2020
Chọn thánh ca phụng vụ sao cho đúng hướng dẫn của Giáo Hội?
Việc chọn được một bài thánh ca hay, phù hợp với phụng vụ là vấn đề không dễ giải quyết đối với nhiều ca trưởng. Giải quyết vấn đề này cũng là tìm ra những tiêu chí cần thiết cho việc phê bình những sáng tác được gọi là thánh ca.
Huấn thị về âm nhạc trong Phụng vụ thánh (Instructiode Musicain Sacra Liturgia) do Thánh Bộ Lễ nghi ban hành ngày 5-3-1967 đã định nghĩa thánh nhạc là “loại âm nhạc được sáng tác để thờ phượng Thiên Chúa, nên phải biểu lộ tính thánh thiện và diễn tả được hình thức nghệ thuật tốt đẹp”.
Như vậy chúng ta có hai tiêu chuẩn rõ ràng để lựa chọn bài thánh ca dùng trong phụng vụ là: Tính thánh thiện (sanctitas) hay tiêu chuẩn tôn giáo và hình thức tốt đẹp (bonitas formae) hay tiêu chuẩn nghệ thuật.
Ca từ của bài thánh ca dùng trong phụng vụ
Ca từ được coi như một nửa giá trị của ca khúc. Ca từ của một bài thánh ca phụng vụ trước hết phải bám sát bản văn phụng vụ (Kinh Thánh, Thánh vịnh, Thánh thi,…), ăn khớp với các động tác trong phụng vụ thánh lễ và phù hợp với Giáo lý Công giáo. Có thể xem ca từ như anh chị em với thơ.
Vì vậy, ngoài việc xứng hợp để dùng trong phụng vụ (tính thánh thiện), ca từ còn phải tuân theo những quy tắc của nghệ thuật thi ca (hình thức tốt đẹp), tránh những khuyết điểm căn bản như: Sai ngữ pháp; dùng từ không chuẩn, không có trong văn chương Việt Nam hoặc triết lý vụn vặt, luẩn quẩn; ngắt câu, ngắt chữ không đúng, làm sai lạc ý nghĩa; thô thiển, không có tính văn chương; có dấu giọng không phù hợp với giai điệu nhạc.
Nếu lấy hai tiêu chuẩn phù hợp với phụng vụ và mang tính thi ca để đánh giá ca từ của một bài thánh ca, chúng ta đã góp phần biểu lộ tính thánh thiện và diễn tả hình thức nghệ thuật tốt đẹp của thánh ca (đúng nghĩa) trong buổi cử hành phụng vụ.
Ngôn ngữ âm nhạc của bài thánh ca phụng vụ
Trong các yếu tố tạo thành âm nhạc, giai điệu đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Về tính thánh thiện của âm nhạc dùng trong phụng vụ, Thánh Giáo hoàng Pi-ô X đã viết trong tự sắc (motu proprio):
“… Một sáng tác càng thánh thiện và càng mang tính phụng vụ, khi càng gần với bình ca về nhịp điệu, cảm hứng và phong cách…” .
Nhịp điệu, theo cách dùng từ của bản văn trên được hiểu là chuyển động của giai điệu. Chuyển động của giai điệu bình ca thường là loại chuyển động liền bậc (quãng 2 hoặc quãng 3 tùy loại thang âm) và chỉ sử dụng ba loại bán cung: Mi – Fa, Si – Do và La – Sib.
Như vậy:
– Một giai điệu càng chuyển động liền bậc, càng giống bình ca và do đó càng có tính thánh thiện.
– Những giai điệu mang nhiều bán cung nhân tạo (chromatic) thường biểu lộ tâm trạng ủy mị, kịch tính hơn là tính thánh thiện.
– Những giai điệu dùng quá nhiều chuyển động cách bậc (nhảy quãng xa) thường mang lại cảm giác phóng túng, phù hợp với ca nhạc sân khấu, opera hơn là tính thánh thiện của thánh ca phụng vụ.
Tuy nhiên, trong bình ca cũng có dùng giới hạn những quãng xa như: quãng 4 đúng, quãng 5 đúng; không chuyển động với quãng 4 tăng (được gọi là “con quỷ trong âm nhạc”, diabolus in musica); không chuyển động với quãng 5 giảm; rất hiếm khi chuyển động với quãng 6 (vì mang tính trữ tình, lãng mạn).
Xét về tiêu chuẩn hình thức tốt đẹp, một giai điệu liền bậc thường chứa đựng một nội dung hòa âm phong phú. Một giai điệu đẹp bao giờ cũng được xây dựng trên một khung (hay cấu trúc) hòa âm được chuẩn bị kỹ lưỡng.
Đã đành một giai điệu mang tôn giáo tính cần phải được viết trên một nền hòa âm xứng hợp nhưng không phải lúc nào sáng tác đúng luật hòa âm, đối âm (hình thức tốt đẹp) cũng đảm bảo được tôn giáo tính (tính thánh thiện).
Phải nhìn nhận rằng trình độ hòa âm, phối khí của các nhạc sĩ Công giáo ngày nay hơn hẳn các bậc đàn anh, đàn chị, tiền bối của nền thánh ca Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có không ít nhạc sĩ đương thời tạo nên những bài thánh ca hợp xướng được xây dựng trên những liên kết hòa âm chỉnh về luật như ví dụ trong các sách giáo khoa về hòa âm nhưng giai điệu của từng bè khó hát hoặc hát khó nghe.
Một ngôn ngữ âm nhạc quan trọng khác là tiết điệu. Tiết điệu là yếu tố đầu tiên cấu thành âm nhạc. Trong cuốn Giáo trình sáng tác nhạc, nhà soạn nhạc người Pháp Vincent d’Indy có nói: “Có nhiều dân tộc không biết đến hòa âm, một vài dân tộc không biết đến cả giai điệu, nhưng không một dân tộc nào lại không biết tiết điệu”.
Những câu hỏi đặt ra khi chọn bài • Có gì thú vị về giai điệu, hòa âm, tiết tấu? • Âm nhạc và ca từ có phù hợp với nhau không? • Nếu đây là một bản phối nhạc, hòa âm cho hợp xướng thì cần xem nó có phù hợp với tinh thần của bản gốc không, hay hòa âm quá mức cần thiết? • Âm vực của các bè thế nào? • Có phù hợp với ban hợp xướng của mình không? • Phần bè hòa âm nghe có thú vị? • Thử đánh giá xem tác phẩm này có hấp dẫn người biểu diễn và khán thính giả không? • Có nằm trong khả năng của ca đoàn mình hay không? |
TS Nguyễn Bách
2020
Giáo dục nhân bản trong gia đình
- Gia đình Việt Nam hiện nay
Gia đình Việt Nam trong những thập kỷ qua có nhiều sự biến đổi dưới tác động của sự thay đổi nhanh chóng của xã hội theo nhiều chiều hướng, cả tích cực lẫn tiêu cực.
Một số dữ liệu thống kê cung cấp bức tranh tạm phác hoạ của gia đình Việt Nam:
– Tuổi kết hôn trung bình là 25 tuổi. Tuổi kết hôn có chiều hướng tăng qua các năm có thể cho thấy người trẻ có sự chín chắn, cẩn trọng hơn trong quyết định hôn nhân.
– Tỷ lệ lao động nữ đã qua đào tạo tăng từ 12,3% (2007) lên 20,9% (sơ bộ 2017). Các số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ nữ giới được học tập và tham gia lao động ngoài xã hội ngày càng tăng. Tuy nhiên, sự tham gia của nam giới vào công việc nội trợ, và cả việc giáo dục con cái không tăng đáng kể và chưa tương xứng với sự gia tăng của phụ nữ tham gia thị trường lao động (Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96)).
– Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trong gia đình Việt liên tục từ năm 2006 đến nay: 109,8 bé trai/100 bé gái (năm 2006) lên 113,8 bé trai/100 bé gái (năm 2013), mất cân bằng cả ở nông thôn và thành thị; người có điều kiện kinh tế, học vấn cao hơn lại lựa chọn giới tính khi sinh nhiều hơn. Theo dự báo đến năm 2050, VN thừa 3-4 triệu đàn ông không lấy được vợ.
– 27,5% gia đình Việt có xung đột: Theo khảo sát trên 1.500 người của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và Môi trường (iSEE) tiến hành trong tháng 5 và tháng 6/2015, gia đình Việt Nam đang đối mặt với một số vấn đề như xung đột, bất hòa giữa các thành viên trong gia đình (27,5%), ngoại tình (16%), nợ quá khả năng chi trả (9,9%) và các vấn đề khác.
– Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, năm 2016 có 24.308 vụ ly hôn đã xét xử; năm 2017 là 27.948. Một số liệu khác lại cho thấy con số lớn hơn nhiều: năm 2000 là 51.361; năm 2005 là 65.929 (điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng Cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF, trích theo Family).
- Giáo dục gia đình qua một số nghiên cứu
2.1 Giáo dục gia đình và tác động đến con cái
– Nguyễn Thị Anh Thư (2006) phân tích 2 trường hợp trẻ được chẩn đoán tăng động giảm chú ý để chỉ ra tác động của giáo dục gia đình, đặc biệt vai trò của cha và mẹ trong việc kìm hãm, điều chỉnh những rối nhiễu ở trẻ hay làm tăng thêm rối nhiễu nếu cha mẹ không có cách giáo dục phù hợp. Đoàn Việt (2005) nghiên cứu các biện pháp giáo dục con của cha mẹ vùng nông thôn huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy cha mẹ vẫn quan niệm đánh, mắng con là những biện pháp, công cụ để giáo dục con; một số cha mẹ đã có thay đổi trong nhận thức về việc sử dụng các biện pháp bạo lực trong giáo dục con nhưng trong thực tế họ vẫn thỉnh thoảng sử dụng biện pháp bạo lực như giải pháp tức thời trong tình huống con phạm lỗi, điều này cho thấy sự lúng túng của cha mẹ trong việc đổi mới nhận thức và phương pháp giáo dục con.
– Tác giả Lưu Song Hà (2008) tìm hiểu đánh giá của chính cha mẹ về bản thân và so sánh với cảm nhận của con cái về cha mẹ ở học sinh trung học cơ sở. Kết quả cho thấy có những khác biệt về mức độ hiểu con giữa đánh giá của người cha về bản thân và cảm nhận của con về cha mình. Đối với người mẹ, sự khác biệt thể hiện ở tiêu chí tin tưởng và bình đẳng.
– Nghiên cứu về phong cách giáo dục của cha mẹ cho thấy cha mẹ có xu hướng giữ gìn các mối dây liên hệ cho sự hoà hợp gia đình mà vẫn ủng hộ độc lập của cá nhân (Hoàng M.K., 2005). Các cha mẹ Việt đều có chỉ số khuyến khích tự chủ-tự lập và chỉ số tình cảm cao hơn chỉ số kiểm soát độc đoán.
– Các nghiên cứu khác cũng cho thấy cha mẹ tỏ ra quan tâm nhiều đến con cái của mình ở những độ tuổi khác nhau (Lưu Song Hà, 2007; Lã Thị Thanh Thủy, 2009; Nguyễn Thị Anh Thư và Bùi Minh Đức, 2012). Đặc biệt, tác giả Lưu Song Hà trong nghiên cứu của mình đã nhận thấy rằng, các em học sinh ở độ tuổi trung học cơ sở dù biết rằng cha mẹ quan tâm nhiều đến mình, nhưng các em vẫn mong muốn được cha mẹ quan tâm hơn nữa, và đối xử với mình bớt nghiêm khắc hơn. Đây cũng chính là hai điều mà các em học sinh muốn cha mẹ mình thay đổi nhất. Theo lập luận của tác giả Lưu Song Hà thì nguyên nhân của mong muốn này xuất phát từ việc cha mẹ của các em rất bận rộn với công việc và không nhiều thời gian dành cho con – một thực tế chung cho phần lớn các gia đình hiện nay. Theo kết quả Điều tra Gia đình Việt Nam 2006, vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ cha mẹ không dành chút thời gian nào để chăm sóc con cái dưới 15 tuổi: 6,8% người mẹ và 21,5% người cha.
