2023
Thuần phong mỹ tục trong thời 4.0
Thuần phong mỹ tục trong thời 4.0
Thuần phong mỹ tục là một nét son trong văn hóa, xuyên suốt trải dài lịch sử, góp vào bản sắc dân tộc và thể hiện trong đời sống thường nhật của mọi người ở thôn làng, phố chợ, từng mái nhà. Nôm na như con cái đi thưa về trình với song thân, gặp người lớn trẻ em khoanh tay chào hỏi, phụ nữ ăn vận kín đáo, đi đứng cử chỉ nền nếp, vào mâm mời cơm theo tôn ti, ý tứ gắp thức ăn ngon cho người già… Hết thảy những nền nếp tốt đẹp đậm đà nhân văn trong đời sống, từ ngôn ngữ đến trang phục, lễ tiết gói trong “thuần phong mỹ tục” và được gìn giữ ngay tại gia đình. Thời 4.0, trước sự tác động của những trào lưu mới, liệu thuần phong mỹ tục có mất đi trong đời sống?
![]() |
Dù ở bất cứ đâu và sống trong thời hiện đại, nhiều người Việt cũng vẫn nâng niu những giá trị truyền thống, vẫn dạy con cháu biết gìn giữ thuần phong mỹ tục… |
Thực tế có những người Việt, khi rời quê hương sống ở xứ người càng nâng niu trân quý duy trì thuần phong mỹ tục trong dân tộc tính để sự hội nhập xã hội mới không hòa tan các giá trị vốn có. Chị Ngọc Trân ở tiểu bang California (Hoa Kỳ) chia sẻ: “Con cái trong nhà đều được dạy kỹ nền nếp tôi từng được giáo huấn khi bé ở Việt Nam, bên cạnh tiếng Việt và chữ quốc ngữ, các cháu còn được bảo ban để giữ thuần phong mỹ tục như khoanh tay chào người lớn, lễ phép khi vào mâm cơm…”. Anh Đinh Nguyên ở Cộng hòa Séc thì cho hay, mỗi khi có dịp cộng đồng người Việt ở nơi anh sống tổ chức cho các cháu bé sinh hoạt như bên Việt Nam thì họ cho mặc trang phục dân tộc, nói tiếng Việt, và tranh thủ giáo huấn về nền nếp của người Việt.
Càng ở xa đất nước hoặc sống xa quê hương càng lâu, người Việt càng canh cánh trong lòng làm sao giữ được những thói quen tốt của gia đình xưa. Rất dễ thấy không phải Việt kiều nào cũng “mất gốc”. Một lần tại quầy sách cũ Cô Chi nơi Đường Sách TPHCM, chúng tôi gặp những người Mỹ gốc Việt, thế hệ F2, F3… nói tiếng Việt khá rành. Họ mua sách Việt đọc, trả tiền cho người bán bằng 2 tay và cầm lại quyển sách một cách trân trọng kèm lời cảm ơn. Hỏi ra thì biết, được như vậy cũng là nhờ cha mẹ, ông bà của các bạn trẻ này chú ý giúp con cháu không quên cội nguồn. Các bạn được dạy tiếng Việt, cả nói và viết. Ngoài những giờ đến trường, khi ở nhà, họ buộc phải nói tiếng Việt. Nhờ thế nên không những nói được tiếng mẹ đẻ mà khi đi học đại học ở tiểu bang khác, những người trẻ này vẫn có thể đọc được email của ông bà, cha mẹ mình gởi bằng tiếng Việt.
Ông Đinh Văn Kỳ, 67 tuổi, sống tại Colorado (Hoa Kỳ) kể, ngoài việc giáo dục con giữ gìn bản sắc Việt trong cuộc sống, từ nhỏ ông luôn dành thời gian cho con, và sau này là cháu. Chúng tỉ tê tâm sự cùng ông. Với chúng, ông là tấm gương tốt, một nơi để chia sẻ. Nhờ vậy, không khó khăn gì khi ông trò chuyện với đám trẻ bằng tiếng Việt, tạo cho các con cháu lòng tự hào tự tôn dân tộc Việt. Những người trẻ này cũng thấy sự ưu việt của cái gọi là nề nếp gia đình khi nhìn ông sống lễ phép, hòa nhã với tất cả mọi người. Kính trọng ông, con cháu kính yêu và giữ gìn những giá trị thiêng liêng của dân tộc, của gia đình như ăn mặc không theo trào lưu của nước ngoài, nói tiếng Việt cùng người Việt, kính trên nhường dưới… Tất cả từ người cha, người ông đáng kính của mình.
