2023
TRUYỀN CHỨC, PHONG CHỨC LINH MỤC, TẤN PHONG GIÁM MỤC?
TRUYỀN CHỨC, PHONG CHỨC LINH MỤC, TẤN PHONG GIÁM MỤC?
Gần đây, xuất hiện vài bài viết, đặt vấn đề dùng từ: “truyền chức” hay “phong chức” linh mục; “truyền chức” hay “tấn phong” Giám mục?
Có bài cho rằng “Truyền chức linh mục mới là thuật từ đúng”, vì lý do:
“Truyền” là “cho kế thừa”, là “chuyển thông” cái bên trong của người này sang người khác.
“Truyền chức”: Chúa Giêsu là linh mục đời đời. Ngài thông truyền chức linh mục cho các tông đồ. Các tông đồ lại thông truyền cho các thế hệ kế thừa. Vì thế, khi Giám mục thông truyền chức linh mục cho các ứng viên thì gọi là “truyền chức linh mục”.[1]
Những bài viết này gây ảnh hưởng không ít, khiến cho từ ngữ “truyền chức” được sử dụng nhiều hơn, giảm đi việc sử dụng từ “phong chức” và “tấn phong”. Cụ thể, trong những lần tấn phong các Giám mục gần đây, chữ “tấn phong” đã bị tránh, thay bằng chữ “truyền chức”:
– “TGP Sài Gòn: Thánh lễ truyền chức Giám mục Giuse Bùi Công Trác ngày 3-1-2023”.[2]
– “Thánh lễ truyền chức giám mục cho Đức cha tân cử Phêrô Kiều Công Tùng”.[3]
– Thánh Lễ truyền chức giám mục cho Đức cha tân cử Phêrô Lê Tấn Lợi – Giám mục phó Giáo phận Cần Thơ”.[4]
Sacramentum ordinis: Bí tích phong chứcThật ra, những từ ngữ “truyền chức”, “phong chức”, “tấn phong” đã được sử dụng trong Giáo hội Việt nam và đã được dùng trong bản dịch Bộ Giáo luật 1983 của HĐGMVN, xin được luận bàn ở đây.
Sacramentum ordinis: Bí tích truyền chức thánh
Nếu dịch đúng đắn hơn, nên dịch là : Bí tích Phong chức thánh; Bí tích Ban chức thánh.
Vì sao vậy?
Sách GLHTCG, ngay phần dẫn nhập vào bí tích này, đã đặt vấn đề: “Tại sao gọi là Sacramentum ordinis?Sách này đã giải thích:
“ Vào thời cổ Roma, người ta dùng từ “Ordo” để chỉ những tập thể dân sự, nhất là tập thể lãnh đạo. “Ordinatio” chỉ việc được nhận vào tập thể đó. Trong Hội Thánh có những tập thể như vậy mà truyền thống phần nào dựa trên cơ sở kinh Thánh, ngay từ xưa gọi là Taxeis (Tiếng Hy lạp) hay “Ordines” (tiếng Latin). Chẳng hạn, Phụng vụ nói đến hàng Giám mục, hàng linh mục, hàng phó tế. Nhiều nhóm khác cũng được gọi là “Ordo”: Giới dự tòng, giới vợ chồng, giới góa bụa…” (GLHTCG, 1537).
[…] Ngày nay từ Ordinatio dành riêng cho việc cử hành dành riêng cho việc cử hành bí tích gia nhập hàng Giám mục, linh mục, phó tế”. Việc này có giá trị hơn việc cộng đoàn bầu cử, chỉ định, ủy nhiệm hay cắt cử, vì ban hồng ân Thánh Thần cho phép thi hành một “quyền thánh chức” (SGLCG 1538).[5]
Xét về mặt từ ngữ, Sacramentum ordinis có chữ Ordinis là genitive của danh từ ordo. Chữ ordo được tự điển Wordsense cho ý nghĩa (https://www.wordsense.eu/ordinis/):
- a methodical series, arrangement, or order; regular line, row, or series
- a class, station, condition, rank
- a group (of people) of the same class, caste, station, or rank (“senatorii ordinis”)
- (military) A rank or line of soldiers; band, troop, company
- (military) command, captaincy, generalship
Có thể giải thích:
Ordo, trước tiên, nói chung, có nghĩa là một hàng, một dãy, một thứ tự, thứ hạng, trật tự. Sau đó, về người, Ordo, chỉ một tầng lớp, đẳng cấp, địa vị, cấp bậc, tình trạng của người, của cá nhân hay nhóm người. Chẳng hạn, chũng ta vẫn thấy các tu sĩ, thuộc về một “dòng”, thuộc về một “ordo”: Ordo Sancti Benedicti (Benedictines), Ordo Servorum Mariae (Servites)… Sau cùng, Ordo cũng được dùng để chỉ cấp chỉ huy, lãnh đạo.