– Sự thiếu hụt kiến thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái (Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96)).
2.2 Tương quan giữa cha mẹ và con tuổi vị thành niên
Trẻ vị thành niên được nuôi dưỡng tốt nhất khi những mối quan hệ trong gia đình của trẻ tìm được sự cân bằng giữa sự tự chủ – tự lập và gắn bó với cha mẹ. Nghiên cứu của Allen và cộng sự (1994) về sự cần thiết của cha mẹ trong việc tạo ra cân bằng giữa phát triển tự chủ-tự lập và gắn bó với cha mẹ. Theo đó, có 2 loại hành vi đặc thù liên quan đến sự tự chủ-tự lập của trẻ vị thành niên: hành vi cho phép và hành vi kìm hãm. Những phụ huynh có hành vi cho phép được đánh giá cao thì thường chấp nhận con cái của họ, đồng thời giúp trẻ phát triển và đưa ra ý kiến riêng của mình thông qua những câu hỏi, sự giải thích, và sự bao dung về sự khác biệt quan điểm. Ngược lại, cha mẹ nào sử dụng nhiều hành vi kìm hãm thì sẽ khó chấp nhận cá tính của con em mình, đồng thời phản ứng lại với sự thể hiện suy nghĩ của trẻ bằng những lời nhận xét là thiếu tập trung, phán xét hoặc ít có giá trị. Trẻ vị thành niên có cha mẹ sử dụng nhiều hành vi cho phép lẫn một chút sự kìm hãm thì có khả năng thể hiện cá tính nhiều hơn và có nhiều tiến triển trong sự phát triển bản ngã cũng như năng lực tâm lý xã hội.
Thanh thiếu niên dần dần có được quyền tự chủ – tự lập từ cha mẹ. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, khái niệm tự chủ tự lập được định nghĩa theo các khuynh hướng khác nhau. Tự chủ cảm xúc đề cập đến sự độc lập, tách rời, liên quan đến sự thay đổi trong tương quan giữa cha mẹ và trẻ. Tự chủ cảm xúc dường như đem lại những ảnh hưởng rất khác biệt đến trẻ vị thành niên, phụ thuộc vào mức độ của sự hòa hợp trong mối quan hệ giữa cha mẹ – trẻ. Những trẻ trở nên tự chủ về cảm xúc nhưng đồng thời có cảm giác xa cách, tách biệt với cha mẹ thì sẽ có biểu hiện kém trong mức độ đo lường về điều chỉnh tâm lý cá nhân, còn những trẻ khác, thể hiện cùng mức độ tự chủ cảm xúc nhưng vẫn đi kèm cảm giác gần gũi, gắn bó với cha mẹ thì có đời sống tinh thần khỏe mạnh hơn bạn bè cùng lứa.
Tự chủ về hành vi đề cập đến khả năng quyết định và thực hiện độc lập. Nỗ lực ban đầu của thanh thiếu niên để thiết lập hành vi tự chủ trong gia đình thường là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa cha mẹ và thanh thiếu niên. Giữa thời kỳ niên thiếu, trẻ vị thành niên hành động và được đối xử giống người lớn hơn. Trẻ có nhiều ảnh hưởng đến các quyết định gia đình, và do vậy, không cần khẳng định ý kiến của mình bằng các hành vi chưa trưởng thành (Grotevant, 1998). Trẻ cũng được phép dành nhiều thời gian riêng tư mà không phải chịu sự giám sát trực tiếp của cha mẹ.
Nhìn chung, thanh thiếu niên tự chủ- tự lập cho thấy họ khá thân với cha mẹ, thích có các hoạt động chung với gia đình, tuy có một ít xung đột với cha mẹ nhưng thanh thiếu niên vẫn cảm thấy thoải mái khi cha mẹ tư vấn, chia sẻ, và nói rằng họ muốn được như cha mẹ (Kandel và Lesser, 1972). Các mối quan hệ gia đình căng thẳng xuất hiện có liên quan đến thiếu tự chủ trong tuổi niên thiếu, chứ không phải với sự hiện diện tất yếu của thời kỳ vị thành niên.
Có những thay đổi trong sự hài hoà trong gia đình khi trẻ bước vào tuổi vị thành niên. Mặc dù có ít nghiên cứu tìm hiểu về tình cảm giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ, nhưng một số ít minh chứng từ kết quả nghiên cứu cho thấy quan hệ giữa cha mẹ và con ít gần gũi hơn khi trẻ bước vào tuổi vị thành niên, được nhận thấy qua việc trẻ ít tham gia vào các hoạt động chung trong gia đình và cha mẹ và trẻ ít thể hiện tình cảm. Thực ra, mối quan hệ ít gần gũi giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên chỉ là thể hiện mong muốn gia tăng sự độc lập và riêng tư của trẻ và vì trẻ đã lớn, cha mẹ ít thể hiện tình cảm qua cử chỉ, lời nói, đó không phải là không còn tình yêu và tôn trọng giữa cha mẹ và con cái (Montemayor, 1983, 1986). Nghiên cứu cho thấy các mối quan hệ có thể trở nên ít mâu thuẫn và thân mật hơn trong giai đoạn cuối tuổi vị thành niên (Thornton, Orbuch, và Axinn, 1995; Larson et al., 1996).Trong các gia đình có sự gắn bó tốt giữa cha mẹ và con ở tuổi đầu vị thành niên vẫn giữ được tương quan gần gũi trong giai đoạn vị thành niên mặc dù tần suất trao đổi, tương tác và các hoạt động chung giữa cha mẹ và con có thể giảm. Mặc dù một số trẻ vị thành niên và cha mẹ có những vấn đề mâu thuẫn, nhưng nhìn chung trong các gia đình, trẻ vị thành niên vẫn có mối quan hệ tốt với cha mẹ, tôn trọng cha mẹ và cảm nhận được tình yêu thương, quan tâm, chăm sóc cha mẹ dành cho mình (Steinberg, 2001).
Mặc dù xung đột là yếu tố đặc trưng trong mối quan hệ giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ, nhưng nghiên cứu cho thấy rõ ràng những xung đột gay gắt, thường xuyên và dẫn đến bạo lực là không bình thường. Những ảnh hưởng tiêu cực của xung đột giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ không nằm ở vấn đề của xung đột mà ở cách thức giải quyết xung đột. Xung đột thường được giải quyết bằng sự phục tùng của trẻ hoặc bằng việc rút lui (bỏ đi chỗ khác), hoặc bằng việc bỏ ngoài tai những lời của cha mẹ (Đỗ Hạnh Nga, 2014). Các cách thức này đều không đem lại hiệu quả cải thiện mối quan hệ cũng như giúp trẻ phát triển năng lực giải quyết vấn đề. Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy các gia đình rất khác nhau trong vấn đề mâu thuẫn và xung đột giữa cha mẹ và con tuổi vị thành niên. Smetana (1996) đưa ra ba nhóm mâu thuẫn gia đình: i) nhóm đông nhất thường xuyên có xung đột, nhưng không mâu thuẫn không gay gắt, lặt vặt và không có bạo lực; ii) một nhóm nhỏ các gia đình được thấy là không hề có xung đột giữa cha mẹ và con vị thành niên; iii) nhóm gia đình thứ ba cũng thường xuyên có xung đột, mâu thuẫn gay gắt và có thể dẫn đến bạo lực. Theo Smetana (1996), nhóm gia đình 1 thuộc loại gia đình với những xáo trộn điển hình trong thời kỳ này, nhóm 2 là một số ít các gia đình đã khéo léo vượt qua được các khó khăn và thành công trong việc điều chỉnh lại các mối quan hệ để phù hợp với đặc điểm phát triển của tuổi vị thành niên, nhóm 3 đại diện cho các gia đình với nguy cơ rối loạn tâm thần và các vấn đề về điều chỉnh hành vi nơi trẻ vị thành niên. Tóm lại, mâu thuẫn và xung đột thường xuyên, gay gắt, bạo lực là điều không bình thường trong thời kỳ vị thành niên; trong khi những tranh cãi về công việc nhà, quần áo, thời gian vào internet, hoặc các quy tắc, quy định là điều bình thường trong các gia đình có con tuổi vị thành niên. Hầu hết những mâu thuẫn này thể hiện sự thay đổi trong quá trình trưởng thành về nhận thức của trẻ, đặc biệt sự nhìn nhận và thể hiện quan điểm cá nhân về quy ước xã hội.
2.3 Phong cách giáo dục của cha mẹ
Nghiên cứu của Hoàng Mai Khanh (2014) về bốn yếu tố thể hiện phong cách giáo dục của cha mẹ tại một trường THCS quận 1, TP. HCM cho thấy cha mẹ tự đánh giá mình thể hiện sự yêu thương, quan tâm đến con cái tương đối khá, đồng thời không đề cao cách giáo dục áp đặt, con cái phải hoàn toàn tuân theo yêu cầu của cha mẹ. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn sử dụng hình phạt với con cái. Cha mẹ vẫn sử dụng hình phạt như một cách thức kỷ luật đối với con: 83,8% cha và mẹ đồng ý và hoàn toàn đồng ý dùng hình phạt khi con hư, nhưng cha mẹ cũng nhận thức rằng hình thức chỉ trích và la mắng không phải là cách giáo dục tốt để con tiến bộ (71% cha mẹ ít đồng ý và không đồng ý với hình thức này).
Khuyến khích tự chủ – tự lập là yếu tố được cha mẹ quan tâm thực hiện trong giáo dục con cái ở độ tuổi THCS. 75% cha mẹ khuyến khích con tự tìm cách giải quyết vấn đề khi gặp khó khăn. Cha mẹ chỉ đóng vai trò hướng dẫn, tư vấn, trẻ được tự do suy nghĩ và chọn lựa. Một kết quả thú vị là cha mẹ rất chú trọng việc phát triển nhận thức, suy nghĩ độc lập cho con qua việc khuyến khích con đặt câu hỏi và suy nghĩ về cuộc sống (91% đồng ý và hoàn toàn đồng ý).
Một kết quả tích cực từ nghiên cứu là các chỉ số thể hiện sự xung khắc giữa cha mẹ và con được đánh giá thấp nhất. Chính trẻ vị thành niên cũng nhận xét ít có mâu thuẫn với cha mẹ. Kết quả này cho thấy xung đột giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên thường là những xung đột nhỏ, lặt vặt, không gay gắt và không có bạo lực. Đây là những xung đột điển hình trong thời kỳ này, cả cha mẹ và trẻ đều đang trải qua một thời kỳ thích nghi với một giai đoạn/chu kỳ mới trong cuộc sống gia đình. Trẻ khám phá chính bản thân mình, khám phá khả năng tiềm ẩn của chính mình, học hỏi và rèn luyện những khả năng đó để định vị mình trong xã hội. Cha mẹ cũng học hỏi và thích nghi với sự trưởng thành của con cái.