![]() |
Nhiều gia đình sống trong nước cũng vẫn giữ những giá trị lễ nghĩa, như bà Phạm Phương Loan, 69 tuổi (quận 3, TPHCM) vẫn khuyên răn con cháu không được ăn mặc nhố nhăng. Con gái và cả con trai sau khi lập gia đình, lúc dắt các cháu về nhà bà ngoại, bà nội, vào mâm cơm đều không quên mời ông bà; gặp hàng xóm biết khoanh tay chào. Bà Loan nói: “Không cần ra nước ngoài mới giữ truyền thống, đạo đức người Việt. Ở Việt Nam, tôi cũng giáo dục con cháu theo khuôn khổ. Học hành, làm việc có thể mặc đồ ngắn, nhưng đi lễ nhà thờ nên mặc áo dài hoặc trang phục kín đáo…”
Ông Vĩnh Bình (Q.1, TPHCM) bày tỏ mối lo và cũng cho biết nếp sống ở gia đình mình: “Bây giờ làn sóng mới ảnh hưởng nhiều đến giới trẻ, có cái hay cái lạ nhưng cũng có cái đáng lo. Gia đình tôi luôn gìn giữ nếp cũ, các cơ hội “giữ” các cháu ở nhà bên mâm cơm, lễ lạt đều răn bảo con cháu về thuần phong mỹ tục của người Việt, vẻ đẹp của chiếc áo dài, áo bà ba, sự thưa hỏi lễ phép…”. Ông Bình vẫn gìn giữ một góc riêng trong gia đình làm điểm tựa cho con cháu.
Gìn giữ đạo lý, thói quen tốt trong gia đình, nề nếp lễ nghĩa trong nhà… không thể là lời nói suông, mà cần phải thực hành, phải được làm gương từ cha mẹ, ông bà… Và từ đó con cái noi theo dù những người trẻ này ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Có những bậc phụ huynh hiểu rằng khi con cái yêu kính họ, quý trọng họ, chúng sẽ yêu quý luôn đất nước, dân tộc, cả tiếng nói và yêu luôn quốc phục truyền thống Việt Nam, vì thế việc giáo dục của họ trước hết là giáo dục lòng hiếu thảo.
Thời 4.0, bên cạnh bùng nổ công nghệ, các giá trị mới xuất hiện trong hội nhập, các giá trị truyền thống bị tác động mạnh mẽ. Trên nền cái mới từ công nghệ đến trào lưu sống mới, yêu cầu bảo vệ bản sắc, gìn giữ thuần phong mỹ tục càng cần được đề cao một cách thích hợp linh hoạt: không phải khư khư cố chấp rào giữ cái cũ bài bác cái mới như tư tưởng “đả cựu nghinh tân” thuở nào, mà biết giáo huấn con trẻ thấy và yêu cái đẹp, giá trị không hề lỗi thời của thuần phong mỹ tục để đám trẻ tự hào, trân quý. Bạn Kiều Tiên, sinh viên năm ba một đại học tại TPHCM vui vẻ khoe: “Nhóm tụi con ăn vận sành điệu, hiện đại, cũng rap, hiphop… nhưng ở nhà hay đến nhà nhau chơi, gặp người lớn đều khoanh tay chào hỏi lễ phép, giữ nếp cũ khi vào mâm cơm, được khen hoài đó ạ!”.
Có những hằng giá trị không hề bị lỗi thời dù xã hội đi tới mấy chấm, trong cái mới, các giá trị ấy càng nổi bật hơn, như thuần phong mỹ tục của người Việt mình.
CÔNG NGUYÊN – HOÀNG HẠC
2023
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 107 – Ý nghĩa của lao động
Câu hỏi: Lao động có ý nghĩa gì trong công trình của Thiên Chúa không ạ?
Trả lời:
Để có thể tồn tại và sinh sống, chúng ta cần những lương thực cần thiết. Những lương thực ấy không tự nhiên xuất hiện trước mắt chúng ta nhưng là kết quả của biết bao mồ hôi nước mắt từ nỗ lực lao động của bao người. Dù là nơi đồng ruộng thôn quê hay nơi công xưởng chốn thị thành, không có bàn tay lao tác của con người, thì cũng sẽ không có những miếng cơm ngon, một ngôi nhà no ấm. Quả vậy, con người – dù có tài năng cỡ nào đi nữa – cũng không phải là các thiên thần.