Rõ ràng là sách GLHTCG và cách hiểu của Tây phương (Tự điển) không hề nói đến ý niệm “truyền” hay “chuyển thông” chức vụ linh mục hay tư tế từ Đức Giêsu Kitô.
Do đó, Sacramentum ordinis, liên quan đến chức thánh, dịch cho đúng nghĩa: “Bí tích cho gia nhập vào hàng chức thánh”. Vì chức thánh cao trọng và có thể thi hành quyền lãnh đạo, nên dịch: “Bí tích Phong chức Thánh”, “Bí tích ban chức thánh”.
2. Sacramentum ordinis: “Bí tích Truyền chức thánh”, một phỏng dịch
Có lẽ để thuận tai, các bậc tiền bối Việt Nam đã chuyển dịch thành “Bí tích truyền chức thánh” và đã trở thành quen thuộc, được chấp nhận cách chính thức trong bản dịch Giáo luật Việt ngữ.
Tuy nhiên, vì Sacramentum ordinis gồm các chức: Giám mục, linh mục và phó tế (Can. 1009 – § 1. Ordines sunt episcopatus, presbyteratus et diaconatus), khi dịch: “Bí tích Truyền chức thánh”, thì bao hàm chức phó tế (diaconus) cũng được Chúa Kitô truyền lại. Nhưng trong thực tế Giáo hội ban đầu, các diaconus chỉ phục vụ giúp các Tông đồ, không được kể là phụ tế.
Vì vậy, nếu dịch “Bí tích Truyền chức thánh” và cho rằng Chúa Giêsu “truyền” hay “thông truyền” chức vụ “linh mục” hay “tư tế” của mình cho các Tông đồ thì ta phải loại trừ chức “phó tế” (diaconus) ra khỏi bí tích này.
1.4. Sacramentum ordinis: Bí tích ban/phong chức thánh
Như trên đã phân tích, Sacramentum ordinis có nghĩa là Bí tích cho gia nhập hàng chức thánh hoặc bí tích ban/phong chức thánh.
Nhìn vào xã hội, người ta “phong” ban chức tước, quan quyền, khiến có cái nhìn bài bác việc “phong” chức thánh. Thực ra, Chúa Giêsu đã đặt Thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh, đặt làm chủ chăn cho Giáo hội toàn cầu (x. Ga 21,15-19), ban cho Thánh Phêrô quyền chìa khóa cửa Nước Trời. Điều này cũng có nghĩa là Ngài đã “phong” ban cho Thánh Phêrô một chức vụ.
Một cách tương tự Ngài ban cho các Thánh Tông đồ và những người kế vị. Các chức thánh Giám mục, linh mục, phó tế là những chức vị được Thiên Chúa “ban” cho hay “phong” cho nhờ qua thẩm quyền Giáo hội.
Điều 1008 – Do Sacramento ordinis đã được Thiên Chúa thiết lập, một số Kitô hữu được đặt làm thừa tác viên có chức thánh, nhờ được ghi ấn tích không thể xoá nhoà, như thế họ được thánh hiến và được chỉ định, mỗi người tuỳ theo cấp bậc của mình, để chăn dắt đoàn dân Chúa, bằng cách chu toàn các nhiệm vụ giáo huấn, thánh hoá và lãnh đạo nhân danh Đức Kitô là đầu (LG 10 ; LG 11 ; LG 20 ; LG 27 ; PO 2 ; PO 5 ; PO 7 ; PO 12 ; PO 18 ; CIS 948 ; CIO 743).
2. Phong chức hay tấn phong Giám mục?
Điều 1009 cho thấy các chức thánh được phong ban, trao ban (conferuntur)
Điều 1009 – §1. Các chức thánh là chức Giám Mục, chức Linh Mục và chức phó tế (LG 28,29 ; PO 1).
- 2. Những chức ấy được trao ban bằng việc đặt tay và bằng việc đọc lời nguyện thánh hiến đã được các sách phụng vụ quy định cho mỗi cấp bậc
Can. 1009 – § 1. Ordines sunt episcopatus, presbyteratus et diaconatus.
- 2. Conferuntur manuum impositione et precatione consecratoria, quam pro singulis gradibus libri liturgici praescribunt.