Cũng giống như cha mẹ, cảm nhận của con về tình yêu thương quan tâm của cha mẹ có chỉ số cao nhất, tiếp đến là yếu tố khuyến khích tự chủ – tự lập. Trẻ vị thành niên cũng có nhận định cha mẹ mình không kiểm soát độc đoán cao trong giáo dục và ít có xung khắc giữa cha mẹ và con.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cha mẹ và trẻ vị thành niên đều đánh giá cao yếu tố khuyến khích sự tự chủ – tự lập, và có sự tương đồng trong quan điểm, nhìn nhận sự tự chủ – tự lập trên 3 khía cạnh: trách nhiệm, thể hiện bản thân và khả năng chọn lựa. Cha mẹ và thiếu niên định nghĩa tự chủ – tự lập là có tinh thần trách nhiệm, chủ động, tự giác, thể hiện bản thân và khả năng quyết định. Quan điểm này phù hợp với khái niệm cái Tôi tự chủ trong liên đới (autonomous-related Self (Kagitcibasi, 1996)) không trở nên tách biệt, độc lập hoàn toàn với người khác, mà là hài hòa và phù hợp với người khác. Trong quá trình phát triển bản sắc cá nhân và xã hội, gắn bó an toàn và khích lệ của cha mẹ là một trong những điều kiện cần thiết. Trong quá trình đạt đến tự chủ – tự lập, trẻ phát triển bản sắc cá nhân và xã hội trong các mối quan hệ xã hội bình đẳng và hỗ trợ tích cực. Sự gắn bó an toàn và khích lệ của cha mẹ rõ ràng cần thiết và thúc đẩy quá trình phát triển tự chủ – tự lập của thanh thiếu niên. Có thể kết luận trong các gia đình lành mạnh, các thiếu niên thân thiết với cha mẹ, đáp ứng thẩm quyền của cha mẹ và tiếp tục tin tưởng vào sự tư vấn của cha mẹ, trong khi vẫn thể hiện tính tự chủ – tự lập ngày càng cao trong các hoạt động của cuộc sống.
2.4 Bàn luận về giáo dục nhân bản qua các kết quả nghiên cứu về giáo dục gia đình và những thách thức của gia đình
Giáo dục Nhân bản (bản chất của con người) là giáo dục nhằm giúp nhận biết con người thật của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, duy nhất, độc đáo, độc lập, trọn vẹn giá trị. Theo định nghĩa này, bức tranh giáo dục của cha mẹ được trình bày từ các kết quả nghiên cứu có thể đưa đến kết luận như thế nào về giáo dục nhân bản trong gia đình?
Với phong cách giáo dục dân chủ – nghiêm minh, thể hiện tình yêu thương, quan tâm đối với con và khuyến khích sự tự chủ – tự lập, khám phá và phát triển “cái Tôi” duy nhất, độc đáo trong sự liên đới, trách nhiệm với con người, môi trường và xã hội, cha mẹ đã đáp ứng mục tiêu của giáo dục nhân bản.
Tuy nhiên, cũng cần nêu rõ là nghiên cứu thực hiện trên địa bàn quận trung tâm, các gia đình lành mạnh và cha mẹ có trình độ và hiểu biết tốt. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ các cha mẹ bận rộn suốt ngày, trẻ con bị giảm thiểu các mối quan hệ giao tiếp và cũng là giảm thiểu những bài tập đầu tiên và cơ bản của giao tiếp xã hội. Ở nông thôn, cha mẹ bỏ ra thành phố kiếm việc dài ngày, con cái phó mặc cho ông bà già. Ở thành thị, trẻ được giao phó cho người giúp việc, trẻ chỉ nhận được tình yêu của cha mẹ qua vài dòng dặn dò ghi trên tấm bảng. Có trẻ tự nhận mình mồ côi ngay khi vẫn còn bố mẹ. Các cha mẹ giáo dục con cái không đúng cách, làm ngơ cho lỗi lầm của con trẻ, đánh đòn con bất kể lý do gì, hay có thái độ bất lực đối với các hành vi mắc lỗi của con cái. Số liệu điều tra Thanh niên và vị thành niên Việt Nam lần 2 (SAVY 2009) cho thấy, có đến 4,1% trẻ vị thành niên tuổi 14 – 17 cho biết đã bị người trong gia đình đánh thương tích, có thể hiểu chủ yếu là cha mẹ đánh. Số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có 1,4% người làm cha mẹ đã đánh trẻ khi con cái mắc lỗi trong 12 tháng trước khảo sát. Sự thiếu hụt kiến thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái.
Bên cạnh những thách thức như công việc bận rộn, thời gian eo hẹp, cả cha và mẹ đều đi làm. Xung đột giá trị là một trong những thách thức lớn của gia đình. Trong bối cảnh của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhất là dưới sự tác động của toàn cầu hóa, hệ giá trị gia đình ở Việt Nam đang có sự biến đổi rất lớn. Bên cạnh những giá trị cổ truyền như “kính trên, nhường dưới”, “trọng xỉ” (tôn trọng người cao tuổi), thì những giá trị mới như coi trọng “quyền tự do cá nhân”, “bình đẳng giới”, “quyền trẻ em”, “sự tự chủ – tự lập” cũng ngày càng được khẳng định. Các nghiên cứu xã hội học cũng ghi nhận xu hướng tiếp nhận giá trị mới, tiêu biểu nhất là sự bình đẳng giới, bình đẳng giữa các thế hệ trong đời sống gia đình. Tỷ lệ ưu tiên lựa chọn giá trị này ở mức trung bình (51,6%), phản ánh tính chất quá độ trong sự chuyển đổi của gia đình từ truyền thống sang hiện đại. Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại, hơn nữa, là một giá trị thuộc về chất lượng cuộc sống. Trong thời kỳ hiện đại, nhất là ở các xã hội đang chuyển đổi, người ta không thể không có sự lựa chọn giữa giá trị sinh tồn và giá trị tự biểu hiện, giá trị nâng cao chất lượng cuộc sống.
Sự biến đổi này, trong một chừng mực nhất định, đã làm cho mối quan hệ ông bà – cha mẹ – con cháu không thuận chiều như trước đây và làm tăng những mâu thuẫn và xung đột thế hệ. Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có khoảng 1/10 số ý kiến từ các hộ gia đình có 3 thế hệ chung sống thừa nhận có sự không thống nhất về các vấn đề về lề lối sinh hoạt, cách quản lý tiền và tiêu tiền, cách thức làm ăn và phát triển kinh tế gia đình, cũng như về phương pháp giáo dục con cháu.
Tuy nhiên, từ các lý thuyết và kết quả nghiên cứu về phong cách giáo dục của cha mẹ, có thể thấy các giá trị truyền thống hay các giá trị mới đều không hề xung đột với phong cách giáo dục yêu thương, quan tâm, xây dựng tương quan gắn bó, tin tưởng, chia sẻ, lắng nghe và tôn trọng giữa cha mẹ và con và khuyến khích sự tự chủ – tự lập.
Bên cạnh đó, giáo dục nhân bản và giáo dục đức tin còn thông qua chính cuộc sống, công việc, các tương quan, ứng xử, các quyết định, chọn lựa hằng ngày của cha mẹ. Đó chính là cuốn sách sống động về giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái.
Tóm lại, giáo dục là một ơn gọi, sứ mạng cao cả nhất của cha mẹ được thực hiện qua cuộc sống hằng ngày, qua từng ứng xử, từng lời nói với con cái. Giáo dục của cha mẹ mang tính cách độc đáo – cha mẹ là “người mẫu” (dù muốn hay không muốn). Trẻ thẩm thấu từ cha mẹ cách yêu thương chính mình và yêu thương người khác, các quan niệm và giá trị, các hành động, ứng xử, giải quyết vấn đề và các chọn lựa trong cuộc sống. Tương quan giữa cha mẹ và con cái là một tình yêu đặc biệt, không thể thay thế, cùng với những hiểu biết khoa học về giáo dục, tâm lý sẽ giúp cha mẹ trở thành Người thầy tuyệt vời nhất của con.
Biển Đức Hoàng Mai Khanh
Tài liệu tham khảo
- Allen, J., Hauser, S., Bell, K., and O’Connor, T. (1994). Longitudinal assessment of autonomy and relatedness in adolescent-family interactions as predictors of adolescent ego development and self- esteem. Child Development 64, pp. 179-194.
- Đỗ Hạnh Nga (2014), Xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở về nhu cầu độc lập. TP. HCM: NXB ĐHQG-HCM.
- Grotevant, H. (1998). Adolescent development in family contexts. In W. Damon (Series Ed.) and N. Eisenberg (Vol. Ed.), Handbook of child psychology: Vol. 3. Social, emotional, and personality development. (5th ed., pp. 1097-1150). New York: Wiley.
- Hoàng Mai Khanh. (2005). Pratiques éducatives parentales et l’autonomie de l’enfant. Comparaison France-Viet Nam. Thèse de doctorat en Sciences de l’Éducation. Université de Paris X – Nanterre, France.
- Hoàng Mai Khanh. (2014). Phong cách giáo dục của cha mẹ: tự đánh giá của cha mẹ và nhận định từ con cái lứa tuổi học sinh THCS. Đề tài NCKH trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM.
- Kagitcibasi, C. (1996). Family and human development across cultures: A view from the other side. Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
- Kandel, D., and Lesser, G. (1972). Youth in two worlds. San Francisco: Jossey-Bass.
- Lã Thị Thanh Thủy. 2009 Mức độ kỳ vọng của cha mẹ đối với con cái lứa tuổi tiểu học. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế “Nhu cầu, định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam”, Hà Nội, 08/2009, 232-237.
- Lưu Song Hà (2007), Tự đánh giá của cha mẹ và những khác biệt giữa nó với cảm nhận của con về cha mẹ trong quan hệ cha mẹ – con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, Tạp chí Tâm lý học, số 2-2007, tr.24-29.
- Lưu Song Hà. (2008). Tác động của giáo dục gia đình đến động cơ thành đạt của thanh niên. Tạp chí Tâm lý học, 8, 16-21.
- Montemayor, R. (1983). Parents and adolescents in conflict: All families some of the time and some families most of the time. Journal of Early Adolescence, 3, 83-103
- Montemayor, R. (1986). Family variation in parent-adolescent storm and stress. Journal of Adolescent Research, 1, 15-31.
- Montemayor, R., and Brownlee, J. (1987). Fathers, mothers, and adolescents: Gender-based differences in parental roles during adolescence. Journal of Youth and Adolescence, 16, 281-292.
- Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96).
- Nguyễn Thị Anh Thư, (2006), Ảnh hưởng của giáo dục gia đình đến tăng động giảm chú ý ở trẻ em, Tạp chí Tâm lý học, số 11 (92), tr.34-39.
- Nguyễn Thị Anh Thư và Bùi Minh Đức. (2012). Mối quan hệ giữa ứng xử trong gia đình và kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở. Tạp chí Tâm lý học, 8, 68-79.
- Smetana, J. G. (1996). Adolescent-parent conflict: Implications for adaptive and maladaptive development. Rochester, NY: University of Rochester Press.
- Steinberg, L., & Morris, A. S. (2001). Adolescent development. Annual Review Psychology, 52, 83-110.
- Thornton, A., Orbuch, T. L., and Axinn, W.G. (1995). Parent-child relationships during the transition to adulthood. Journal of Family Issues, 16, 538-564.