Con người không phải chỉ hít thở mà sống. Con người cần có cái ăn, không những ăn no mà còn phải là ăn ngon. Mọi thứ trên trái đất này được dựng nên cho con người, nhưng không tự nhiên mà nó trở thành của ăn của uống. Con người phải vất vả làm việc, dãi nắng dầm mưa, chịu thương chịu khó. Ngoài ra, xã hội này rộng lớn, người ta lại cạnh tranh nhau. Nhiều khi, mình cũng muốn làm việc đàng hoàng để kiếm sống nhưng vẫn thấy chẳng dễ chút nào. Hiểu được ý nghĩa của lao động sẽ giúp chúng ta có được nguồn động lực để làm việc, tránh thái độ lười nhác.
Kinh Thánh dạy chúng ta điều gì liên quan đến việc lao động?
Thuật ngữ “lao động” mà chúng ta dùng ở đây không chỉ nói đến việc lao động chân tay, nhưng còn là mọi hoạt động nói chung của con người, nhằm cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho các nhu cầu của mình. Chúng ta vẫn nghe nói đến một kiểu “lao động trí óc”, nghĩa là một kiểu lao động không dùng nhiều đến chân tay, nhưng phải vận dụng rất nhiều chất xám, trí tuệ. Kiểu lao động này cũng làm cho người ta rất mệt mỏi, có khi còn hơn cả lao động chân tay. Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý là việc lao động đúng nghĩa thì ngoài việc phục vụ cho lợi ích của con người, cũng phải góp gần xây dựng thế giới. Những kiểu lao động làm tổn hại đến nhân loại, đến môi sinh (như phá rừng bừa bãi…) thì không được xem là lao động chân chính.
Nhiều người cho rằng việc lao động của con người chính là hình phạt mà Thiên Chúa giáng xuống do sự bất tuân của họ, mà câu chuyện Adam là một minh hoạ. Chúng ta đọc thấy trong án phạt Thiên Chúa dành cho Adam là: “…Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,17-19). Thoạt nghe những lời này, chúng ta có liên tưởng đến việc lao động, và cho rằng nó có thể là hệ quả của những tội lỗi chúng ta gây ra. Tuy nhiên, nếu đọc sách Sáng Thế trước đó một chút, chúng ta thấy sứ mạng “lao động” đã được Thiên Chúa giao cho con người trước khi con người phạm tội: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15). Như thế, tự bản thân việc lao động không phải là hệ quả của tội, nhưng là một sứ mạng được Thiên Chúa uỷ thác cho con người. Tình trạng tội làm cho chúng ta thoái thác trách nhiệm này và cảm thấy lao động như một cái gì đó nặng nề, mệt mỏi. Nói cách khác, làm việc – lao động là một mệnh lệnh của Thiên Chúa và cũng là cái làm nên phẩm giá của con người. Lao động là thực thi chức năng “làm chủ” của con người trên mọi loài thụ tạo khác.
Đoạn Tin Mừng Mt 6,25-30 có thể làm cho nhiều người thắc mắc khi Chúa Giêsu dạy rằng: “… đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? … Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” Nhiều người đọc sơ qua và kết luận rằng Chúa Giêsu dạy chúng ta không cần phải lao động, cứ phó thác tất cả cho Thiên Chúa quan phòng, giống như con chim sẻ hay như hoa huệ ngoài đồng. Nhưng Chúa Giêsu không có ý cổ võ cho một đời sống lười biếng. Ý của Ngài khi nói những điều này là nhắm đến tính quan trọng và trỗi vượt của việc “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”, như chúng ta đọc thấy ở đoạn sau (Mt 6,33).
