được làm người, con người nào cũng có một cùng đích tối hậu là được thông hiệp trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự thông hiệp trọn vẹn này được gọi là “thiên đàng”. Tư tưởng này được Đức Cố Giáo Hoàng trích từ sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo: “Thiên đàng là cùng đích tối hậu và là thành toàn của khát vọng sâu thẳm nhất trong mọi trái tim con người, là tình trạng hạnh phúc tối cao và viên mãn” (GLCG, số 1024).
Đức Giáo Hoàng còn quãng diễn rằng: Theo dòng văn chương Kinh thánh, thiên đàng là một lối nói ẩn dụ để chỉ về “nơi” Thiên Chúa ngự. Nhưng nơi ấy không được hiểu theo nghĩa không gian địa lý. Ngài lại trích dẫn Giáo lý của Giáo hội Công giáo: “Thiên đàng là cộng đoàn của tất cả những ai hoàn toàn được tháp nhập trong Đức Kitô, được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô” (GLCG, số 1026).
Như thế, thiên đàng không phải là một khái niệm trừu tượng nay một nơi chốn địa lý nào đó trên chín tầng mây, nhưng là một mối tương quan sống động và cá vị với chính Ba Ngôi Thiên Chúa.
Còn đây là bài nói chuyện ngày 28 tháng 7: John Paul II, General Audience, link[2]. Có thể tạm tóm lược điều ngài nói như sau:
Hỏa ngục là nơi dành cho những người chủ ý từ khước tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, tự tách mình ra khỏi sự kết hiệp hạnh phúc với Ngài. Đây là điều mà Giáo hội gọi là “sự kết án đời đời”, là Hoả Ngục. Đức Cố Giáo Hoàng lại trích dẫn Giáo Lý của Giáo hội Công giáo: “Chết trong tình trạng còn mang tội trọng, lại từ chối hoán cải và từ chối chấp nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng nghĩa với việc tự do chọn xa cách Thiên Chúa mãi mãi. Tình trạng tự mình loại mình ra khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa như thế được gọi là hỏa ngục” (CLCG, số 1033). Như thế, hỏa ngục không phải là một hình phạt do Thiên Chúa áp đặt trên con người, nhưng là hậu quả tất yếu của lựa chọn tự do của con người khi phạm tội và tự cách ly mình khỏi Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi niềm vui và hạnh phúc.
Như vậy, hỏa ngục không phải là một nơi nào đó dưới lòng đất, nhưng là tình trạng của những người chọn lựa từ chối tình yêu và lòng thương xót của Chúa, thậm chí trong chính giây phút cuối cùng của đời mình.
Điều Đức Cố Giáo Hoàng nói có đi ngược với GLCG?
Bạn thấy đấy, trong cải hai bài nói chuyện, để quãng diễn về hình ảnh thiên đàng và Hoả Ngục, Đức Cố Giáo Hoàng đều dựa trên nền tảng Kinh thánh và những suy tư thần học. Đặc biệt, ngài minh nhiên trích dẫn GLCG. Vậy, nếu dựa vào chính điều Đức Cố Giáo Hoàng đã nói, liệu bạn có thể kết luận rằng ngài đi ngược với GLCG không?
Thiên đàng không ở trên chín tầng mây, theo nghĩa như là một nơi chốn địa lý cụ thể nào đó cách xa khỏi trần gian này. Ấy là một tuyên bố đúng đắn. Não trạng bình dân hay nghĩ về thiên đàng như một nơi chốn trên trời cao. Nhưng đó là lối nói ẩn dụ, chứ không thể hiểu theo nghĩa đen được. Có bao giờ bạn nghe nói về những thiên đàng tại thế không? Ấy là những thời khắc mà người ta được sống trong tâm trạng bình an, hoan lạc, hạnh phúc, chẳng hạn như khi người ta cảm nghiệm được sự kết hợp ngọt ngào với Thiên Chúa trong cử hành Thánh Lễ, được kết hợp với Chúa qua Bí tích Thánh Thể, cảm nghiệm được sự an ủi thiêng liêng của Ngài, cảm nghiệm được sự hiện diện gần gũi và thân mật của Ngài. Đó có thể chỉ là những giây phút ngắn ngủi. Nhưng trong những giây phút ấy, có thể nói rằng con người được cảm nếm thiên đàng tại thế rồi.