2020
Linh đạo tử đạo cho đời sống linh mục hôm nay
Nếu cá nhân được đề nghị chọn một mẫu gương cho đời sống linh mục của thế kỷ XXI thì tôi sẽ chọn thánh Gioan Maria Vianney (1786 – 1859)[1], cha sở họ Ars. Có ba lý do cho việc chọn lựa này: Thứ nhất, ngài là mục tử nên giống Chúa Kitô Mục Tử nhân lành[2]; Thứ hai, ngài đã hòa hợp cuộc sống thừa tác viên của chính mình với sự thánh thiện của thừa tác vụ mà ngài đã lãnh nhận[3]; Thứ ba, con đường nên thánh của ngài là thi hành mục vụ tại họ Ars với tấm lòng tận tụy hy sinh của người mục tử[4]. Nói theo Đức Thánh Cha (ĐTC) Bênêđictô XVI trong Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục thì việc chọn thánh Gioan Maria Vianney là gương mẫu cho hàng linh mục là dịp: “[…] Để mọi linh mục dấn thân canh tân chiều sâu nội tâm để trở thành chứng từ mạnh mẽ và sắc bén hơn cho Tin Mừng trong lòng thế giới hôm nay…”[5]
Thật vậy, tuy thời gian gần đây một số linh mục để lại nhiều vụ tai tiếng[6] làm cho Hội Thánh phải chịu đau khổ và thế giới lên án[7], nhưng đó không phải là dấu hiệu của sự phân rã mà là lời kêu gọi canh tân và trở về với những gốc rễ đích thực của sứ vụ linh mục[8]. Vì thế, để có được những suy tư liên quan đến lời mời gọi canh tân và trở về của hàng linh mục, thiết nghĩ chúng ta cùng tái khám phá một trong những ý nghĩa của đời sống linh mục đó là sự hy sinh và sự chết đi (Linh đạo Tử Đạo) qua gợi ý của Tông huấn Pastores Dabo Vobis[9]. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ tìm hiểu từ PDV đến ba yếu tố then chốt của linh đạo tử đạo cho đời sống linh mục hôm nay: (I) Nền tảng Thánh Kinh; (II) Con đường mục vụ dẫn đến sự hy sinh và chết đi; (III) Sự hoà hợp từ sứ vụ của Chúa Kitô đến sứ vụ của linh mục: một đề nghị thiết thực cho cuộc tử đạo mỗi ngày của người linh mục.
Con đường nên thánh của linh mục gắn liền với những tác vụ mà linh mục đã lãnh nhận, nghĩa là khi người linh mục được thánh hiến cho Thiên Chúa nhờ việc lãnh nhận Bí tích Truyền Chức Thánh thì linh mục không chỉ được mời gọi hướng đến sự hoàn thiện[10] mà còn trở nên khí cụ của Chúa Kitô trong việc phục vụ toàn thể Dân Chúa[11]. Do đó, nếu đời sống thiêng liêng của linh mục được xét như là nguồn mạch và cùng đích của việc thực thi các tác vụ thì việc canh tân đời sống của linh mục cũng gắn liền với canh tân chính những tác vụ mà linh mục đã lãnh nhận. Hơn nữa, việc canh tân này chỉ thiết thực khi chúng ta xác định lại yếu tố nền tảng cho đời sống linh mục dựa trên Thánh Kinh. Vậy PDV đã trình bày thế nào về nền tảng Thánh Kinh cho đời sống linh mục?
- Nền tảng Thánh Kinh
Tựa đề của văn kiện PDV được rút từ sách ngôn sứ Giêrêmia: “Ta sẽ cho các ngươi những mục tử đẹp lòng Ta”[12]. Qua lời tựa này, PDV đã xác định thuật ngữ “mục tử” là sợi chỉ xuyên suốt dùng để nói về các linh mục. Vì thế, hình ảnh người mục tử là bắt nguồn từ Lời Thiên Chúa hứa ban để coi sóc Dân Chúa.
Hơn nữa, về điểm này được PDV[13] làm sáng tỏ qua hai bản văn của Tân Ước: với Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu nói về chính Ngài là “Mục Tử nhân lành”[14]; với thư Hípri nói về Đức Giêsu là “Mục Tử cao cả của đoàn chiên”[15]. Như vậy, từ nền tảng Thánh Kinh PDV muốn trình bày cho việc đào tạo linh mục và đời sống linh mục nhận biết rằng sứ vụ mà linh mục lãnh nhận là sẽ trở nên mục tử chăm lo mục vụ cho “đoàn chiên” của Chúa như lòng Chúa mong ước. Đồng thời, đời sống linh mục được mời gọi trở nên giống Chúa Kitô Mục Tử nhân lành[16]. Vì Chúa Kitô là cội nguồn duy nhất và bất khả thay thế[17], nhờ đó chúng ta mới thấu hiểu thực tại đời sống linh mục trong ý nghĩa sự hy sinh và chết đi mỗi ngày.
- Con đường mục vụ dẫn đến sự hy sinh và chết đi
Trong nguyên ngữ Hy Lạp từ “martyr” có nghĩa là người làm chứng. Các Kitô hữu khi đối diện những cuộc bách hại đức tin thì với cái chết của họ, chúng ta có thể thấy đó không phải là cái chết làm chứng cho sự anh hùng cá nhân hay cho một lý thuyết nào đó, nhưng họ làm chứng vì niềm tin vào Chúa Kitô. Có thể nói, họ dùng cái chết để diễn tả tương quan mật thiết với Chúa Kitô, một cuộc tử đạo quy hướng về Chúa Kitô và để nên giống Người[18].
Đối với đời sống linh mục hôm nay cũng vậy, tài liệu PDV nhấn mạnh qua Bí tích Truyền Chức Thánh thì người linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu và là Mục Tử[19]. Khi dùng thuật ngữ “đầu” và “mục tử” dường như PDV muốn gắn kết ý nghĩa của hai từ này với nhau, nghĩa là PDV vừa làm nổi bật vai trò thủ lãnh Dân Chúa của Chúa Kitô Đầu – Mục Tử, vừa nói về linh mục là hình ảnh của Chúa Kitô[20]. Ngoài ra, PDV còn dùng thuật ngữ “hôn phu” đi kèm với từ “đầu” hoặc với “mục tử” hoặc cả ba thuật ngữ đi với nhau[21]. Tuy có chung ý nghĩa, nhưng từ “hôn phu” còn diễn tả sự trao hiến chính mình, yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc Hội Thánh, cụ thể PDV trình bày như sau:
“Sự trao hiến mà Đức Kitô tự mình dành cho Giáo Hội, hoa trái của tình yêu Ngài, mang ý nghĩa độc đáo của sự trao hiến giữa vợ và chồng… Đức Giêsu là Phu Quân đích thực trao tặng rượu cứu độ cho Giáo Hội (x. Ga 2.11).” [22]
Như thế, người linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu và là Mục Tử, nghĩa là linh mục hành động nhân danh và trong ngôi vị của Chúa Giêsu Kitô[23] qua con đường mục vụ mà linh mục đã lãnh nhận. Vậy đâu là ý nghĩa của sự hy sinh và sự chết đi của con đường mục vụ này? Thiết nghĩ đó là sự thống nhất nội tại của chính hữu thể con người linh mục và hoạt động mục vụ nơi người linh mục.
Thật vậy, PDV đưa ra gợi ý thiết thực cho đời sống của linh mục là cắm rễ sâu đời mình vào Chúa Kitô, nghĩa là giữa Chúa Giêsu Kitô và linh mục là mối liên kết hữu thể[24] qua việc linh mục được thánh hiến mang tính bí tích bởi Chúa Thánh Thần, để nhờ đó linh mục nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô[25]. Trong đó, linh mục mang tâm tư và hành động như Chúa Kitô, Đấng là Mục Tử đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên[26]. Vì thế, linh mục được mời gọi mặc lấy đức ái mục tử của Chúa Kitô bằng việc trao hiến hoàn toàn chính mình cho Hội Thánh, nó biểu lộ tình yêu của Chúa Kitô dành cho chiên của Người[27].
III. Sự hòa hợp từ sứ vụ của Đức Kitô đến sứ vụ của linh mục: một đề nghị thiết thực cho cuộc tử đạo mỗi ngày của người linh mục
Trong truyền thống Hội Thánh[28], khi nói về Chúa Kitô Thượng tế duy nhất thì vẫn dùng cách nói về sứ vụ của Người bao gồm ba chức năng: tư tế, ngôn sứ, vương đế. Đây là hình ảnh bắt nguồn từ giới lãnh đạo trong Cựu Ước, họ được Thiên Chúa chọn để dẫn dắt Israel qua việc phụng tự (tư tế), qua Lời Thiên Chúa (ngôn sứ), qua việc cai quản (vua). Vì thế, Hội Thánh cũng sớm dùng những hình ảnh này để nói về sứ vụ của Chúa Kitô Mục Tử nhân lành và sứ vụ chức thánh của mình.
Cũng vậy, PDV đã sử dụng mẫu thức truyền thống này để nói về sứ vụ của linh mục. Theo đó, PDV trình bày sứ vụ mục tử bao gồm[29]: (i) Thừa tác vụ Lời Chúa; (ii) Thừa tác vụ Bí tích; (iii) Lãnh đạo cộng đoàn. Vậy các sứ vụ này đã hoà hợp với sứ vụ của Chúa Kitô như thế nào?
(i) Thừa tác -vụ Lời Chúa:
PDV số 26 trình bày sứ vụ thứ nhất của linh mục như sau:
“Trước hết linh mục là thừa tác viên Lời Chúa. Linh mục được hiến thánh và sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người.”
Với tác vụ Lời Chúa, linh mục được mời gọi thống nhất trong sứ vụ này: một đàng là người mang sứ điệp đến cho người khác, đàng khác chính linh mục cũng phải đón nhận sứ điệp ấy. Bởi PDV nhắc linh mục nhớ rằng, bản thân linh mục không phải là “chủ nhân” của Lời nhưng là “thừa tác viên”. Do đó, linh mục khi thi hành tác vụ Lời Chúa thì không rao giảng Lời của mình nhưng là tôi tớ nói Lời của Chúa Kitô và của Hội Thánh[30]. Nói cách khác, để là người phục vụ Lời thì đời sống linh mục phải trở nên thân thuộc với Lời[31], trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô qua việc “đến” và “ở lại” trong Lời Chúa[32].
(ii)Thừa tác -vụ Bí tích:
Khi linh mục thi hành thừa tác vụ Bí tích là lúc linh mục nên giống Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt là cử hành Bí tích Thánh Thể. Bởi PDV xác định một khi linh mục tiến dâng hy lễ cứu độ duy nhất nơi bàn tiệc vượt qua thì linh mục được thúc đẩy dấn thân phục vụ Dân Chúa để nuôi dưỡng họ bằng Lời và các Bí tích, đồng thời sẽ là chứng nhân đích thực cho đức tin và đức ái, sẵn sàng hiến dâng mạng sống như Chúa Kitô đã hiến mạng sống cho đoàn chiên và cho Thiên Chúa[33]. Trong PDV số 23 đã khẳng định:
“Chính từ Bí tích Thánh Thể mà linh mục nhận được ơn và trách nhiệm mặc cho toàn thể cuộc sống mình một ý nghĩa ‘hy tế’.”
Như thế, thừa tác vụ Bí tích một mặt được Hội Thánh đồng hóa với chức năng tư tế của Chúa Kitô, mặt khác đó cũng là phương thế để linh mục mỗi khi cử hành Bí tích thì nên giống Chúa Kitô nhập thể[34], dấn thân phục vụ và hy sinh tính mạng để cứu độ đoàn chiên[35].
(iii) Lãnh đạo cộng đoàn:
PDV trình bày sứ vụ thứ ba của linh mục liên quan đến vai trò lãnh đạo cộng đoàn. Tuy tài liệu dùng thuật ngữ truyền thống “munus regendi” (quyền cai quản)[36], nhưng vai trò này được PDV định hướng và mô tả là “đức ái mục tử”[37]. Vậy sứ vụ này được linh mục thi hành thế nào trong cộng đoàn?