Bằng chứng là ở Ga 6,22-29, chúng ta đọc thấy lời dạy dỗ của Đức Giêsu dành cho đám đông chỉ mong chờ phép lạ hóa bánh để được ăn uống thoả thích mà không phải làm việc: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. Chúng ta biết là Đức Giêsu sinh trưởng trong một gia đình lao động chân tay. Truyền thống Giáo Hội lâu nay vẫn cho rằng bố nuôi của Ngài là Thánh Giuse được biết đến như một người làm mộc. Tin Mừng Marco tường thuật cho chúng ta biết người dân vùng quê của Đức Giêsu gọi Ngài là “bác thợ” (x.Mc 6,3). Trong quá trình rao giảng Tin Mừng, mặc dù Đức Giêsu không tiếp tục hành nghề này để kiếm sống, nhưng Ngài vẫn làm việc. Ngài không ngừng giảng dạy cho người ta biết về mầu nhiệm Nước Trời, Ngài làm các phép lạ, Ngài đi khắp nơi, thi ân giáng phúc. Đúng như lời Ngài nói: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
Chắc là bạn cũng không lạ lẫm gì với dụ ngôn nén bạc (x.Mt 25,14-30). Ông chủ đã giao cho các đầy tớ những nén bạc phù hợp với khả năng của họ và muốn họ phải làm lời. Có những đầy tớ đã tuân theo mệnh lệnh của chủ, cố gắng làm cho đồng bạc mình nhận được sinh thêm những đồng khác. Nhưng cũng có đầy tớ lười biếng, đã chôn vùi đồng bạc nhận được và trả lại chủ y nguyên. Ông chủ đã trách đầy tớ này và phạt anh ta. Dụ ngôn này cũng nhắc nhở chúng ta về bổn phận lao động (Xem thêm: 2 Tx 3,10-13). Chúng ta không thể chỉ trả lại cho Thiên Chúa những gì đã lãnh nhận, nhưng còn phải có cái gì đó là thành quả lao nhọc của chúng ta.
Lao động và những vấn đề của nó
Khi hoàn thành xong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trao vào tay con người tất cả những thụ tạo để con người lao tác và canh giữ chúng. Lao động dường như trở nên một vinh quang cho con người vì được cộng tác với Thiên Chúa trong việc canh tân thế giới, nhưng đồng thời cũng là một nghĩa vụ mà Đấng Sáng Tạo đã trao ban cho mình. Thế giới tự nhiên sẽ trở nên lụi tàn khi không được con người canh tác. Những thành quả của thế giới tự nhiên cũng sẽ phong phú hơn khi được con người chăm bón, bảo vệ. Có thể nói, lao động là một hình thức con người thu tích những gì Thiên Chúa ban qua tự nhiên để có thể đảm bảo cho cuộc sống của mình. Lao động làm cho phẩm giá của con người được thăng hoa hơn, làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn.
Thế nhưng, có lẽ ai trong chúng ta cũng nghiệm thấy được những khó khăn trong việc lao động. Chẳng có lao động nào lại không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ cái gì đó. Từng nhát cuốc bổ xuống trên ruộng đồng mang theo biết bao giọt mồ hôi nhễ nhãi. Cái nắng ban trưa của mùa hè như thiêu đốt người nông dân. Khi gió lên, khi mưa xuống, người nông dân lo lắng: hạt mầm có nảy sinh được không? Có sâu bệnh gì không? Nước có dâng lên làm ngập úng không? Một hạt gạo là cả một nỗi niềm lắng lo gói ghém trong đó. Nơi công ty, những áp lực của hợp đồng, của chất lượng sản phẩm cứ canh cánh không yên. Lao động làm cho chúng ta tốn sức, làm cho trí óc ta phải vận hành liên lỉ không ngơi. Phải chạy đôn chạy đáo chỗ này, lựa lời ăn nói chỗ kia. Phải vắt óc suy nghĩ ra chiến dịch này, khuyến mãi kia để có khách. Mỗi sáng thứ hai hàng tuần luôn là một khoảng thời gian uể oải, vì phải đi làm việc, phải kiếm đồng lương để cho con cái, cho gia đình, cho tương lai.