2.1. Ordinare chức phó tế, linh mục
Trong việc phong ban các chức này, đối với chức phó tế, linh mục, Giáo luật dùng động từ Ordinare.
Động từ ordino được tự điển Wordsense (https://www.wordsense.eu/ordino/#Latin) cho nghĩa:
I arrange, put in order.
I rule, govern.
I ordain, appoint to office.
Ordinare, trong bộ Giáo luật Việt ngữ của HĐGMVN, đã được dịch là “phong chức” và “truyền chức”. Cả hai từ ngữ này được dùng một cách không phân biệt và tùy theo ngữ cảnh. Ngay cả trong một câu, để tránh sự lập đi lập lại cùng một từ ngữ, bản dịch Giáo luật hiện hành đã dùng cả hai từ ngữ này.
Điều 1022- Một khi đã nhận được thư giới thiệu chính thức, giám mục truyền chức (Episcopus ordinans) không được tiến hành việc phong chức (ordinationem), nếu không hoàn toàn chắc chắn về tính xác thực của thư ấy.
Điều 1383 – Giám Mục nào vi phạm quy định của điều 1015, phong chức cho một người thuộc quyền một Giám Mục khác mà không có thư giới thiệu (litteris dimissoriis ordinavit) hợp pháp, thì bị cấm truyền chức (ordinem) trong vòng một năm. Còn người được thụ phong thì tức khắc bị vạ huyền chức.
2.1. Consecrare in Episcopum: Tấn phong Giám mục
Tuy nhiên, Giáo luật lại dùng từ ngữ động từ Consecrare và thêm in Episcopum để chỉ việc phong chức Giám mục. Bản dịch hiện hành của HĐGMVN, đã dịch Consecrare in Episcopum là “Tấn phong Giám mục”.
Động từ “consecrare” có nghĩa là thánh hiến. Nếu dịch sát nghĩa cụm từ “Consecrare in Episcopum” thì phải dịch là “Thánh hiến trong chức Giám mục”. Các vị tiền bối, có lẽ thấy dịch sát nghĩa như vậy thì khó nghe, chuyển qua dùng từ “tấn phong” (consecrare), có vẻ trịnh trọng hơn từ ngữ “phong chức” (ordinare).
Ví dụ:
Điều 1013 – Không Giám Mục nào được phép tấn phong Giám Mục cho ai, nếu trước đó chưa có uỷ nhiệm thư của Đức Giáo Hoàng.
Can. 1013 – Nulli Episcopo licet quemquam consecrare in Episcopum, nisi prius constet de pontificio mandato.)
Điều 1012 – Thừa tác viên của bí tích truyền chức thánh là Giám Mục đã được tấn phong
Can. 1012 – Sacrae ordinationis minister est Episcopus consecratus.)
Kết luận
Trong việc dịch thuật, nhiều khi không thể dịch sát nghĩa, đành phải chuyển dịch và dựa vào một ý nghĩa nào đó để chọn một từ ngữ thích hợp. Từ ngữ này tuy thích hợp và quen dùng nhưng rõ ràng là có thể gây hiểu sai. Vì vậy, để hiểu cách chính xác, đôi khi cần phải nghiên cứu lại bản văn gốc Latin và theo ý nghĩa mà Giáo hội giải thích.
Đối với chức linh mục hay phó tế, tuy chữ phong chức hay truyền chức đã được quen dùng và đã được bản dịch Giáo luật Việt ngữ HĐGMVN sử dụng, nhưng để đúng hơn, là nên dùng chữ phong chức (ordinare). Đối với chức Giám mục, chữ “Tấn phong Giám mục” (Consecrare in Episcopum) đã được quen dùng, nói lên được tính cao cả, thánh hiến, của chức Giám mục. Nó cũng đã được bản dịch Giáo luật Việt ngữ HĐGMVN sử dụng cách chính thức. Do Giáo hội đã dùng cách phân biệt Ordinare (phó tế và linh mục) và Consecrare in Episcopum (Giám mục), chúng ta không nên dùng từ ngữ “Phong chức Giám mục” hoặc “Truyền chức Giám mục”, một cách không phân biệt trong việc trao ban chức linh mục và phó tế.
[1] X. https://gpcantho.com/moi-tuan-mot-tu-ngu-phong-chuc-hay-truyen-chuc/.