Trước hết, qua Bí tích Truyền Chức Thánh, linh mục được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu và là Mục Tử, nhờ đó linh mục được thông dự vào “quyền năng thiêng liêng” mà Chúa Kitô dùng để dẫn dắt Hội Thánh[38]. Vì thế, linh mục là mục tử trong tư cách thủ lãnh không phải để thống trị nhưng là tôi tớ cúi mình phục vụ đoàn chiên, là dám trao hiến trọn vẹn đời mình cho đoàn chiên, kể cả mạng sống của chính mình để đoàn chiên được sống[39]. Ngoài ra, linh mục còn là mục tử có trái tim và lòng dạ của người mẹ[40]. Bởi vì, linh mục không chỉ ở trong và thuộc về cộng đoàn mà linh mục còn phải đối diện với cộng đoàn[41], nhờ thế linh mục sẽ có khả năng yêu thương, khả năng chịu đựng những “đau đớn do việc sinh con” cho đến khi “Đức Kitô được thành hình” trong các tín hữu[42].
Tiếp đến, PDV số 26 đưa ra gợi ý để linh mục sống đức ái mục tử:
“Đây là một thừa tác vụ đòi linh mục phải có một đời sống thiêng liêng sâu đậm, giàu những phẩm cách và nhân đức dành riêng cho người ‘chủ tọa’ và ‘chỉ đạo’ một cộng đoàn… Đó là lòng trung thành, tính nhất quán, sự khôn ngoan, khả năng tiếp nhận mọi người, thái độ hoà nhã. lòng vô vị lợi tự bản thân, tính kiên nhẫn.”
Do đó, linh mục nên giống Chúa Kitô trong sứ vụ lãnh đạo cộng đoàn là phải mang tâm tư và trái tim mục tử như Chúa Kitô[43], một thái độ đượm đức ái mục tử[44].
KẾT LUẬN
Có thể nói, văn kiện PDV là một khảo luận về mầu nhiệm căn tính linh mục, đồng thời PDV vẫn tiếp tục soi sáng cho đời sống linh mục hôm nay trong việc canh tân và trở về với cội nguồn đích thực của người linh mục là trở nên giống Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành[45]. Nói cho cùng, linh mục được chọn và gọi là để bước đi theo Chúa Kitô, vì Người là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Đó chính là mầu nhiệm đức tin Kitô giáo mà chúng ta được mời gọi mỗi ngày phải tuyên xưng[46].
Thật vậy, hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành và giàu lòng thương xót có thể được tóm gọn và trở nên khuôn đúc cho cuộc đời người linh mục hôm nay như sau: Chúa Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa, Người đã nhập thể trong thân phận phàm nhân, Người sống như chúng ta, Người còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập giá vì chúng ta[47]. Cả cuộc đời của Người là bài ca tình yêu của Mục Tử đã hiến mạng sống vì đoàn chiên[48]. Hơn nữa, Người đã yêu mến tất cả đoàn chiên bằng một trái tim nhân loại đến nỗi trái tim cực thánh của Người đã bị đâm thâu vì tội lỗi và để cứu độ đoàn chiên[49]. Nói như CĐ Vaticanô II: “Khi nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã nên một với mọi người”[50], để rồi Người làm mọi sự là cho chúng ta, Người không sống cho bản thân nhưng là cho chúng ta[51].
Như vậy, người linh mục hôm nay được mời gọi đi vào sự hiệp thông các mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô[52], đó là một dấu chỉ tình yêu ở mãi nơi cuộc đời linh mục và cũng là để uốn lòng người linh mục nên giống trái tim mục tử của Chúa Kitô [53]. Có thế, người linh mục sẽ được nâng đỡ trên đường lữ hành của hôm nay và ngày mai [54], đồng thời linh mục được tình yêu Chúa Kitô thúc bách mang yêu thương và sống chứng nhân giữa đời [55]. Thiết nghĩ, đó chính là ý nghĩa của linh đạo tử đạo mỗi ngày trong đời sống linh mục.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 109 (tháng 11 & 12 năm 2018)
__________
[1] Xem (x). NGUYỄN NGỌC VINH, SDB, Người chạnh lòng thương, nxb. Tôn Giáo, 2016, tr.191-199.
[2] x. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục (16.06.2009), Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-tuyen-bo-cu-hanh-nam-danh-cho-cac-linh-muc-17934, truy cập 06/2020
[3] ĐTC Bênêđictô XVI đã có sáng kiến công bố Năm linh mục 2009 – 2010 nhân dịp kỷ niệm 150 năm qua đời của thánh Gioan Maria Vianney, ngài không chỉ là bổn mạng các cha sở mà còn là bổn mạng của các linh mục. x. Như vẫn trích (nvt.).
[4] x. Kinh Sách các bài đọc, Tập 4, Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, phần Lời nguyện ngày lễ thánh Gioan Maria Vianney, nxb. Tp.HCM, 1999, tr.514.
[5] x. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục.
[6] x. RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fire – A New Pentecost for the Catholic Priesthood (Vàng được thử lửa – Một lễ Hiện Xuống mới cho hàng Linh mục Công giáo), Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS và Nhóm Anh Việt 2014 Đại Chủng Viện Huế dịch, nxb. Tôn Giáo, 2015, tr.5.
[7] x. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục.
[8] x. RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fire., sách đã dẫn (sđd.), tr.7.
[9] GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25.03.1992), Bản dịch của Lm. Phaolô Đậu Văn Hồng, nxb. Hồng Đức, 2015. Viết tắt: PDV.
[10] Đức Giêsu mời gọi các môn đệ: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,48 GKPV). Để thuận tiện việc theo dõi, các trích đoạn Kinh Thánh ( bản dịch tiếng Việt ) trong bài viết được người viết trích từ: Kinh Thánh (Ấn bản 2011), Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (GKPV), nxb. Tôn Giáo, 2011.
[11] x. Công Đồng (CĐ) VATICANÔ II, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis (07.12.1965), Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2012, số 12. Viết tắt: PO.
[12] Gr 3,15 GKPV.
[13] x. PDV 1.
[14] Ga 10,11 GKPV.
[15] Hr 13,20 GKPV.
[16] Dung mạo đích thực của Linh mục được PDV khẳng định: “Chắc hẳn luôn luôn có ‘một diện mạo cốt yếu, không thay đổi, của người linh mục: thực vậy, không kém gì linh mục hôm nay, linh mục ngày mai sẽ phải nên giống Chúa Kitô’” (PDV 5).
[17] x. PDV 12.
[18] x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Lịch sử linh đạo, Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn, 2009, tr.56-59.
[19] x. PDV 15 – 18.20 – 23.
[20] x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận nên giống Chúa Giêsu Kitô mục tử, Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn, 2013, tr.36.
[21] x. PDV 3.16.22 – 23.25.29.
[22] PDV 22.
[23] x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận…, sđd., tr.38.
[24] x. PDV 11.13.16.
[25] x. PDV 15.16.
[26] x. PDV 21.
[27] x. PDV 23.
[28] x. RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fires đd., tr.27.
[29] x. PDV 26.
[30] x. PDV 26
[31] x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận…, sđd., tr.72.
[32] x. Ga 1,39.
[33] x. PDV 15.
[34] x. Dt 10,4 – 7 (x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận., sđd., tr.73.)
[35] x. PDV 26.
[36] x. PDV 26.
[37] x. PDV 21 – 23.
[38] x. PDV 21.
[39] x. PDV 21 – 23. Riêng ở số 23, PDV nhấn mạnh: “Cốt lõi của đức ái mục tử là trao hiến chính mình, trao hiến hoàn toàn cho Giáo Hội, theo hình ảnh sự trao hiến của Đức Kitô và thông phần với Ngài.”
[40] x. PDV 22.
[41] x. PDV 16.22.
[42] x. Gl 4,19 (x. PDV 22).
[43] x. Pl 2,5.
[44] x. PDV 21 – 23.26.
[45] x. RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fires đd., tr.41.
[46] x. FRANCIS, Bull Of Indiction Of The Extraordinary Jubilee Of Mercy “Misericordiae Vultus” (11.04.2015). “Jesus Christ is the face of the Father’s mercy. These words might well sum up the mystery of the Christian faith.” (no. 1).
[47] x. Ga 1,14; Pl 2,5-8; 1Tm 3,16.
[48] x. Gl 2,20.
[49] x. Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo (11.10.1992), Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2010, số 478. Viết tắt: GLCG.
[50] CĐ VATICANÔ II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (07.12.1965), Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2012, số 22.
[51] x. GLCG, 519.
[52] x. GLCG, 521.
[53] x. PO 12; PDV 21.23.27.
[54] x. GLCG, 1418-1419.
[55] x. 2Cr 5,14.
__________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ THÁNH KINH
- Kinh Thánh (Ấn bản 2011), Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (GKPV), nxb. Tôn Giáo, 2011.
II/ HUẤN QUYỀN
- CĐ VATICANÔ II, Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2012.
- Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (07.12.1965).
- Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis (07.12.1965).
- BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục (16.06.2009), Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-tuyen-bo-cu-hanh-nam-danh-cho-cac-linh-muc-17934, truy cập 06/2020
- FRANCIS, Bull Of Indiction Of The Extraordinary Jubilee Of Mercy “Misericordiae Vultus” (11.04.2015).
- GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25.03.1992), Bản dịch của Lm. Phaolô Đậu Văn Hồng, nxb. Hồng Đức, 2015.
- Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo (11.10.1992), Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2010.
Lm. Tôma Aquinô Nguyễn Đức Khôi
III/ CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
- Kinh Sách các bài đọc, Tập 4, Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, nxb. Tp.HCM, 1999.
- NGUYỄN NGỌC VINH, SDB, Người chạnh lòng thương, nxb. Tôn Giáo, 2016.
- NGUYỄN TRỌNG SƠN, Lịch sử linh đạo, Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn, 2009.
- NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận nên giống Chúa Giêsu Kitô mục tử, ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn, 2013.
- RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fire – A New Pentecost for the Catholic Priesthood (Vàng được thử lửa – Một lễ Hiện Xuống mới cho hàng Linh mục Công giáo), Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS và Nhóm Anh Việt 2014 Đại Chủng Viện Huế dịch, nxb. Tôn Giáo, 2015.
2020
Từ cảm thức được yêu thương đến văn hóa lòng biết ơn
- LỜI ĐẦU
Là con người ai cũng có trái tim, ai cũng biết yêu thương và muốn được yêu thương. Tình thương góp phần rất lớn trong việc hình thành phát triển con người toàn diện. Tình thương, nếu biết cảm nhận, nó sẽ giúp cho con người vượt mọi gian khó để thành công trong cuộc sống và hạnh phúc trong tâm tình biết ơn vun đắp tình người.
Là người, ai cũng có một gia đình, một quê hương, dù là ở thôn quê, ngoại ô, hay thành thị. Là người, dù ở tôn giáo nào hay không tôn giáo, dù là chủng tộc nào hay quốc gia nào, con người cũng hưởng tình liên đới huynh đệ, nhờ nhau để sống, cộng tác với nhau để phát triển mọi khía cạnh, bởi lẽ không ai là một hòn đảo. Ý thức được điều này con người sẽ gia tăng tinh thần trách nhiệm liên đới và sẽ đạt được quyền lợi chung nhiều hơn.
Cuộc sống con người, dù ở xã hội nào, chính thể nào cũng có điều tốt và điều xấu, cũng phải chạm trán với thách đố và sự cố do thiên tai hay sự thiếu ý thức mình được yêu thương mà gây ra đổ vỡ, hậu quả tác hại lẫn nhau. Chỉ khi con người biết nhìn lại, rút kinh nghiệm, mình đã được yêu thương, được nhận lãnh; tới lượt mình, mình cũng phải đáp đền bằng sự tôn trọng nhân vị, bác ái chân thành với tha nhân. Có được như thế, thì con người mới có an bình nội tâm và thế giới mới có hòa bình.