Cũng vậy, hỏa ngục dưới lòng đất cũng chỉ là một lối nói ẩn dụ dân gian. Sự phát triển của khoa học ngày nay cho thấy trong lòng đất làm gì có một nơi chốn gọi là Hoả Ngục. Thật ra, đâu cần phải xuống tận sâu lòng đất với những lò lửa cháy hừng hực thì mới gọi là hoả ngục. Trong cuộc sống thường ngày, đâu hiếm những trường hợp cuộc sống của người ta trở thành Hoả Ngục. Chẳng phải bạn vẫn từng nghe “cuộc sống như địa ngục” đấy sao? Đó không phải là một nơi chốn cụ thể, nhưng là một tình trạng, một cảnh huống bi thảm và đau khổ.
Cuối cùng, cần thấy rằng điều Đức Cố Giáo Hoàng nói hoàn toàn không có gì trái ngược với điều được gọi là “bí mật thứ nhất của Fatima”, như được kể lại trong nhật ký của nữ tu Lucia dos Santos. Để hiểu thấu đáo hơn về bí mật Fatima, có lẽ bạn nên đọc lại văn kiện chính thức của Giáo hội, với sự trích dẫn nguyên văn và bút tích của sơ Lucia dos Santos. Bạn có thể tìm đọc ở đây: The Message Of Fatima[3].
Theo đó, điều được gọi là “bí mật” thật ra là một thị kiến về Hoả Ngục. Sơ Lucia dos Santos đã viết lại trong nhật ký của mình kinh nghiệm về hỏa ngục bằng ngôn ngữ của thị kiến. Chúng ta biết rằng, những người có thị kiến là những người được cho thấy về những điều vốn vượt quá sức hiểu biết và khả năng diễn đạt của con người. Bởi thế, để diễn tả về thị kiến, những hình ảnh ẩn dụ dân gian thường được sử dụng. Sơ Lucia đã mô tả hình ảnh kinh sợ của hỏa ngục như là một biển lửa có vẻ như ở dưới lòng đất. Đây hoàn toàn không phải là một Mạc Khải về đức tin nhằm khẳng định rằng hỏa ngục là một nơi ở dưới lòng đất. Hình ảnh “biển lửa”, “có vẻ như ở dưới lòng đất”, “tiếng than khóc rên la”… là những hình ảnh ẩn dụ mà con người có thể hiểu được, để nói về những đau khổ khốn cùng không cách nào diễn đạt trọn vẹn của Hoả Ngục, tình trạng của những người tội nhân bị vĩnh viễn kết án xa rời Thiên Chúa. Hơn nữa, sứ điệp chính của thị kiến này cũng không chỉ dừng lại ở việc mô tả hỏa ngục mà là lời kêu gọi việc sùng kính Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, như là một sứ mạng cầu nguyện được gởi đến cho mọi người, nhằm xin ơn cứu rỗi cho những linh hồn đang khổ đau vì tình trạng bị lìa xa Thiên Chúa.
Thay lời kết
Trước khi kết thúc, chúng ta thử phân tích thêm một chút về cách đặt câu hỏi của bạn nhé.
Bạn khởi đầu câu hỏi của mình bằng cụm từ “con nghe người ta nói”. Đây là cách đặt câu hỏi thường thấy trong giới trẻ ngày nay. Chúng ta thường bắt đầu câu hỏi của mình bằng những thông tin “nghe người ta nói”. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông mở ra cho chúng ta một thế giới bao la. Thật tốt khi chúng ta chịu khó đọc, chịu khó lượm lặt thông tin về Giáo hội và về đức tin, chịu khó “nghe người ta nói”…
Nhưng bạn biết không, cái biết từ việc nghe người ta nói là một cái biết rất đại khái. Trong cuộc sống thường ngày, có nhiều điều chúng ta “nghe người ta nói”, nhưng đâu phải điều gì người ta nói cũng đều đúng, phải không? Một người cẩn trọng là người phải tìm cách kiểm chứng rõ ràng điều mình “nghe người ta nói”, trước khi đặt niềm tin vào đó và dựa vào đó để suy diễn thêm. Trong câu hỏi của mình, bạn đã không thật sự dựa vào điều Đức Giáo Hoàng nói, chỉ dựa vào điều “người ta nói” rằng Đức Cố Giáo Hoàng đã nói. Giả như “người ta” ở đây là những người có ác ý, muốn công kích Đức Cố Giáo Hoàng, thì sao nhỉ? Nếu người ta nói theo hướng cắt xén và lèo lái lời của ngài để tấn công ngài, thì sao nhỉ? Liệu có phải cái phản ứng của bạn cũng đang bị người ta lèo lái và định hướng không?