[2] (https://tgpsaigon.net/bai-viet/tgp-sai-gon-thanh-le-truyen-chuc-giam-muc-giuse-bui-cong-trac-ngay-3-1-2023-67909)
[3] https://tgpsaigon.net/bai-viet/thanh-le-truyen-chuc-giam-muc-cho-duc-cha-tan-cu-phero-kieu-cong-tung-68785
[4] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thanh-le-truyen-chuc-giam-muc-cho-duc-cha-tan-cu-phero-le-tan-loi-50870
[5] Bản dịch tiếng Việt hiện hành lại tự ý viết thêm một câu vào cuối đoạn 1538 của sách GLHTCG: “Theo nghĩa này, tiếng Việt gọi là bí tích Truyền chức”. Tự ý viết thêm như vậy là trái phép. Người dịch chỉ có thể ghi chú, chứ không được thêm thắt. Lm. J.B. Lê Ngọc Dũng
2023
Đâu là vai trò của một Hồng Y?
Đâu là vai trò của một Hồng Y?
Nếu vai trò của họ trong mật nghị bầu Giáo hoàng được nhiều người biết đến, thì những sứ mạng khác của các Hồng y ít được biết đến hơn. Đâu là những chức năng của 116 Hồng y hiện tại, vốn sẽ có thêm 21 tân Hồng y vào ngày 30/9/2023 ?
« Hãy nhận lấy mũ đỏ như dấu hiệu phẩm giá của bậc hồng y, cho thấy hiền đệ sẵn sàng hành động cách can đảm, đến chỗ đổ máu, vì sự tăng trưởng của đức tin Kitô giáo, vì hòa bình và sự hài hòa của dân Thiên Chúa và vì sự tự do và phát triển của Hội Thánh Rôma. » Chính bằng những lời này mà Đức Thánh Cha tấn phong một Hồng y.
« Nơi xuất thân của các ngài diễn tả tính phổ quát của Giáo hội, vốn tiếp tục loan báo tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho tất cả mọi người trên Trái đất », Đức Thánh Cha đã tuyên bố như thế vào ngày 9/7/2023, tại quảng trường thánh Phêrô, khi thông báo việc tấn phong 21 tân Hồng y.
Nguồn gốc của từ « Hồng y » (Cardinal) xuất phát từ tính từ tiếng Latinh « cardinalis », và chính từ này bắt nguồn từ từ « cardo », có nghĩa là « cột trụ » : vào những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, người ta chỉ như thế các giáo sĩ gắn bó với một giáo xứ hay một tác vụ phục vụ, một thuật ngữ vẫn còn để chỉ hàng giáo sĩ của giáo phận Rôma mà thôi.
Do đó, sứ mạng đầu tiên của một Hồng y là rõ ràng : nó được thẻ hiện qua phẩm phục màu đỏ đặc trưng của ngài : dâng hiến cuộc sống mình cho Tin Mừng, dù phải trả giá bằng mạng sống. Sứ mạng của các ngài không chỉ giới hạn trong sự dấn thân này vì Giáo hội.
Trước hết, sứ mạng chính của các Hồng y là đại diện cho cộng đồng Công giáo Rôma mà Đức Thánh Cha là Giám mục. Vì thế, các ngài được chia thành ba phẩm trật : phó tế, linh mục và giám mục. Mỗi Hồng y được chỉ định một nhà thờ hiệu tòa trong giáo phận Rôma. Đức Phanxicô, khi thông báo tấn phong các tân Hồng y vào ngày 9/7, đã nhấn mạnh : « Việc bổ nhiệm các tân Hồng y vào Giáo phận Rôma biểu lộ mối liên hệ không thể tách rời giữa ngai tòa Phêrô và các Giáo hội địa phương trên khắp thế giới. »
Trợ giúp Đức Thánh Cha trong sứ mạng của ngài
Như Đức Thánh Cha giải thích trong Hội nghị tấn phong Hồng y, « chúng ta sẽ kêu gọi một số anh em của chúng ta gia nhập Hồng y đoàn, để họ kết hợp với Ngai Tòa Phêrô bằng một mối liên hệ chặt chẽ hơn với sứ vụ tông đồ của chúng ta ». Nói cách khác, các Hồng y được mời gọi trở thành những cộng tác viên đầu tiên của Đức Thánh Cha. Bộ Giáo luật 1983 cho thấy ý nghĩa này : « Các Hồng y cũng trợ giúp Đức Thánh Cha bằng hành động mang tính hiệp đoàn khi các ngài được triệu tập để cùng bàn luận những vấn đề quan trọng, hoặc với tính cách cá nhân bằng cách giúp Đức Giáo hoàng Rôma qua những nhiệm vụ khác nhau mà các ngài đang đảm nhận, nhất là qua việc chăm lo hằng ngày cho Giáo hội phổ quát » (điều 349).
Sứ mạng này được tuân giữ đặc biệt ở cấp Giáo triều Rôma. Quả thế, một số vị trí – ít nhất là trên lý thuyết – tự động được gắn liền với chức Hồng y. Chẳng hạn, đó là trường hợp đối với Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Tổng trưởng của các Bộ. Các Hồng y khác trên thế giới cũng thực thi chức năng nay bằng cách trợ giúp cho công việc của các Bộ mà Đức Thánh Cha đã chỉ định các ngài làm thànhviên hay cố vấn.
Các Hồng y cử tri hay không
Ngoài ra, các Hồng y có thể « đại diện trong một buổi cử hành long trọng hay trong một hội nghị với tư cách là đặc sứ của Đức Giáo hoàng, tức là như một bản ngã khác của ngài ». Đó là trường hợp của ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã dẫn đầu phái đoàn Vatican ở hội nghị thượng đỉnh COP26 vào tháng 9/2021 ở Glasgow (Scotland).
Tất cả các Hồng y có thể thực hiện tất cả các sứ mạng này. Nhưng có một sứ mạng khác, có lẽ là quan trọng nhất, liên quan đến những vị dưới 80 tuổi : sứ mạng tham gia và bỏ phiếu trong mật viện bầu tân Giáo hoàng.
Quy định này là tương đối gần đây, vì nó chỉ được đưa ra vào năm 1970 bởi Đức Phaolô VI. Ngài giải thích trong Tự sắc « Ingravescentem aetatem » : « Đối với chúng ta, dường như thiện ích vượt trỗi của Giáo hội đòi hỏi phải tính đến vấn đề tuổi già ».
Vào thời điểm đó, quyết định này đã được các Hồng y trên 80 tuổi chấp nhận rất khó khăn. Cần lưu ý rằng một Hồng y đạt tới độ tuổi này trong thời gian mật viện có thể ở lại và tiếp tục bỏ phiếu cho đến khi có kết quả.
Được Đức Thánh Cha chọn, các Hồng y vẫn hoàn toàn thuộc quyền quyết định của ngài : ngài có thể yêu cầu các ngài từ bỏ tước vị hoặc các đặc quyền của các ngài.
Ai có thể trở thành Hồng y ?
Trong một thời gian dài, mặc dù đại đa số được tấn phong từ các linh mục, nhưng mọi người nam đều có thể được phong Hồng y. Vị Hồng y giáo dân cuối cùng là Teodolfo Mertel người Ý (1806-1899), người đã thực thi một số chức năng trong Giáo triều Rôma và tương đương với bộ trưởng Bộ Tư pháp của các Nhà nước Giáo hoàng cho đến khi ông được phong Hồng y vào tháng 3/1858 bởi Đức Piô IX. Ông được phong chức Phó tế một vài tuần sau khi được phong Hồng y, nhưng chưa bao giờ là linh mục. Từ năm 1917, việc thụ phong linh mục được đòi hỏi. Thông thường, các Hồng y thậm chí phải là Giám mục và một số do đó nhận được cấp bậc thứ ba của phẩm trật một ngày trước khi họ được tấn phong Hồng y.
Đức Thánh Cha cũng có thể chọn (đặc biệt để bảo vệ người được phong Hồng y khi ngài đến từ một nước nơi Giáo hội bị bách hại) tấn phong một Hồng y « in pectore » (trong tâm hồn của mình), nghĩa là giữ bí mật tên của vị đó. Khi tên của vị đó được công khai, vị Hồng y này sẽ tìm thấy chỗ đứng của mình trong Hồng y đoàn kể từ ngày được giữ trước (reservatio). Nhưng có thể xảy ra trường hợp Đức Giáo hoàng qua đời mà tên của vị được chọn không được biết đến, kể các chính vị đó (điều này đã xảy đến đối với vị Hồng y được phong « in pectore » vào năm 2003 bởi Đức Gioan-Phaolô II).
Hồng y đoàn là gì ?
Hồng y đoàn thường được coi như « Thượng viện của Giáo hội ». Trên thực tế, các Hồng y trước hết có sứ mạng tư vấn cho Đức Thánh Cha trong vai trò điều hành Giáo hội hoàn vũ. Một sứ mạng mà các Hồng y đảm nhận từ rất sớm : từ thế kỷ IV, hàng giáo sĩ Rôma đã được gắn liền với các quyết định của Giám mục Rôma, đặc biệt khi ngài được thỉnh cầu quyết định các vấn đề do các Giám mục khác đệ trình. Do đó, các Đức Giáo hoàng đã có thói quen tập hợp các linh mục và phó tế của Rôma lại với nhau trong một hội nghị (xuất phát từ consistorium, vốn chỉ hội đồng của các hoàng đế Rôma).