Tệ hại hơn, con người ngày nay không còn xem lao động là một hình thức cải tảo thiên nhiên nhưng đã trở thành một kiểu hủy hoại thiên nhiên cách tàn nhẫn. Chỉ vì đồng tiền, con người bất chấp những thủ đoạn, bất chấp cả những hậu họa có thể gây ra vì những hành vi sai trái của mình. Buôn ma túy, buôn người… giờ đây đã trở nên nghề thịnh hành hái ra tiền, bất chấp những nghiêm minh của luật pháp. Những cây gỗ quý, thú quý giúp cân bằng hệ sinh thái đã bị con người khai thác không thương tiếc. Việc sử dụng những hóa chất giúp trái cây được tươi, rẻ đã gây ra không ít những chứng bệnh quái ác cho con người. Những khí độc thải ra từ các ống khói nhà máy đang ngày càng chọc thủng các tầng Ozon, lớp bảo vệ sự sống của con người. Rồi cũng vì đồng tiền, con người sẵn sàng hãm hại nhau, thủ tiêu nhau không thương tiếc. Mạng sống con người, vốn là hình ảnh Thiên Chúa, đã bị chính con người xếp ngang hàng với thứ hàng hóa rẻ tiền. Đấy là hậu quả của một thứ lao động bất chính và phi nhân, đi ngược lại với lệnh truyền của Tạo Hóa.
Cũng có một kiểu thái độ đối nghịch lại với lao động là sự lười nhác, xuất phát từ thái độ tự ti cho rằng mình chẳng có gì để làm việc. Xin chia sẻ đến bạn câu chuyện mà chúng tôi góp nhặt được trên Internet:
Có một chàng thanh niên lúc nào cũng ngồi than thân trách phận không may của mình, nên không thể nào giàu có được. Ngày nọ, một ông lão đi qua thấy vẻ mặt ủ ê của anh ta bèn hỏi :
– Chàng trai kia, sao trông cậu buồn bã thế, cậu có điều gì không vui sao?
– Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.
– Cháu mà nghèo ư, cháu đang giàu có đấy chứ ?
– Chưa thấy ai nói với cháu như vậy cả, vì thực sự cháu rất nghèo.
– Này nhé: Giả như ta chặt ngón tay cái của cháu, và trả 3 lượng vàng thì cháu có chịu không?
– Không ạ.
– Giả như ta chặt một bàn tay của cháu và trả 30 lượng vàng, cháu có chịu không?
– Không bao giờ.
– Vậy nếu ta lấy đi đôi mắt của cháu và trả cháu 300 lượng vàng, thì cháu thấy thế nào?
– Cũng không được.
– Vậy nếu ta trả cháu 3000 lượng vàng để hai ông cháu chúng ta hoán đổi số phận, để cháu trở thành một lão già như ta có được không?
– Đương nhiên là không.
– Cháu muốn giàu. Vậy nếu ta trao cho cháu 30,000 lượng vàng để lấy đi mạng sống của cháu, thì cháu thấy thế nào?
– Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu đang là một người giàu có mà cháu không biết.
Chúng ta luôn được Thiên Chúa ban cho đầy đủ những khả năng để lao động. Nếu chúng ta xem lao động là một sự đày ải mệt mỏi, hệ quả của tội thì ta sẽ thấy nó rất nặng nề. Còn nếu chúng ta xem nó như một cơ hội để được cộng tác với Thiên Chúa thì nó sẽ trở thành một niềm vui lớn lao của chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta có một ý thức đúng đắn về lao động, rằng lao động là cộng tác với Chúa vào công cuộc sáng tạo của Người, rằng lao động là đặc ân mà Thiên Chúa chỉ ban riêng cho con người, và đồng thời cũng là một nhiệm vụ mà con người lãnh nhận trực tiếp từ tay Tạo Hóa.
Chúng ta cũng hãy dâng lên Chúa những mệt mỏi của chúng ta khi lao động. Xin cho chúng ta biết chạy đến với Người mỗi khi chúng ta mệt mỏi, nặng gánh vai mang, để được Người nâng đỡ ủi an như lời Người đã hứa. Từng giọt mồ hôi nước mắt vất vả mới làm nên được miếng cơm nuôi sống gia đình. Ước chi chúng trở thành của lễ dâng lên Chúa, để Chúa thánh hóa và tuôn đổ muôn ơn lành hồn xác cho chúng ta. Chúng ta cũng xin Chúa giúp chúng ta luôn tín thác vào Chúa hơn. Dù lao động để trang trải cuộc sống, nhưng bao giờ bám víu vào những của cải ấy, nhưng chỉ một lòng hướng về Chúa mà thôi, với niềm xác tín rằng Chúa sẽ lo lắng cho mình và ban cho mình hằng ngày dùng đủ.
Chúng ta cũng xin Chúa ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta không quá tham lam vào của cải vật chất mà thực hiện những hình thức lao động có hại đến thiên nhiên và con người.