Như thế, cái lạ của bạn nằm ở chỗ này: khởi đi từ một điều “nghe người ta nói” chưa được kiểm chứng rõ ràng, bạn lại có xu hướng đi đến một kết luận đầy tính nghi nan: liệu Đức Cố Giáo Hoàng có đi ngược lại với Giáo lý Công giáo không? Nếu là một người được sinh ra trong lòng Giáo hội Công giáo, tại sao bạn lại chọn nghe và tin điều “người ta” xa lạ nào đó nói về điều Đức Giáo Hoàng đã nói, và phản ứng theo hướng đặt nghi nan về phía Đức Giáo Hoàng, là “người nhà” của mình? Đây là một điều dở, phải không? Nếu thật sự là một người tín hữu, mang trái tim của một người con trong Giáo hội, bạn vẫn có thể chọn đứng về phía Đức Giáo Hoàng để chất vấn ngược lại điều “người ta nói” mà, đúng không?
Chúc bạn tiếp tục phát huy nét đẹp của việc thích tìm tòi và học hỏi, nhằm đào sâu hiểu biết về Giáo hội và đức tin của mình. Đồng thời, chúc bạn luôn mang một trái tim tin tưởng và bình an của một người con trong Giáo hội.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)
Lm. Giuse Cao Gia An, S.J.
[1] http://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/en/audiences/1999/documents/hf_jp-ii_aud_21071999.html.
[2] http://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/en/audiences/1999/documents/hf_jp-ii_aud_28071999.html.
[3] Tiếng Việt: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/nguyen-van-bi-mat-fatima-phan-iii-va-loi-giai-thich-cua-giao-hoi-39579
Tiếng Anh: https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20000626_message-fatima_en.html
2023
TRUYỀN CHỨC, PHONG CHỨC LINH MỤC, TẤN PHONG GIÁM MỤC?
TRUYỀN CHỨC, PHONG CHỨC LINH MỤC, TẤN PHONG GIÁM MỤC?
Gần đây, xuất hiện vài bài viết, đặt vấn đề dùng từ: “truyền chức” hay “phong chức” linh mục; “truyền chức” hay “tấn phong” Giám mục?
Có bài cho rằng “Truyền chức linh mục mới là thuật từ đúng”, vì lý do:
“Truyền” là “cho kế thừa”, là “chuyển thông” cái bên trong của người này sang người khác.
“Truyền chức”: Chúa Giêsu là linh mục đời đời. Ngài thông truyền chức linh mục cho các tông đồ. Các tông đồ lại thông truyền cho các thế hệ kế thừa. Vì thế, khi Giám mục thông truyền chức linh mục cho các ứng viên thì gọi là “truyền chức linh mục”.[1]
Những bài viết này gây ảnh hưởng không ít, khiến cho từ ngữ “truyền chức” được sử dụng nhiều hơn, giảm đi việc sử dụng từ “phong chức” và “tấn phong”. Cụ thể, trong những lần tấn phong các Giám mục gần đây, chữ “tấn phong” đã bị tránh, thay bằng chữ “truyền chức”:
– “TGP Sài Gòn: Thánh lễ truyền chức Giám mục Giuse Bùi Công Trác ngày 3-1-2023”.[2]
– “Thánh lễ truyền chức giám mục cho Đức cha tân cử Phêrô Kiều Công Tùng”.[3]
– Thánh Lễ truyền chức giám mục cho Đức cha tân cử Phêrô Lê Tấn Lợi – Giám mục phó Giáo phận Cần Thơ”.[4]
Sacramentum ordinis: Bí tích phong chứcThật ra, những từ ngữ “truyền chức”, “phong chức”, “tấn phong” đã được sử dụng trong Giáo hội Việt nam và đã được dùng trong bản dịch Bộ Giáo luật 1983 của HĐGMVN, xin được luận bàn ở đây.