Với Đức Urbanô II (1088-1099), hội nghị này, lúc đó chỉ quy tụ các Hồng y – linh mục, vượt lên trên Công nghị của giáo phận Rôma và trở thành nơi quyết định thực sự. Chính từ đó mà chúng ta có thể nói về Hồng y đoàn với tư cách là một cơ quan thực sự được tạo nên. Nó được tổ chức dần dần : vào năm 1245, ở công đồng Lyon, các Hồng y được phép đội mũ (bị xóa bỏ vào năm 1969) trong khi vào năm 1291, Đức Boniface VIII ban cho các ngài chiếc áo soutane màu đỏ. Cuối cùng, vào năm 1464, các ngài được đặc ân đội mũ barrette, dấu hiệu đặc biệt của các tiến sĩ thần học.
Với cuộc cải cách to lớn của Đức Sixtô V, vào năm 1588, và việc thành lập ở Giáo triều các bộ khác nhau do một Hồng y – Tổng trưởng đứng đầu, các Hồng y xuất hiện như những cộng tác viên cá nhân của Đức Thánh Cha nhiều hơn, hội nghị Hồng y quy tụ định theo giai đoạn hơn và được dành riêng cho các dịp đặc biệt. Phải đợi đến Đức Gioan-Phaolô II, rồi Đức Bênêđíctô XVI, để thấy vai trò của hội nghị Hồng y khôi phục giá trị thông qua các cuộc họp khoáng đại của Hồng y đoàn dành cho những vấn đề quan trọng mà Đức Thánh Cha muốn lấy ý kiến của các Hồng y. Đó là trường hợp vào năm 2022, khi Đức Phanxicô mời các ngài tham dự hai ngày suy tư về Tông hiến về việc cải cách Giáo triều, Praedicate Evangelium, được công bố vào ngày 19/3/2022.
Hồng y đoàn bao gồm ba phẩm trật : giám mục, linh mục và phó tế. Được chủ trì bởi một « niên trưởng » mà không phải là người lớn tuối nhất trong các Hồng y, nhưng là một trong các Hồng y – giám mục, được chọn bởi các đồng sự của mình rồi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm (hiện nay là Đức Hồng y Giovanni Battista Re, người Ý) và được hỗ trợ bởi một phó niên trưởng (hiện nay là ĐHY Leonardo Sandri, người Argentina). Các Hồng y lớn tuổi nhất của mỗi phẩm trật (Hồng y trưởng đẳng linh mục và Hồng y trưởng đẳng phó tế) cũng có những trách vụ đặc biệt : chẳng hạn, chính Đức Hồng y trưởng đẳng phó tế công bố tên của Đức tân Giáo hoàng.
Tý Linh
(theo nhật báo La Croix)
2023
Ta muốn lòng nhân
21.7 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Lăm Mùa Quanh Năm
Xh 11:10; Xh 12:14; Tv 116:12-13,15-16,17-18; Mt 12:1-8
Ta muốn lòng nhân
Ta thấy người biệt phái trách môn đệ Chúa Giêsu không giữ ngày hưu lễ, vì bứt gié lúa để ăn lúc đói. Người biệt phải chỉ xét trên mặt chữ của bản luật, mà không nhìn thấy nhu cầu của anh em mình. Luật được Thiên Chúa ban hành không phải để gò ép, nhưng là để thăng tiến con người, giúp con người đi trên con đường ngay thẳng. Vì thế, phục vụ con người đúng lý, đúng cách là thi hành luật trọn hảo nhất. Do đó, Chúa Giêsu đã nói với người biệt phái: “Ta chuộng nhân nghĩa chứ không phải lễ tế”.
Và ta thây bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ nhị luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ Sabat, thuộc giới răn thứ 3 trong Thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thật vậy, khi ban bố Lề Luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần già, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả những chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ – luật sĩ – biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ; còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ
Chương 12 Tin Mừng Mátthêu qui tụ những tranh luận giữa Chúa Giêsu và các vị lãnh đạo Do thái giáo thời Chúa Giêsu về những đặc tính của nếp sống tôn giáo. Cuộc tranh luận hôm nay liên quan đến việc thực hành đạo đức căn bản của người Do thái, đó là việc giữ ngày Hưu lễ. Ðây là một thực hành quan trọng đến độ người Biệt Phái đã dùng việc Chúa Giêsu không tuân giữ luật Hưu lễ để lý luận và nói với dân chúng rằng Chúa Giêsu không phải là Ðấng đến từ Thiên Chúa, không phải là Ðấng Mêsia.