Và cuối cùng, chúng ta xin Chúa tạo điều kiện cho những ai đang thất nghiệp vì lý do khách quan hay chủ quan nào đấy. Xin Chúa cũng cho họ được có cơ hội tham gia vào việc gìn giữ và cải tạo thế giới này của Chúa qua tài năng của họ, để cuộc sống của họ cũng được ấm no hơn, mọi người sống hạnh phúc hơn, trần gian được bình an hơn. Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ
2023
Người chuyển giới có thể lãnh nhận Bí tích Rửa tội
Bộ giáo lý Đức Tin công bố một tài liệu được Đức Tổng trưởng Fernandéz ký và được Đức Thánh Cha phê chuẩn trong buổi tiếp kiến vào ngày 31 tháng 10, cho biết không có trở ngại khi người chuyển giới làm chứng hôn phối, và những câu trả lời khác liên quan đến người đồng tính luyến ái, việc họ có thể được rửa tội, làm cha mẹ đỡ đầu, v.v.
Trường hợp người chuyển giới
Trước hết về những người chuyển giới, ngay cả khi họ đã trải qua điều trị nội tiết tố hoặc phẫu thuật xác định lại giới tính, vẫn có thể lãnh nhận bí tích rửa tội “nếu không có tình huống nào có nguy cơ gây ra tai tiếng công khai hoặc khiến các tín hữu mất phương hướng”. Và con của các cặp đồng tính luyến ái được phép lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ngay cả khi đứa trẻ được sinh ra từ tử cung thuê, miễn là có hy vọng chính đáng rằng chúng sẽ được giáo dục theo đức tin Công giáo.
Đức cha José Negri, giám mục của Santo Amaro ở Brazil, vào tháng 7 năm ngoái đã yêu cầu làm rõ về khả năng lãnh nhận các Bí tích Rửa tội và Hôn phối của những người chuyển giới và đồng tính luyến ái. Các câu trả lời “về bản chất, đề xuất lại những nội dung nền tảng những gì đã được Bộ xác nhận trong quá khứ về chủ đề này”.
Về Bí tích Rửa tội của người chuyển giới, câu trả lời là được, miễn là nó không gây ra tai tiếng, dù là người lớn, trẻ em hay thanh thiếu niên, “nếu có sự chuẩn bị tốt và sẵn sàng”. Trước những nghi ngờ “về hoàn cảnh luân lý khách quan của một người”, hoặc về “những khuynh hướng chủ quan của họ đối với ân sủng” (và do đó cả khi không tỏ ra đầy đủ ý định chỉnh sửa bản thân), Bộ đã đưa ra một số nhận xét. Giáo hội dạy rằng, khi bí tích Rửa tội “được lãnh nhận mà không sám hối các tội trọng, thì chủ thể không nhận được ân sủng thánh hóa, dù cho họ nhận được đặc tính bí tích”, vốn không thể xóa nhòa, được dạy trong Sách Giáo lý, và “vẫn luôn tồn tại nơi người Kitô hữu như một khuynh hướng tích cực hướng tới ân sủng”. Bằng việc trích dẫn Thánh Tôma và Thánh Augustinô, Bộ nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Kitô tiếp tục tìm kiếm các tội nhân và khi có sự ăn năn, đặc tính bí tích đã nhận được ngay lập tức giúp người đó đón nhận ân sủng. Vì lý do này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nhắc lại rằng Giáo hội không phải là một cơ quan hải quan và đặc biệt đối với Bí tích Rửa tội, không được đóng cửa đối với bất kỳ ai.
Vấn đề phức tạp hơn đối với việc một người chuyển giới làm cha hoặc mẹ đỡ đầu trong Bí tích Rửa tội.
Tài liệu cho biết: “Trong một số điều kiện nhất định, điều này có thể được cho phép”, nhưng cần nhớ rằng điều này không phải là một quyền, và do đó “sự thận trọng mục vụ đòi hỏi không được phép làm điều đó nếu có nguy cơ gây tai tiếng, hợp pháp hóa thái quá hoặc làm mất phương hướng trong lĩnh vực giáo dục của cộng đoàn Giáo hội”. Không có trở ngại đối với trường hợp người chuyển giới làm chứng hôn phối, vì không có gì cấm điều đó trong “giáo luật phổ quát hiện hành”.