Sacramentum ordinis: Bí tích truyền chức thánh
Nếu dịch đúng đắn hơn, nên dịch là : Bí tích Phong chức thánh; Bí tích Ban chức thánh.
Vì sao vậy?
Sách GLHTCG, ngay phần dẫn nhập vào bí tích này, đã đặt vấn đề: “Tại sao gọi là Sacramentum ordinis?Sách này đã giải thích:
“ Vào thời cổ Roma, người ta dùng từ “Ordo” để chỉ những tập thể dân sự, nhất là tập thể lãnh đạo. “Ordinatio” chỉ việc được nhận vào tập thể đó. Trong Hội Thánh có những tập thể như vậy mà truyền thống phần nào dựa trên cơ sở kinh Thánh, ngay từ xưa gọi là Taxeis (Tiếng Hy lạp) hay “Ordines” (tiếng Latin). Chẳng hạn, Phụng vụ nói đến hàng Giám mục, hàng linh mục, hàng phó tế. Nhiều nhóm khác cũng được gọi là “Ordo”: Giới dự tòng, giới vợ chồng, giới góa bụa…” (GLHTCG, 1537).
[…] Ngày nay từ Ordinatio dành riêng cho việc cử hành dành riêng cho việc cử hành bí tích gia nhập hàng Giám mục, linh mục, phó tế”. Việc này có giá trị hơn việc cộng đoàn bầu cử, chỉ định, ủy nhiệm hay cắt cử, vì ban hồng ân Thánh Thần cho phép thi hành một “quyền thánh chức” (SGLCG 1538).[5]
Xét về mặt từ ngữ, Sacramentum ordinis có chữ Ordinis là genitive của danh từ ordo. Chữ ordo được tự điển Wordsense cho ý nghĩa (https://www.wordsense.eu/ordinis/):
- a methodical series, arrangement, or order; regular line, row, or series
- a class, station, condition, rank
- a group (of people) of the same class, caste, station, or rank (“senatorii ordinis”)
- (military) A rank or line of soldiers; band, troop, company
- (military) command, captaincy, generalship
Có thể giải thích:
Ordo, trước tiên, nói chung, có nghĩa là một hàng, một dãy, một thứ tự, thứ hạng, trật tự. Sau đó, về người, Ordo, chỉ một tầng lớp, đẳng cấp, địa vị, cấp bậc, tình trạng của người, của cá nhân hay nhóm người. Chẳng hạn, chũng ta vẫn thấy các tu sĩ, thuộc về một “dòng”, thuộc về một “ordo”: Ordo Sancti Benedicti (Benedictines), Ordo Servorum Mariae (Servites)… Sau cùng, Ordo cũng được dùng để chỉ cấp chỉ huy, lãnh đạo.
Rõ ràng là sách GLHTCG và cách hiểu của Tây phương (Tự điển) không hề nói đến ý niệm “truyền” hay “chuyển thông” chức vụ linh mục hay tư tế từ Đức Giêsu Kitô.
Do đó, Sacramentum ordinis, liên quan đến chức thánh, dịch cho đúng nghĩa: “Bí tích cho gia nhập vào hàng chức thánh”. Vì chức thánh cao trọng và có thể thi hành quyền lãnh đạo, nên dịch: “Bí tích Phong chức Thánh”, “Bí tích ban chức thánh”.
2. Sacramentum ordinis: “Bí tích Truyền chức thánh”, một phỏng dịch
Có lẽ để thuận tai, các bậc tiền bối Việt Nam đã chuyển dịch thành “Bí tích truyền chức thánh” và đã trở thành quen thuộc, được chấp nhận cách chính thức trong bản dịch Giáo luật Việt ngữ.