Cuối cùng, qua tình gia đình, quê hương, Giáo hội, và xã hội được xem như yếu tố căn bản để con người vươn tới tình Chúa. Vì con người chỉ là thụ tạo, dù có nỗ lực đến đâu cũng không lấp đầy khát vọng vô biên và bù đắp lại sự giới hạn của con người. Chỉ có Chúa là Đấng Tạo Hóa, quyền năng, Ngài tạo dựng con người, Ngài có quyền cho chết và làm cho con người sống lại. Hơn nữa, tình yêu Chúa viên mãn, không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu thí mạng sống cho người mình yêu. Lòng Chúa thương xót không gì có thể đo lường được. Do đó, mục đích đời người là cảm thức mình được Chúa yêu thương, để sống tình con thảo là đền đáp ơn Chúa bằng cách yêu Chúa hết lòng hết trí và thương tha nhân như chính mình vậy.
- QUẢNG DIỄN
- Cảm thức tình thương từ lòng đất mẹ.
- Nơi thôn làng:
Cho dù họ được sinh ra nơi thôn làng, dưới mái nhà đơn sơ, bên hàng rào dậu, bên lũy tre làng, có dòng sông nhỏ… họ thường kể cho tôi nghe, họ vẫn nhớ lắm:
Tiếng gà gáy như đồng hồ báo thức, người người thức giấc để lo phận việc mình, người đến nhà thờ, người đọc kinh, người ra đồng ruộng, người làm vườn, người nấu nướng, người dọn hàng… nhịp sống quê tôi làm cho con người kiên nhẫn, bình dị. Từ buổi sáng sớm trong bầu khí yên tĩnh, tươi mát, trong lành, có sương sa làm óng ánh hai bên bờ cỏ, có hương thơm hoa cỏ đồng nội chan hòa khắp nơi.
Trưa về trời nắng có cốc chè tươi, có ly nước mía, có trái dừa xiêm, có gáo nước lạnh, ai mà dễ quên. Tháng hạ, thoang thoảng từ xa làn gió nhẹ lướt qua giữa trưa hè oi bức, thường đánh vào các hàng tre chạm nhau, âm vang hòa cùng gió uốn mình du dương. Đám trẻ thích thú vì không ngủ trưa để trèo cây khế, cây mận, cây xoài, cây me… hái trái mãng cầu, trái ổi, trái chùm ruột, trái đu đủ, trái thanh long… ôi quê hương sao ý vị quá!
Tiếng ụm ọ của đàn bò báo hiệu một ngày đã xong nhiệm vụ, chúng reo vui trở về chuồng, mùi thơm của mùa lúa mới, mùi rơm rạ đang cuốn về nhà. Từng người gánh gồng lúa về như thành quả thu hoạch của ngày lao nhọc đã qua. Tiếng trẻ thơ vô tư đùa giỡn, thả diều trong những chiều gió lộng, chạy đá banh trên sân cỏ, làm đẹp thêm nếp sinh hoạt của quê nhà. Một ngày vất vả nhưng hôm nào có lễ chiều, họ cũng nhanh nhẹn sắp xếp để đến tham dự thánh lễ. Sau thánh lễ nhóm trẻ còn tập hát hay học giáo lý nữa.
Những đêm trăng sáng là bức tranh màu pha ánh sáng huyền dịu, như phụ họa xa xa cho tiếng hát hò bên chày giã gạo, tiếng ca dao tục ngữ của đôi nam nữ tát nước vọng về. Gần hơn, chỗ nọ gia đình hàn huyên trước sân nhà trên võng hay chõng tre, chỗ khác nữa đám trẻ chơi trò cút bắt la hét vô tư. Tháng Đức Mẹ họ họp nhau từng nhà để đọc kinh liên gia…
Vào mùa đông, thường có mưa gió và bão lụt, những lúc này, càng biểu hiện rõ hơn sự quan tâm giúp đỡ của người lớn “lá lành đùm lá rách”, trẻ thơ thì có kỷ niệm chèo sõng, lấy ván bơi thuyền, tắm mưa, lội nước bạc, bắt cá trắng, cá chốt, cá tràu, cá trê…
Tình làng nghĩa xóm, đơn giản trao nhau tiếng cười chân chất nhưng đượm lòng thành. Nay tô chè, mai bát cháo, một chút đặc sản đầu mùa họ đem sang cho nhau để làm quà. Nỗi buồn vui khi bất ngờ đến cho một gia đình nào thì như niềm vui và nỗi buồn của cả làng. Với công việc đồng áng, họ biết làm dần công, hợp tác, nay cùng nhau cấy cày ruộng cho nhà này, mai tới phiên nhà kia, cứ thế xoay chuyển. Đình làng là nơi hội tụ các lễ hội và giải trí vui chơi, theo các tập tục cha ông để lại đã thành truyền thống vừa ý nghĩa vừa gây tình đoàn kết xóm làng. Tiếng chuông nhà thờ vang vọng linh thiêng, hay tiếng gõ mõ chùa chiền trầm mặc, là lời mời gọi dân làng đến tôn thờ Đấng họ suy tôn và cầu cho dân bình an, đạo đức, đất nước giàu mạnh, cảnh vật thái hòa.
Ngày ngày, tuổi thơ họ được hình thành, họ lớn lên, giờ mang ký ức đầy ắp tình thương của Chúa qua gia đình, bạn bè, hàng xóm, quê làng. Vì chiến tranh, vì hoàn cảnh, họ phải từ giã quê hương. Họ cùng số phận với bạn bè, sống kiếp tha phương, người ở cao nguyên, người ở đồng bằng, kẻ ở đô thành, người ở thôn quê, kẻ ở Việt Nam, người ở hải ngoại. Nhưng họ cùng có mẫu số chung, họ chắc chắn rằng: nhờ được nuôi dưỡng trong sự đùm bọc lẫn nhau, nhờ được các vị tiền bối nhắc nhở, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn, và nhất là nhờ sự tự ý thức họ cảm nhận dần dần được sự yêu thương từ gia đình, từ quê hương, từ lòng đất mẹ, nên họ mang nỗi niềm nhớ nhung sâu thẳm về tình nghĩa mà họ đã lãnh nhận được, hấp thụ được từ nghĩa cử thân tình của tất cả những người thân trong gia đình cũng như của láng giềng, bà con hàng xóm. Họ xốn xang niềm thương nhớ khi ký ức gợi về: “Quê hương là chùm khế ngọt. Cho con trèo hái mỗi ngày. Quê hương là đường đi học. Con về rợp bướm vàng bay. Quê hương là con diều biếc. Tuổi thơ con thả trên đồng. Quê hương là con đò nhỏ. Êm đềm khua nước ven sông… Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một Mẹ thôi. Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người” (Thơ: Đỗ Trung Quân. Nhạc: Giáp Văn Thạch).
Và khi cầu nguyện với Chúa, nhớ về công ơn cha mẹ, nhớ về tình Chúa bao la, họ thấy mình quá bé nhỏ, không biết lấy gì đền đáp và dâng lên Ngài, chỉ có lòng biết ơn là lấy tình yêu đáp trả tình yêu mới làm yên lòng những người thụ ơn, như nhạc sĩ Cao Huy Hoàng đã cảm hứng “ Cuộc đời này con có gì mà dâng Chúa đâu, những luống cày sâu trời tối mau cha chưa kịp về. Mẹ bận rộn từng ngày lo no cơm ấm áo, có chi đâu, Ngài ơi có chi mà dâng lên Ngài… Con xin tiến dâng lên tình yêu mến nhờ những hy sinh được êm ấm gia đình. Con xin tiến dâng lên tình yêu mến, nguyện Chúa đoái thương gia đình con được bình an!”
Nhìn lại các anh chị, bà con di dân trong hội đồng hương, họ cùng mang tâm sự gần như nhau. Họ bảo nhau, với tình thương mình được lãnh nhận từ lòng đất mẹ, mình sống sao để mình vẫn chính là mình, không tha hóa. Mình biết ơn nơi đã đào tạo ra mình, mình ra đi, mình có cơ may hơn người ở lại. Mình phải làm gì? Thế rồi, thật đáng kính, nơi đất khách, cả trong nước lẫn nước ngoài, họ cũng vất vả lầm than, có người từng buôn gánh bán bưng, làm thuê làm mướn, vất vả nơi các công xưởng, hay tiệm hàng từ sáng sớm đến chiều tà. Phải nỗ lực để thích nghi với ngôn ngữ, văn hóa, hoàn cảnh của cuộc sống mới. Vậy mà, với lòng biết ơn, họ nhớ cầu nguyện, thăm hỏi, dành dụm để vừa nuôi sống mình và vừa gởi về cho cha mẹ, anh chị em, bà con còn ở quê nhà, họ còn chia sẻ để giúp đỡ đồng bào nghèo, người gặp cảnh khó khăn. Có những cụ già để dành tiền hưu, tiền trợ cấp, tiền bệnh tuổi già, có những người đi nhặt lon hay đồ phế thải bán, gom góp gởi về quê hương mình. Tất cả các nghĩa cử cho đi của họ như bắt nguồn từ một nhận thức “mình được yêu thương nên mình phải có lòng biết ơn”. Có lẽ cũng vì lý do này mà một số bạn trẻ đã quyết “ra đi” để có một chút gì đó để đền đáp cho gia đình, cho quê hương mình, nên họ (ít nhất là 39 bạn trẻ) đã bị chết cóng trong container của các xe đông lạnh trên hành trình họ đi mà họ chưa tới nơi họ muốn tới trong năm 2019 vừa rồi! Và ngược dòng thời gian, cao điểm là biến cố 1975, có biết bao người vì gia đình, vì tổ quốc, họ đã phải ra đi và nhiều người đã chết trên đường bộ, đường rừng, đường biển vì hải tặc, bão tố, hay thiếu lương thực…
- Nơi thành thị:
Cho dù họ được sinh ra nơi đô thành, giữa bao nhiêu tiện nghi và tiếp xúc với nhiều văn minh kỷ thuật tân tiến… họ đã chia sẻ cho tôi nghe, họ vẫn nhớ lắm:
Từ khi mình chập chững vào đời, khi bắt đầu có trí nhớ, tuổi thơ mình được cưng chiều nhưng ba má cũng kỷ luật lắm để huấn luyện mình. Phòng mình rộng như phòng ba mẹ mình, được trang hoàng đẹp, với đủ loại đồ chơi. Ngoài ba má chăm sóc, vỗ về mình còn có chị nuôi phụ ba má lo cho mình và anh hai của mình nữa.