Việc dành riêng một ngày nghỉ cho Thiên Chúa đã bị lạm dụng đến mức việc tuân giữ ngày Hưu lễ không còn là do tình yêu mến tôn thờ đối với Thiên Chúa, nhưng là một hình thức ràng buộc con người. Qua cuộc tranh luận với những người Biệt Phái về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu mở rộng cho chúng ta thấy giá trị tôn giáo đích thực của ngày Hưu lễ, và do đó phải sống tinh thần ngày Hưu lễ đó như thế nào?
Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng nơi Tin Mừng Mátthêu, tác giả lưu ý hai điểm: thứ nhất, quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức; thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức. Trả lời cho thắc mắc của những người Biệt Phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xẩy ra trong Cựu Ước liên quan đến Ðavít và những người tùy tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm, hoặc việc các tư tế trong Ðền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội”. Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em theo những việc bên ngoài.
Vả lại, những việc đạo đức và việc nghỉ ngày Hưu lễ, là để con người đến gần Thiên Chúa, thế mà Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã hiện diện giữa họ, thì lòng đạo đức không còn là một cái gì tuyệt đối phải thi hành nữa. Các tư tế làm việc trong Ðền thờ ngày Hưu lễ mà không lỗi luật, thì các môn đệ Chúa Giêsu lỗi luật thế nào được, vì đã có Chúa Giêsu bên cạnh họ. Ngài là Con Thiên Chúa cao trọng hơn Ðền thờ. Chúa Giêsu muốn nhân dịp này để mạc khải chính Ngài là Ðấng Mêsia cao trọng hơn Ðền thờ và làm chủ cả ngày Hưu lễ; nhưng các người Biệt Phái không nhìn nhận điều này.
Hôm nay, trước cảnh các môn đệ Chúa Giêsu đói bụng, bứt mấy bông lúa vò nát để ăn, nhân cơ hội này người biệt phái bắt bẻ Chúa Giêsu về luật sabát, bởi vì:
Người Biệt phái chú tâm đến hình thức của luật đến nỗi quên đi bản chất của luật là bác ái yêu thương, họ sẵn sàng để người khác đói khát chứ không thà lỗi luật. Luật là cứu sống chứ không phải giết chết.- Họ vốn chủ trương là hassidim, nghĩa là giữ luật cách khắt khe, nên khi bắt bẻ Chúa Giêsu là ngầm ý đề cao mình và che giấu sự giả hình của mình.
Họ xem luật như cứu cánh và bắt buộc Thiên Chúa phải theo ý họ mà thưởng công cho họ. Trong khi luật chỉ là dẫn đường, còn cùng đích phải là Thiên Chúa.
Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu đều được trình thuật đầy đủ trong các Tin mừng Nhất lãm, nhưng nơi Tin mừng Matthêu, tác giả lưu ý hai điểm:
Thứ nhất , quyền hành của Chúa Giêsu trên các việc thực hành đạo đức.
Thứ hai, lòng nhân từ có ưu tiên trên việc thực hành đạo đức.
Trả lời cho thắc mắc của những người biệt phái tại sao các môn đệ Ngài không giữ luật Hưu lễ, Chúa Giêsu nhắc lại việc xảy ra trong Cựu ước liên quan đến Đavít và những người tuỳ tùng khi đói, tức khi khẩn thiết, đã làm điều không được phép làm; hoặc việc các tư tế trong Đền thờ không nghỉ ngày Hưu lễ mà cũng không mắc tội. Rồi Chúa kết luận: ”Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: ‘Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông sẽ chẳng lên án kẻ vô tội”. Lòng nhân từ phải là căn bản cho những phán đoán của chúng ta đối với anh em; cần phải hành xử theo lòng nhân từ này hơn là chỉ xét đoán anh em những việc bên ngoài
Lề luật tối thượng là lòng “nhân hậu”. Để bảo vệ con người cần phải có luật lệ. Để xã hội tiến triển trật tự cần phải có luật lệ. Nhưng nếu những luật lệ đó trở thành bất nhân, không bảo vệ con người, không đem lại hạnh phúc cho con người, cần phải phá bỏ. Thờ phượng Chúa là điều phải làm. Nhưng nếu vì lề luật mà bất nhân thì Chúa không ưng nhận. Chúa khẳng định: “Ta muốn lòng nhân chứ không cần hy lễ”. Lòng nhân hậu là lề luật tối thượng.