Tuy nhiên, vì Sacramentum ordinis gồm các chức: Giám mục, linh mục và phó tế (Can. 1009 – § 1. Ordines sunt episcopatus, presbyteratus et diaconatus), khi dịch: “Bí tích Truyền chức thánh”, thì bao hàm chức phó tế (diaconus) cũng được Chúa Kitô truyền lại. Nhưng trong thực tế Giáo hội ban đầu, các diaconus chỉ phục vụ giúp các Tông đồ, không được kể là phụ tế.
Vì vậy, nếu dịch “Bí tích Truyền chức thánh” và cho rằng Chúa Giêsu “truyền” hay “thông truyền” chức vụ “linh mục” hay “tư tế” của mình cho các Tông đồ thì ta phải loại trừ chức “phó tế” (diaconus) ra khỏi bí tích này.
1.4. Sacramentum ordinis: Bí tích ban/phong chức thánh
Như trên đã phân tích, Sacramentum ordinis có nghĩa là Bí tích cho gia nhập hàng chức thánh hoặc bí tích ban/phong chức thánh.
Nhìn vào xã hội, người ta “phong” ban chức tước, quan quyền, khiến có cái nhìn bài bác việc “phong” chức thánh. Thực ra, Chúa Giêsu đã đặt Thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh, đặt làm chủ chăn cho Giáo hội toàn cầu (x. Ga 21,15-19), ban cho Thánh Phêrô quyền chìa khóa cửa Nước Trời. Điều này cũng có nghĩa là Ngài đã “phong” ban cho Thánh Phêrô một chức vụ.
Một cách tương tự Ngài ban cho các Thánh Tông đồ và những người kế vị. Các chức thánh Giám mục, linh mục, phó tế là những chức vị được Thiên Chúa “ban” cho hay “phong” cho nhờ qua thẩm quyền Giáo hội.
Điều 1008 – Do Sacramento ordinis đã được Thiên Chúa thiết lập, một số Kitô hữu được đặt làm thừa tác viên có chức thánh, nhờ được ghi ấn tích không thể xoá nhoà, như thế họ được thánh hiến và được chỉ định, mỗi người tuỳ theo cấp bậc của mình, để chăn dắt đoàn dân Chúa, bằng cách chu toàn các nhiệm vụ giáo huấn, thánh hoá và lãnh đạo nhân danh Đức Kitô là đầu (LG 10 ; LG 11 ; LG 20 ; LG 27 ; PO 2 ; PO 5 ; PO 7 ; PO 12 ; PO 18 ; CIS 948 ; CIO 743).
2. Phong chức hay tấn phong Giám mục?
Điều 1009 cho thấy các chức thánh được phong ban, trao ban (conferuntur)
Điều 1009 – §1. Các chức thánh là chức Giám Mục, chức Linh Mục và chức phó tế (LG 28,29 ; PO 1).
- 2. Những chức ấy được trao ban bằng việc đặt tay và bằng việc đọc lời nguyện thánh hiến đã được các sách phụng vụ quy định cho mỗi cấp bậc
Can. 1009 – § 1. Ordines sunt episcopatus, presbyteratus et diaconatus.
- 2. Conferuntur manuum impositione et precatione consecratoria, quam pro singulis gradibus libri liturgici praescribunt.
2.1. Ordinare chức phó tế, linh mục
Trong việc phong ban các chức này, đối với chức phó tế, linh mục, Giáo luật dùng động từ Ordinare.
Động từ ordino được tự điển Wordsense (https://www.wordsense.eu/ordino/#Latin) cho nghĩa:
I arrange, put in order.
I rule, govern.
I ordain, appoint to office.
Ordinare, trong bộ Giáo luật Việt ngữ của HĐGMVN, đã được dịch là “phong chức” và “truyền chức”. Cả hai từ ngữ này được dùng một cách không phân biệt và tùy theo ngữ cảnh. Ngay cả trong một câu, để tránh sự lập đi lập lại cùng một từ ngữ, bản dịch Giáo luật hiện hành đã dùng cả hai từ ngữ này.
Điều 1022- Một khi đã nhận được thư giới thiệu chính thức, giám mục truyền chức (Episcopus ordinans) không được tiến hành việc phong chức (ordinationem), nếu không hoàn toàn chắc chắn về tính xác thực của thư ấy.
Điều 1383 – Giám Mục nào vi phạm quy định của điều 1015, phong chức cho một người thuộc quyền một Giám Mục khác mà không có thư giới thiệu (litteris dimissoriis ordinavit) hợp pháp, thì bị cấm truyền chức (ordinem) trong vòng một năm. Còn người được thụ phong thì tức khắc bị vạ huyền chức.
2.1. Consecrare in Episcopum: Tấn phong Giám mục
Tuy nhiên, Giáo luật lại dùng từ ngữ động từ Consecrare và thêm in Episcopum để chỉ việc phong chức Giám mục. Bản dịch hiện hành của HĐGMVN, đã dịch Consecrare in Episcopum là “Tấn phong Giám mục”.
Động từ “consecrare” có nghĩa là thánh hiến. Nếu dịch sát nghĩa cụm từ “Consecrare in Episcopum” thì phải dịch là “Thánh hiến trong chức Giám mục”. Các vị tiền bối, có lẽ thấy dịch sát nghĩa như vậy thì khó nghe, chuyển qua dùng từ “tấn phong” (consecrare), có vẻ trịnh trọng hơn từ ngữ “phong chức” (ordinare).
Ví dụ:
Điều 1013 – Không Giám Mục nào được phép tấn phong Giám Mục cho ai, nếu trước đó chưa có uỷ nhiệm thư của Đức Giáo Hoàng.
Can. 1013 – Nulli Episcopo licet quemquam consecrare in Episcopum, nisi prius constet de pontificio mandato.)
Điều 1012 – Thừa tác viên của bí tích truyền chức thánh là Giám Mục đã được tấn phong
Can. 1012 – Sacrae ordinationis minister est Episcopus consecratus.)
Kết luận
Trong việc dịch thuật, nhiều khi không thể dịch sát nghĩa, đành phải chuyển dịch và dựa vào một ý nghĩa nào đó để chọn một từ ngữ thích hợp. Từ ngữ này tuy thích hợp và quen dùng nhưng rõ ràng là có thể gây hiểu sai. Vì vậy, để hiểu cách chính xác, đôi khi cần phải nghiên cứu lại bản văn gốc Latin và theo ý nghĩa mà Giáo hội giải thích.
Đối với chức linh mục hay phó tế, tuy chữ phong chức hay truyền chức đã được quen dùng và đã được bản dịch Giáo luật Việt ngữ HĐGMVN sử dụng, nhưng để đúng hơn, là nên dùng chữ phong chức (ordinare). Đối với chức Giám mục, chữ “Tấn phong Giám mục” (Consecrare in Episcopum) đã được quen dùng, nói lên được tính cao cả, thánh hiến, của chức Giám mục. Nó cũng đã được bản dịch Giáo luật Việt ngữ HĐGMVN sử dụng cách chính thức. Do Giáo hội đã dùng cách phân biệt Ordinare (phó tế và linh mục) và Consecrare in Episcopum (Giám mục), chúng ta không nên dùng từ ngữ “Phong chức Giám mục” hoặc “Truyền chức Giám mục”, một cách không phân biệt trong việc trao ban chức linh mục và phó tế.
[1] X. https://gpcantho.com/moi-tuan-mot-tu-ngu-phong-chuc-hay-truyen-chuc/.
[2] (https://tgpsaigon.net/bai-viet/tgp-sai-gon-thanh-le-truyen-chuc-giam-muc-giuse-bui-cong-trac-ngay-3-1-2023-67909)
[3] https://tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-le-truyen-chuc-giam-muc-cho-duc-cha-tan-cu-phero-kieu-cong-tung-68785
[4] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thanh-le-truyen-chuc-giam-muc-cho-duc-cha-tan-cu-phero-le-tan-loi-50870
[5] Bản dịch tiếng Việt hiện hành lại tự ý viết thêm một câu vào cuối đoạn 1538 của sách GLHTCG: “Theo nghĩa này, tiếng Việt gọi là bí tích Truyền chức”. Tự ý viết thêm như vậy là trái phép. Người dịch chỉ có thể ghi chú, chứ không được thêm thắt. Lm. J.B. Lê Ngọc Dũng