Trường hợp người đồng tính luyến ái chung sống
Phần thứ hai của tài liệu liên quan đến những người đồng tính luyến ái. Với câu hỏi, họ có thể đóng vai trò với tư cách là cha mẹ của một đứa trẻ sắp được rửa tội, ngay cả khi đứa trẻ được nhận làm con nuôi hoặc bởi “các phương pháp khác như thuê tử cung” không?, Bộ trả lời: “Để em bé được rửa tội thì phải có sự hy vọng có cơ sở rằng em bé ấy sẽ được giáo dục theo Công giáo”.
Sau đó là trường hợp một người đồng tính luyến ái và chung sống xin làm cha hoặc mẹ đỡ đầu của một người được rửa tội. Điều này đòi hỏi phải có “một cuộc sống phù hợp với đức tin và vai trò mà họ đảm nhận. Trường hợp này khác khi việc chung sống của hai người đồng tính luyến ái cốt yếu, không chỉ đơn giản là chung sống, mà là một mối quan hệ ổn định và công khai theo phong tục hôn nhân, được cộng đoàn biết đến”. Bộ Giáo lý Đức tin yêu cầu cần sự thận trọng thích đáng để “bảo vệ bí tích Rửa tội và trên hết là việc lãnh nhận bí tích này, vốn là một kho tàng quý giá cần được bảo vệ, vì nó cần thiết cho ơn cứu độ”. Nhưng Bộ nhắc lại rằng chúng ta phải “xem xét giá trị thực sự mà cộng đoàn Giáo hội trao cho nhiệm vụ của các cha mẹ đỡ đầu, vai trò của họ trong cộng đoàn và sự diễn tả của họ đối với giáo huấn của Giáo hội”. Cuối cùng, khả thể được đề xuất là “có một người khác trong gia đình có thể bảo đảm việc truyền tải đức tin Công giáo một cách đúng đắn cho người được rửa tội”.
Cuối cùng, không có gì có thể ngăn cản “người đồng tính chung sống” làm chứng cho hôn phối.
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
Giáo lý loan báo Tin Mừng 24 – Thánh Cirillo và Metodio
Tiếp tục loạt bài giáo lý về “Lòng say mê loan báo Tin Mừng; lòng nhiệt thành Tông đồ”, Đức Thánh Cha đã chia sẻ với các tín hữu hiện diện về hai nhà truyền giáo say mê loan báo Tin Mừng: đó là hai anh em Thánh Cirillo và Metodio, còn được gọi là “các tông đồ của người Slav”. Ngài nhấn mạnh ba khía cạnh quan trọng trong chứng tá của các vị thánh này: hiệp nhất, hội nhập văn hóa và tinh thần tự do.
Bắt đầu buổi tiếp kiến, các tín hữu cùng nghe đoạn Sách Cv 11,2-4.15-17
Khi ông Phêrô lên Giêrusalem, các người thuộc giới cắt bì chỉ trích ông, họ nói: “Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ!” Bấy giờ ông Phêrô bắt đầu trình bày cho họ đầu đuôi sự việc; ông nói: … “Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu… Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?”
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay tôi sẽ nói với anh chị em về hai anh em rất nổi tiếng ở Đông phương, đến mức họ được gọi là “các tông đồ của người Slav”: Thánh Cirillo Thánh và Metodio. Sinh trong một gia đình quý tộc ở Hy Lạp vào thế kỷ thứ 9, các ngài từ bỏ sự nghiệp chính trị để dâng mình trong đời sống đan tu. Nhưng ước mơ về cuộc sống ẩn dật của các ngài chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Các ngài được cử đi truyền giáo đến vùng Moravia. Vào thời điểm đó, nơi này có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, một phần đã được truyền giáo, nhưng còn nhiều phong tục và truyền thống ngoại giáo vẫn tồn tại giữa họ. Quốc vương của họ yêu cầu một thầy dạy có thể giải thích đức tin Kitô giáo bằng ngôn ngữ của họ.