2023
Thứ sáu tuần XV thường niên
Thứ sáu tuần XV thường niên
Ca nhập lễ
Phần tôi, nhờ công chính, tôi sẽ được nhìn thấy thánh nhan Chúa, tôi sẽ được no thoả khi Chúa tỏ bày sự vinh quang của Chúa
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa cho kẻ lầm lạc thấy ánh sáng chân lý của Chúa để họ được trở về nẻo chính đường ngay; xin ban cho những người xưng mình là Kitô hữu biết tránh mọi điều bất xứng và theo đuổi những gì thích hợp với danh nghĩa của mình. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc : Xh 11, 10 – 12, 14
“Các ngươi hãy giết con chiên con vào chiều tối. Hễ nhìn thấy máu, Ta sẽ vượt qua các ngươi”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê và Aaron đã làm các phép lạ trước mặt Pharaon như đã chép. Nhưng Chúa để cho Pharaon vẫn cứng lòng, không cho phép con cái Israel ra khỏi nước mình.
Tại Ai-cập, Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: “Tháng này đối với các ngươi là tháng đầu, tức là tháng đầu năm. Các ngươi hãy loan truyền cho toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: “Ðến mồng mười tháng này, mỗi gia đình phải lo cho có một con chiên con. Nếu nhà ít người, liệu ăn không hết một con chiên con, thì hãy hợp chung với những người lân cận, tuỳ theo số người. Con chiên con phải không tì tích, là chiên đực và được một tuổi. Các ngươi cũng có thể dùng một con dê đực theo quy luật đó. Các ngươi nuôi nó cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó vào chiều tối. Tại mỗi nhà ăn thịt chiên, người ta sẽ lấy máu chiên bôi lên hai khung cửa và trên thành cửa. Ðêm đó, người ta sẽ ăn thịt chiên nướng với bánh không men và rau diếp đắng. Các ngươi không được ăn thịt sống hay luộc, mà chỉ được ăn thịt nướng. Phải ăn tất cả đầu, chân và lòng. Ðừng để thừa đến sáng hôm sau. Nếu ăn còn dư, thì hãy thiêu huỷ đi.
“Các ngươi sẽ ăn như thế này: Hãy thắt lưng, chân mang giày, tay cầm gậy và ăn hối hả, vì đây là lễ Vượt Qua của Chúa. Ðêm đó, Ta sẽ rảo qua khắp nước Ai-cập. Ta sẽ giết chết tất cả con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến loài vật. Ta là Chúa. Ta sẽ ra án phạt tất cả các bụt thần Ai-cập. Máu bôi lên thành cửa nhà các ngươi sẽ dùng làm dấu hiệu: Hễ nhìn thấy máu, Ta sẽ vượt qua các ngươi, các ngươi sẽ không bị huỷ diệt khi Ta trừng phạt nước Ai-cập.
“Các ngươi hãy ghi ngày đó làm ngày kỷ niệm, và cử hành ngày đó như ngày đại lễ của Chúa, qua các thế hệ cho đến muôn đời”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18
Ðáp: Con sẽ lãnh chén cứu độ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa
Xướng: Con lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con? Con sẽ lãnh chén cứu độ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
Xướng: Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tì Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con.
Xướng: Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa trước mặt toàn thể dân Ngài.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! – Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 12, 1-8
“Con Người cũng là chủ ngày sabbat”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: “Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat”. Người nói với các ông rằng: “Các ông không đọc thấy Ðavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Ðavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Ðấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là, “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ”, chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat”.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, Hội Thánh Chúa thành tâm cầu nguyện và dâng lên Chúa lễ vật này; xin thương đoái nhìn và làm cho trở nên của ăn bổ dưỡng giúp chúng con vững bước trên đường nên thánh. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Chúa đã tác thành mọi sự trong vũ trụ, đã sắp đặt cho thời gian thay đổi tuần hoàn.
Còn loài người, Chúa đã dựng nên giống hình ảnh Chúa và bắt mọi sự kỳ diệu quy phục loài người để họ thay quyền Chúa thống trị mọi loài Chúa đã sáng tạo và luôn ca tụng Chúa vì muôn việc kỳ diệu Chúa đã làm, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.
Bởi vậy, trong khi cử hành lễ hân hoan này, cùng với toàn thể các Thiên thần, chúng con ca ngợi tung hô Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Đến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa thiên binh. Ôi đại vương và Thiên Chúa tôi. Phúc cho những ai trú ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời.
Hoặc đọc:
Chúa phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”.
Lời nguyện kết lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa lãnh nhận hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con mỗi khi cử hành bí tích này được hưởng dồi dào ơn cứu độ. Chúng con cầu xin…