Mỗi lần ra khỏi nhà, nhất là đi học ba đưa mình đi bằng xe con. Bạn Mai gần bên nhà, học cùng lớp nó không có xe đi, mình đã xin ba cho bạn cùng đi với hai anh mình, thế là mình vui cám ơn ba, cám ơn bạn Mai đã chịu đi với mình. Trên trường có lần bạn kia đã làm khổ mình: “Đừng chơi với con nhà giàu bay, nó hách lắm”. Lúc đó, mình đâu có hiểu hách là gì! Nhưng may có bạn Mai đã bào chữa cho mình. Mỗi lần đi học má thường chuẩn bị cho mình đủ thứ thức ăn để giờ ra chơi mình dùng, mình không hiểu sao lúc ấy mình hay mời các bạn, nhất là các bạn không có gì để ăn, có một bạn nghèo kia, khi cầm miếng bánh mì kẹp bơ thịt mình trao cho, mắt bạn rưng rưng, mình cũng chẳng hiểu tại sao, bây giờ mình vẫn tự hỏi; bạn muốn khóc vì lòng tốt của mình, hay bạn tủi thân vì hoàn cảnh gia đình của bạn?. Học hành thì mình cũng khá, đâu lạ gì, vì có gia sư dạy thêm cho mình tại nhà. Có bạn Hùng ngồi gần bên không hiểu bài hỏi mình, mình không chỉ cho bạn, bạn tức mình viết vào mảnh giấy với hàng chữ “nhà giàu, học giỏi mà ích kỷ, xấu quá!” rồi dán vào lưng mình. Biết được, mình khóc, về méc ba, ba đâu có bênh mình, ba bảo: “lần sau con nhớ giúp cho bạn hiểu mới phải chứ, vì con có điều kiện để học hơn bạn của con mà”. Giờ chơi ở sân trường, có mấy lần mình chỉ chơi với bạn Mai và bạn Chói, cô giáo chủ nhiệm đã nhắc nhở: “Giờ chơi, chúng con nên chơi chung với nhau, để sau này lớn lên chúng con có sự quan tâm chung đến mọi người, nhất là những người kém may mắn. Chúng con sẽ cộng tác với nhau để giúp xây dựng nước nhà. Mình còn có anh hai, hai anh em hay quấn quýt bên nhau, nhưng mỗi lần anh giành đồ chơi của mình, hay trêu chọc mình là con gái thế này, con gái thế kia, mình thua la hét thật to để ba má nghe và đến cứu hộ cho mình. Lần nào anh hai cũng bị nặng tội hơn, vì anh vai lớn. Bây giờ mình thấy tội nghiệp anh hai, vì có mấy lần mình vu oan cho anh, vì thương em không bao giờ anh biện hộ lại, âm thầm bị ba má rầy la. Giờ này, mình thấy hối hận, muốn nói lời xin lỗi anh, nhưng anh đã mất rồi! Mình cảm nhận được tình thương của anh và hứa sẽ không bao giờ vu oan cho ai nữa.
Vào các ngày nghỉ, ba má đưa mình đi các nơi dã ngoại như Sở Thú, Đầm Sen, Suối Tiên, Đại Nam… vv, rồi vào nhà hàng dùng bữa. Khi đi ngang qua đường phố mình thấy có thằng bé âm thầm đi vào ngõ nhỏ, một chén cơm chiều, lòng nó vẫn chưa no. Rồi có mấy em bé hoặc các cụ già nghèo khổ đói rách khắp đó đây, ở các góc phố, họ bán vé số hay ăn xin lòng hảo tâm của mọi người. Hai bức họa nhân sinh quá khác biệt nhau, một bên sung túc đầy đủ, một bên cơ hàn túng thiếu, tuổi thơ mình đã in hình bóng hai bức họa đó, mãi sau này mình mới hiểu những người may mắn là những người lấy bớt phần nào hạnh phúc của người bất hạnh. Một lần nọ, vào tiệm ăn sáng, ba mẹ thấy mình cứ chăm chăm nhìn cô bé bẩn thỉu tiến đến một vị khách kia đã dùng xong tô phở và bé đó húp chút nước phở còn thừa lại. Như hiểu ý mình, má đưa cho mình mấy đồng để tặng cô bé đáng thương kia. Cô bé mở đôi mắt tròn xoe, nhìn mình miệng nhoẻn cười. Sau này mình mới hiểu, cô bé đã cho mình một bài học lạc quan trong cuộc sống.
Ngoài gia đình, học đường, tuổi thơ mình còn được ươm trồng nơi giáo xứ, có cha, thầy, soeurs, anh chị giáo lý viên, anh ca trưởng và các bạn ca đoàn. Các vị có trách nhiệm này luôn cho mình gương chứng nhân hơn thầy dạy. Mình được học sự lễ phép và cách sống đạo. Sau này mình hiểu đây là nền tảng cho đời sống nhân bản và đời sống Kitô giáo. Để cảm thông với hoàn cảnh tội nghiệp, thỉnh thoảng các anh chị huynh trưởng đưa các bạn và mình đi thăm các nơi như: trại cùi, cô nhi viện, bệnh viện, nhà khuyết tật, trại tù binh… Lại thêm những hình ảnh đối nghịch nhau vào tâm trí tuổi thơ mình lúc này. Bao nhiêu câu hỏi tại sao đã dấy lên trong trí óc bé nhỏ của mình lúc bấy giờ! Sau này mình mới hiểu, đó là lý do Chúa phải xuống thế để làm người, chia sẻ phận người và vực con người lên.
Thời gian dần trôi, hết cấp I, cấp II rồi cấp III, mình phải cùng ba má sang định cư tại Hoa Kỳ. Nơi đây, mình tiếp tục được may mắn, với hồng ân Chúa trải dài bên những người thân, bên các giáo sư và bạn bè cùng với sự cố gắng của mình, mình đã tốt nghiệp ngành Y. Mình nhận định rõ, một dòng chảy xuyên suốt lịch sử đời mình, về sự nhận lãnh được yêu thương, nên mình có trách nhiệm phải có lòng biết ơn. Ý thức này đánh động, mình nhớ lại những người bất hạnh trong ký ức mình và hiện tại vẫn còn nhan nhản đây đó, mình đã chia sẻ phần lương để gởi đến những mảnh đời đau thương trong cuộc sống họ. Hơn bao giờ hết, bắt đầu từ khi dịch Virus Corona bùng phát, mình cùng anh chị em đồng nghiệp sát cánh bên nạn nhân Covid -19. Đây là đỉnh điểm mình thấy ơn sâu nghĩa nặng của ba má, anh hai, cha sở, thầy cô, ân thân nhân, bạn hữu… kết tụ lại như dòng cảm thức mạnh nhất và thôi thúc mình theo bước Đức Kitô, xông pha vào chiến trận đại dịch với cái chết cận kề, để thực thi văn hóa của lòng biết ơn cho tha nhân đang quằn quại trong khổ đau. Hiện tại mình thật tâm đắc qua lời suy tư trong bài viết “Giá trị cao quí của ngành y, đừng đánh mất một lần nữa” của Linh mục Trần Thái, SDB, (Vatican News, 19/4/2020): “… Người thầy thuốc Công Giáo trở thành người mang sứ mệnh bước theo Chúa Giê-su, thông qua cửa ngõ bệnh tật thể lý của người bệnh, để biểu lộ hình ảnh sống động về sự ân cần chữa lành của Đức Ki-tô đầy thương xót dành cho mỗi một bệnh nhân, là công trình quý báu do chính Thiên Chúa đã tạo dựng và cứu chuộc. Đó là một ơn gọi, một sứ mệnh thiêng liêng, vượt xa hơn hẳn một ngành nghề… “.
- Cảm thức tình thương qua liên tôn giáo, liên quốc gia:
Dù là người sinh ra ở đâu, thuộc sắc tộc nào, tôn giáo nào, bậc sống nào… họ cũng cho tôi bài học của sứ điệp được yêu thương và cần đáp trả lại với lòng biết ơn:
Vâng, khi các nước như châu Mỹ, châu Âu, châu Úc họ đã đón nhận người từ châu Á, châu Phi vào nước họ trên các đợt di dân tị nạn chiến tranh- kinh tế, hay các doanh nhân giao lưu thương mại của nước thứ ba, hay các du học sinh quốc gia nghèo… là dấu chỉ tình thương và lòng nhân đạo. Chắc hẳn, động lực tiếp nhận của họ bắt nguồn từ sự cảm nhận rằng: họ cũng đã từng được nhận lãnh tình thương nhưng không từ ân ban của Đấng Tạo Hóa thì họ cũng phải cho lại người khác cách nhưng không.
Vâng, dù là Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao đài hay các tôn giáo khác, qua chương trình Đại Kết, qua việc Đối Thoại Liên Tôn đã nói lên sự gắn bó của một tình mến và sự tôn trọng nhau. Cụ thể, khi việc khẩn cấp đến, như thiên tai, đại dịch hay biến cố đau thương nào… dù là linh mục, tu sĩ, mục sư, tăng – ni ; dù là Phật tử, Kitô hữu, tín hữu đạo nào, hay là người không có đạo nào… tất cả cùng mang tâm trạng xót xa, cầu xin cho mau tai qua nạn khỏi, và dành thời gian an ủi tinh thần, chia sẻ vật chất cho các nạn nhân. Gần đây nhất, vào ngày 14/5/2020, Ủy ban cấp cao về Tình huynh đệ Nhân Loại đã kêu gọi gia đình nhân loại: “… Chúng tôi kêu gọi tất cả các dân tộc trên thế giới, tùy theo niềm tin tôn giáo của mình, hãy cầu nguyện, ăn chay và làm việc lành để góp phần chấm dứt đại dịch Covid-19 này. Ước gì mỗi người chúng ta, dù ở đâu, khi tuân theo các giáo huấn của các truyền thống và triết lý tôn giáo của chúng ta, biết tìm kiếm sự giúp đỡ thiêng liêng để cứu chính chúng ta và toàn thế giới thoát khỏi nghịch cảnh này, để truyền cảm hứng cho các nhà khoa học tìm ra phương thuốc diệt virus và cứu cả thế giới thoát khỏi những hậu quả về sức khỏe, kinh tế và nhân đạo của cuộc khủng hoảng nghiêm trọng này… ” (Minh Đức chuyển dịch từ bản tiếng Anh, phỏng theo thông cáo của Ủy ban cấp cao về Tình huynh đệ Nhân Loại./ Văn phòng Đối thoại liên tôn và Đại kết/HĐGMVN).
- Cảm thức tình thương qua bài học nơi các biến cố:
Qua cơn lụt Đại Hồng Thủy Chúa đã cho xuất hiện cầu vồng nhiều màu sắc để khi con người nhìn lên đó thì nhớ đến Giao ước tình yêu của Chúa, “từ nay sẽ không còn trận lụt nào như thế nữa… “. (x. St 9, 11- 16). Bài học cho con người, dù họ bất tín – bất trung, Chúa vẫn thương nhắc nhở và chờ đợi sự sám hối của họ để tiếp tục chúc lành cho họ.
Qua câu chuyện tháp Ba-bel, cho thấy con người không nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, ai cũng muốn thống trị, nên Thiên Chúa cho tháp sụp đổ, dấu chỉ yêu thương nhắc nhở sự bất toàn và giới hạn của con người, họ không thể hiểu hết các ngôn ngữ của nhau, nhất là các ngoại ngữ. (x. St 11, 1 – 9)
Cuộc đi đày Babilon: Cho dân Chúa bài học, con người thờ kính Chúa không phải đặt nặng vào đền thánh, đền thờ, không dừng lại ở các nghi thức lễ nghi bên ngoài; nhưng chính là ở sự sám hối, trở về trong cõi lòng, đáp trả bằng tình thương, không phải bằng của lễ chiên bò được thiêu đốt, mà chính là sự hy sinh bỏ mình, bác ái với tha nhân.(x. Xh.28-29).