Đức tin được hội nhập văn hóa và văn hóa được Phúc Âm hóa
Do đó, công việc đầu tiên của hai Thánh Cirillo và Metodio là nghiên cứu kỹ về văn hóa của các dân tộc đó. Luôn luôn là điệp khúc này: đức tin được hội nhập văn hóa và văn hóa được Phúc Âm hóa. Hội nhập văn hóa đức tin, Phúc Âm hóa nền văn hóa. Thánh Cirillo hỏi họ có bảng chữ cái không; họ trả lời không. Và ngài trả lời: “Ai có thể viết một diễn văn trên nước?”. Thực ra, để loan báo Tin Mừng và cầu nguyện, chúng ta cần có công cụ riêng cụ thể và thích hợp. Vì thế ngài đã phát minh ra bảng chữ cái Glagolitico. Ngài dịch Kinh Thánh và các văn bản phụng vụ. Người dân cảm thấy đức tin Kitô giáo không còn “xa lạ” mà đã trở thành đức tin của họ, được nói bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Anh chị em hãy suy nghĩ: hai đan sĩ Hy Lạp đang trao cho người Slav một bảng chữ cái. Chính tấm lòng cởi mở này đã làm cho Tin Mừng đâm rễ nơi họ. Các ngài không sợ hãi nhưng can đảm.
“Thiên Chúa muốn mọi người ca ngợi Người bằng ngôn ngữ của họ”
Tuy nhiên, không lâu sau đó, xung đột đã bắt đầu từ phía một số tín hữu nghi lễ Latinh, những người nhận thấy mình bị mất độc quyền rao giảng cho người Slav. Sự phản đối của họ có tính tôn giáo, nhưng chỉ ở những điều bề ngoài: họ nói rằng Thiên Chúa có thể được ca ngợi chỉ bằng ba ngôn ngữ được viết trên thập tự giá, tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh. Những người này có não trạng khép kín để bảo vệ sự tự chủ của họ. Nhưng Thánh Cirillo đáp lại một cách mạnh mẽ: Thiên Chúa muốn mọi người ca ngợi Người bằng ngôn ngữ của họ. Cùng với người anh trai Metodio, ngài thỉnh cầu Đức Giáo hoàng và Đức Giáo hoàng đã phê chuẩn các văn bản phụng vụ của họ bằng tiếng Slav. Ngài cho phép đặt các bản văn trên bàn thờ của nhà thờ Đức Bà Cả và cùng họ hát những lời ca ngợi Chúa theo những cuốn sách đó. Thánh Cirillo qua đời vài ngày sau đó, và thánh tích của ngài vẫn được tôn kính ở Roma, trong Vương cung thánh đường Thánh Clemente. Tuy nhiên, Thánh Metodio đã được tấn phong làm Giám mục và được bổ nhiệm trở lại lãnh thổ của người Slav. Ở đây ngài sẽ phải chịu đau khổ rất nhiều, thậm chí sẽ bị tù đày, nhưng Lời Chúa không bị xiềng xích và lan truyền giữa các dân tộc đó.
Hiệp nhất, hội nhập văn hóa và tinh thần tự do
Tiếp tục bài giáo lý, Đức Thánh Cha nói: Nhìn vào chứng tá của hai nhà truyền giáo này, những vị mà Thánh Gioan Phaolô II mong muốn là những Thánh đồng bảo trợ của Châu Âu và đã viết Thông điệp Slavorum Apostoli – các Tông đồ của người Slav – về hai vị, chúng ta hãy suy tư về ba khía cạnh quan trọng.
Hiệp nhất
Trên hết là sự hiệp nhất: người Hy Lạp, Giáo hoàng, người Slav: vào thời điểm đó ở châu Âu có một Kitô giáo không chia rẽ, đã hợp tác để truyền giáo.
Hội nhập văn hóa
Khía cạnh quan trọng thứ hai là hội nhập văn hóa, điều mà tôi đã nói trước đây: Phúc Âm hóa nền văn hóa và việc hội nhập văn hóa cho thấy rằng việc loan báo Tin Mừng và văn hóa liên kết chặt chẽ với nhau. Chúng ta không thể rao giảng một Phúc Âm trừu tượng, thuần túy. Không. Tin Mừng phải được hội nhập văn hóa và nó cũng là một cách diễn tả của văn hóa.
Tinh thần tự do
Một khía cạnh cuối cùng, đó là sự tự do. Trong khi rao giảng, chúng ta cần tự do nhưng tự do luôn cần lòng can đảm, con người càng tự do thì càng can đảm và không để mình bị xiềng xích bởi nhiều thứ cướp đi tự do của mình.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu xin các Thánh Cirillo và Metodio, các tông đồ của người Slav, để chúng ta có thể trở thành những khí cụ “tự do trong bác ái” vì tha nhân. Hãy sáng tạo, kiên trì và khiêm tốn, bằng cầu nguyện và phục vụ.