Hai thế chiến: Thế chiến thứ nhất (28/7/1914 – 11/11/2018), cuộc chiến giữa phe Hiệp Ước (chủ yếu là Anh, Pháp, Nga và sau đó là Hoa Kỳ, Brazil) và phe Liên Minh (chủ yếu là Đức, Áo-Hung, Bulgarie và Ottoman). Ước đoán số người chết là 19 triệu người, với sức tàn phá và ảnh hưởng vật chất tinh thần cho nhân loại rất sâu sắc và lâu dài (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/chiến- tranh- thế- giới- thứ -nhất). Thế chiến thứ hai (1939-1945) diễn ra giữa các lực lượng Khối Đồng Minh và Phe Trục theo chủ nghĩa Phát-xít. Hầu hết các lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng bởi thế chiến này, ngoại trừ Nam Cực và Nam Mỹ. Đây là cuộc chiến có quy mô rộng lớn và gây nhiều tàn phá nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng 70 triệu người chết trong cuộc chiến này (số thương vong vẫn tiếp tục được nghiên cứu), kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức Quốc Xã (Holocaust). Trong số thương vong có 60% người chết là thường dân, chết vì nạn dịch, bệnh đói, nạn diệt chủng và bom đạn (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/ chiến tranh thế giới thứ hai). Bài học của hai thế chiến này đã cho các Quốc gia ngồi lại và thiết lập Liên Hiệp Quốc (LHQ), vào ngày 25/4/1945, năm mươi chính phủ đã họp tại San Francisco cho một hội nghị và bắt đầu soạn thảo Hiến Chương và được thông qua vào này 25/6/1945. LHQ là một tổ chức liên chính phủ có nhiệm vụ duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, ngăn chặn các cuộc thế chiến, phát triển liên hệ hữu nghị giữa các quốc gia như bảo vệ quyền con người, cung cấp viện trợ nhân đạo, thúc đẩy phát triển bền vững và duy trì luật pháp quốc tế. LHQ là tổ chức liên chính phủ lớn mạnh nhất thế giới. Thời gian đầu mới thành lập LHQ có 51 quốc gia thành viên, hiện tại có 93 thành viên. (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Liên -Hiệp- Quốc).
Tòa nhà thương mại ở Hoa Kỳ vào ngày 09/11/2001 do nhóm Al-Qaeda.Vụ tấn công làm 2.996 người chết. Riêng vụ không tặc vào hai tòa nhà tháp đôi ở thành phố New York đã khiến 2.606 người thiệt mạng. Hơn 6.000 người khác bị thương, sau 17 năm, thi hài của hơn 1.000 nạn nhân thiệt mạng vẫn chưa xác định. Cuộc khủng bố này đã thiệt hại về tài sản và cơ sở hạ tầng ước tính 10 tỉ Mỹ kim, tổn thất tổng cộng 3 nghìn tỷ Mỹ kim. (https://vi.wikipedia.org/wiki sự- kiện 11 tháng 9) Bài học cho Đất nước Hoa Kỳ cũng như cho tất cả mọi dân tộc, mọi người: Tất cả thụ tạo/nhân tạo trên đời này không có gì là bền vững. Dù quốc gia nào hay con người nào có chức quyền, danh vọng, giàu sang, quyền lực thì trong phút chốc cũng có thể biến thành mây khói. Bài học trung dung, bình đẳng, không ngủ quên trên chiến thắng nhưng cần tỉnh thức và cầu nguyện, đó là nội dung nổi bật trong những biến cố đột phá này.
Biến cố đại dịch Covid-19: Không kể mặt tiêu cực với nhiều đau thương, mất mát, thiệt hại và tử vong; về phía tích cực nhiều người đã đánh giá cao trong tiến trình bùng phát dịch bệnh như: virus corona (Co-vi) có thể xâm nhập vào bất cứ ai, điều này nhắc nhớ thân phận con người, tất cả phải chấp nhận một định luật chung, một sự an bài của định mệnh. Nhờ Co-vi mà gia đình có giờ nhiều hơn sống với nhau, bớt ra hàng quán, hay bôn ba với công việc bỏ bê gia đình. Co-vi đã cho ta thấy rất nhiều tâm hồn quảng đại, dám liều mạng sống để cứu nạn nhân dịch bệnh, đó là các y- bác sĩ, các cộng tác viên, các linh mục và tu sĩ ở tuyến đầu. Co-vi giúp cho các học sinh dù ở hoàn cảnh nào cũng có thể học online, các đoàn thể cũng có thể họp hội qua mạng internet. Co-vi cũng tuyên dương các nhà hảo tâm, dù là quốc gia, công ty, đoàn thể hay cá nhân, họ đã rộng lượng chia sẻ vật chất với tình tương thân tương ái. Co-vi cho thấy rõ hơn sự quan tâm yêu thương của nhà lãnh đạo các quốc gia, của Giáo hội, cách riêng người cha chung, Đức Giáo hoàng Phanxicô, luôn kêu gọi việc hy sinh cầu nguyện cho nạn nhân và giúp đỡ an ủi tinh thần, chia sẻ vật chất bằng nhiều cách.
- Từ tình người suy tình Chúa
Chúng ta trải nghiệm tình mẹ cha, anh chị em, bà con, láng giềng, bạn hữu từ gia đình huyết thống, gia đình thiêng liêng, từ học đường, từ xã hội và Giáo hội. Dù có lúc người con, người học trò có bị la rầy hay đánh phạt, nếu họ biết vì yêu thương mình nên cha mẹ, thầy cô mới làm như thế, họ sẽ sống tình con thảo và cố gắng sống tốt để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, để nhớ ơn dạy dỗ của thầy cô, để quí sự cộng tác của bà con cũng như bạn hữu và những ai cùng mình đi trong cuộc sống trần gian này.
Cũng thế, người cảm nhận được tình Chúa, dù trong thử thách họ vẫn cảm nghiệm được điều tốt, ơn lành Chúa muốn cho mình và tri ân Chúa sống bác ái với tha nhân. Chính Đức Chúa Giêsu đã cảm thức về tình thương Chúa Cha thật sâu sắc qua lời Chúa Cha nói với Người : “Này là con Ta yêu dấu Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 17b). Với sự cảm thức này, Chúa Giêsu đã đi vào cuộc Tử nạn với lời xin vâng, để đáp tình Chúa cha, và Ngài làm Đấng Trung Gian ban cho nhân loại lòng thương xót vô bờ. Chúa Giêsu đã khẳng định” Cha Ta và Ta là một” (Ga 10,30).
Chứng thực về lòng Chúa thương xót Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô xác định định rằng: “Thiên Chúa không mệt mỏi đưa tay nâng chúng ta đứng dậy trong những lần chúng ta vấp ngã. Thiên Chúa muốn chúng ta thấy người là Cha và luôn nâng chúng ta đứng dậy mỗi khi chúng ta như đứa bé chập chững tập đi, té ngã rồi lại té ngã thì Chúa lại nâng chúng ta đứng lên, bàn tay nâng chúng ta đứng dậy chính là lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúa biết chúng ta không ngừng vấp ngã và Người sẵn sàng nâng chúng ta đứng lên. Chúa không muốn chúng ta cứ nghĩ đi nghĩ lại về những vấp ngã của mình nhưng muốn chúng ta nhìn lên Chúa, Đấng nhận ra những đứa con cần được nâng dậy trong những lần té ngã, nhìn thấy những đứa con cần được yêu thương và thương xót trong đau khổ”. Và Đức Thánh Cha mời gọi hãy đón nhận sứ điệp Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina “Ta là tình yêu và cũng là lòng thương xót. Không có đau khổ nào có thể sánh với lòng thương xót của Ta” (Đài RadioVatican 20/4/2020).
Đức Thánh Cha chia sẻ thêm: Câu trả lời của các Kitô hữu trước những giông bão của cuộc sống và lịch sử chỉ có thể là lòng thương xót: “Tình yêu thương và lòng trắc ẩn giữa chúng ta và đối với mọi người, đặc biệt những người đau khổ, vất vả mệt nhọc, bị bỏ rơi…” Đức Thánh Cha nói thêm: “Đó không phải là thái độ duy đạo đức, cũng không phải là thái độ duy trợ giúp, nhưng là sự đồng cảm đến từ trái tim. Lòng thương xót của Chúa đến từ Thánh Tâm của Chúa Kitô Phục Sinh. Nó xuất phát từ vết thương luôn mở ra của Người, mở ra vì chúng ta, những người luôn cần ơn tha thứ và an ủi. Lòng thương xót Kitô giáo cũng là nguồn cảm hứng cho sự chia sẻ công bằng giữa các quốc gia và các tổ chức của họ, để đối phó với cuộc khủng hoảng hiện tại bằng sự liên đới”. (Vatican News 20/4/2020).
III. LỜI KẾT
Chúng ta phải làm sao để tận hưởng lòng thương xót Chúa. Chúa Giêsu đã nhắn gọi “Hãy trở về Galilê và gặp Ngài ở đó”. Galilê là quê hương ghi dấu thời thơ ấu của Chúa Giêsu, là nơi đầu tiên Chúa đã mời gọi các tông đồ theo Chúa:”Trong nhiều ngày Chúa đã hiện ra những kẻ đã từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem… ” (Cv 13, 31a). Galilê là điểm hẹn đầu tiên, là nơi Thầy trò đã từng chia sẻ sứ vụ, đã ghi dấu bao kỷ niệm buồn vui. Galilê của mỗi người chúng ta là quê hương, là gia đình, là trường học, là xã hội, là tổ quốc… nơi mà suốt dòng lịch sử của mỗi người đã thấm đượm hồng ân của Chúa qua từng biến cố thăng trầm, sướng khổ trong hành trình tiến về nhà Cha. Và đó là hình bóng của Galilê đích thực: là bí tích Thánh Thể, là “Nước Trời”. Nơi đó có Chúa Ba Ngôi ngự trị, nơi mà Chúa Giêsu đã xuất phát để xuống thế làm người và đồng hành với nhân loại, đã chết và sống lại vì yêu thương con người, và Ngài lại về nơi đã xuất phát là Nước Trời, là cùng đích. Bởi vì Nước Trời là Chân – Thiện – Mỹ,“là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6a). Bởi đó nên Chúa vô cùng trân quý quê hương vĩnh cửu này và tìm mọi cách để đưa chúng ta về nơi đó: “Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2b-3).
Vậy, có chi mà phải tính toán hơn thua hay tích trữ trong cuộc lữ hành cát bụi này! Xin cho mọi người theo Thầy Giêsu hướng về Chúa Cha, về quê trời để cảm nhận tình yêu: Đây là con yêu dấu của Ta, rất đẹp lòng Ta, để mình được hạnh phúc trong suốt ngày sống, cách riêng mỗi lần đến với Bí tích Thánh Thể. Vì từ tình yêu sâu sắc này là nguyên nhân và là động lực của tất cả suy nghĩ và hành động để thực hành nguyên lý: khi cảm nhận mình được yêu thương, với lòng biết ơn, mình cũng đáp trả cũng bằng tình yêu đến với Chúa và tha nhân: “Như Ta đã yêu các con, các con cũng phải yêu thương nhau”. Để được bền vững hơn, Chúa căn dặn thêm: “Hãy ở lại trong tình mến của Ta. Ai yêu mến ta hãy giữ giới răn của ta. Và đây là giới răn của Ta: Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 12). Vì căn tính của Chúa Giêsu là liên kết mật thiết, kết hợp sâu sắc và thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Thật vậy, YÊU (là Mầu nhiệm và hiệp thông) và THỰC HÀNH lệnh truyền với lòng biết ơn/ đáp trả (là Sứ vụ), do đó, yêu và thực hành lệnh truyền quả là hai điều kiện ắt có và đủ để cho một đời người, vì đây là cốt lõi của giới răn trọng nhất “Mến Chúa và yêu người”(x. Mc 12, 28b – 31).
Đức Thánh Cha Phanxicô có lần đã khuyên chúng ta qua giới trẻ Brazil “Chúng ta hãy kinh nghiệm được Chúa yêu, niềm vui của ơn cứu độ. Đó là quà tặng, chúng ta không được giữ riêng cho mình, nhưng phải chia sẻ cho người khác” (Bài giảng “Mua Vui thì phải trả giá cho niềm vui đó”. Lm. Lưu Quang Bảo Vinh).
Kính chúc mọi người thật hạnh phúc vì có niềm tin để cảm nhận mình được yêu và nỗ lực chia sẻ tình thương bằng cách này hay cách khác cho tha nhân qua sứ vụ hiện tại của mình. Sr. Maria Vũ Tuyết
Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn