2020
Công bố Chỉ nam mới về Huấn giáo
Công bố Chỉ nam mới về Huấn giáo
Mối liên hệ chặt chẽ giữa truyền giáo và huấn giáo, sự kết hợp giữa lời loan báo đầu tiên và sự trưởng thành của đức tin, dưới ánh sáng của nền văn hóa gặp gỡ, là nét đặc thù của Chỉ nam mới về Huấn giáo do Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng soạn thảo . Tài liệu cũng đề cập đến các đề tài mới như: đạo đức sinh học, giới tính và giống, chăm sóc công trình sáng tạo và án tử hình.
Chỉ nam mới về Huấn giáo này được công bố trong cuộc họp báo vào lúc 11:30 sáng thứ Năm 25/06/2020, tại Hội trường Gioan Phaolô II của Phòng Báo chí Tòa Thánh.
Chủ tọa cuộc họp báo là Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin mừng; cùng với Đức cha Octavio Ruiz Arenas, người Colombia, Tổng thư ký của Hội đồng; và Đức cha Franz-Peter Tebartz-van Elst, người Đức, đặc ủy về vấn đề huấn giáo thuộc hội đồng này.
Thúc đẩy mạnh mẽ việc tái truyền giảng Tin Mừng và huấn giáo
Kế thừa hai tài liệu đã có trước đây: “Chỉ nam Huấn giáo tổng quát” được ban hành năm 1971 và “Chỉ nam tổng quát về Huấn giáo” được ban hành năm 1997, Chỉ nam mới về Huấn giáo được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn ngày 23/03 năm nay thúc đẩy mạnh mẽ việc tái truyền giảng Tin Mừng và huấn giáo.
Tài liệu dài hơn 300 trang, chia thành 3 phần với 12 chương, nhắc rằng mỗi người được rửa tội là môn đệ truyền giáo và kêu gọi sự dấn thân và trách nhiệm để tìm ra những ngôn ngữ mới để thông truyền đức tin.
Phần thứ nhất, có tựa đề “Huấn giáo trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội”, nhấn mạnh đến việc đào tạo các giáo lý viên: “là giáo lý viên trước khi làm giáo lý viên.” Phần thứ hai, “Tiến trình huấn giáo”, nêu bật tầm quan trọng của gia đình như chủ thể tích cực của việc loan báo Tin Mừng và là nơi chốn tự nhiên sống đức tin. Phần thứ ba, “Huấn giáo trong các Giáo hội cụ thể”, nói về vai trò của các giáo xứ, được định nghĩa như “gương mẫu của cộng đoàn tông đồ”.
Ba nguyên tắc cơ bản trong hoạt động huấn giáo: chứng tá, lòng thương xót và đối thoại
Ba nguyên tắc cơ bản trong hoạt động huấn giáo của chúng ta là: chứng tá, bởi vì “Giáo hội không phát triển bằng chiêu dụ tín đồ, nhưng bằng sự hấp dẫn”; tiếp đến là lòng thương xót, huấn giáo đích thực làm cho việc loan báo đức tin trở nên đáng tin; và cuối cùng là đối thoại, sự đối thoại tự do và nhưng không, không bắt buộc nhưng được bắt đầu từ tình yêu và góp phần vào hòa bình. Theo cách này huấn giáo giúp các Kitô hữu đưa ra ý nghĩa đầy đủ cho sự hiện diện của họ.
Các đề tài mới
Trong số các vấn đề mới được đề cập trong Chỉ nam năm 2020 là đạo đức sinh học, giới tính và giống, chăm sóc công trình sáng tạo và án tử hình. (CSR_4816_2020) Hồng Thủy
2020
Vài suy tư về môi sinh dưới cái nhìn của Học thuyết Xã hội Công giáo
Dẫn nhập
Theo cái nhìn truyền thống về Học Thuyết Xă Hội của Giáo Hội, khi nói về việc hưởng dùng những tài nguyên của trái đất, người ta chú ý nhiều đến những tài nguyên, những của cải, những sản phẩm do con người làm ra qua sức lao động. Trọn cả dòng suy tư trong học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo dường như bị cuốn hút bởi “hai cực”: “Tư Bản và Lao Ðộng”, “Con Người và Tiền Vốn”.
Giờ đây, trong giai đoạn mới, xuất hiện một “phân cực mới”, với tên gọi mới là “môi sinh”, là “thiên nhiên”. Từ đây, suy tư của Học thuyết xã hội của Giáo hội không còn được trình bày theo hai phân cực “Tư Bản và Lao Ðộng”, nhưng theo ba phân cực “Tư Bản, Lao Ðộng và Môi Sinh”[1].
Trong phạm vi bài này, người viết xin trình bày vai trò của môi sinh đối với đời sống con người dưới cái nhìn của Giáo hội.
* Sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên có ngay từ những ngày đầu sáng tạo
Sáng thế, quyển sách đầu tiên của Kinh thánh Kitô giáo, đã diễn tả mối tương quan hài hòa giữa con người với thiên nhiên qua những hình ảnh biểu trưng sống động: thiên nhiên là công trình tạo dựng của Thiên Chúa và là ân huệ Người ban cho con người. Chính Người đã tạo dựng vạn vật từ hư vô và khi nhìn nhận từng tạo vật “Người đều thấy nó tốt đẹp” (x. St 1,4). Do đó, thiên nhiên không phải là sức mạnh thù nghịch ghê gớm, mà còn là “cách thế biểu lộ chương trình yêu thương và sự thật”[2] của Thiên Chúa đối với loài người.
Giáo huấn xã hội của Giáo hội luôn đề cao vai trò trung tâm của con người trong vũ trụ và phủ nhận cái “hào quang thần thánh” mà một số tôn giáo đã phủ lên vũ trụ vạn vật. Theo Kinh thánh, ngay từ khởi đầu, Thiên Chúa đã trao cho con người trách nhiệm quản trị toàn thể vạn vật để giúp chúng sinh sôi nảy nở và phát triển hài hòa (x. St 1,26-30). Nhờ ủy thác này, nhân loại mạnh dạn khám phá và chế ngự thiên nhiên, tạo điều kiện thuận lợi để khoa học hình thành và phát triển. Qua khoa học kỹ thuật, con người ngày càng mở rộng chủ quyền của mình trên toàn thể vũ trụ.
Theo Vaticanô II, nhờ lý trí và khoa học kỹ thuật, con người đã đạt được những kết quả phi thường trong việc khám phá cũng như chế ngự thế giới vật chất. Giáo huấn xã hội Công giáo đánh giá cao những đóng góp của khoa học kỹ thuật trong các lãnh vực của cuộc sống nông nghiệp, công nghiệp, y tế, thông tin, giáo dục…
* Khủng hoảng môi sinh
Tuy nhiên do quá nhấn mạnh về việc con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên hai vai trò ngôi vị và xã hội luôn được đề cao, trong khi đó, vai trò môi trường của con người bị xem nhẹ thậm chí bị lãng quên. Con người đã lạm dụng trách nhiệm làm chủ thiên nhiên của mình.
Vì thế trong mấy thế kỷ vừa qua, đặc biệt kể từ cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ XVII, con người không những không tôn trọng những quy tắc nền tảng nói trên, mà trái lại đã khai thác thiên nhiên một cách tùy tiện, ích kỷ và tàn bạo. Kết quả bi thảm là đã phá vỡ mối tương quan hài hòa giữa con người với môi trường và đẩy Trái Đất đến bờ vực thẳm của diệt vong. Càng cố gắng chinh phục và chế ngự Trái Đất theo quan điểm duy kỹ thuật, con người càng ô nhiễm hóa vũ trụ và tạo nên những gánh quá nặng cho môi trường. Thay vì cộng tác với Tạo Hóa để giúp thiên nhiên phát triển hài hòa, con người đã “hành hạ” và “bức tử” thiên nhiên[3].
* Giáo hội lên tiếng kêu gọi bảo vệ Thiên nhiên Môi trường
Hiện trạng xuống cấp trầm trọng môi trường toàn cầu gần đây khiến Giáo hội không thể im lặng. Giáo hoàng Phaolô VI năm 1967, trong thông điệp “Bát Thập Niên”, đã đề cập rõ vấn đề môi trường: “Đột nhiên con người hôm nay nhận thức rằng, do khai thác thiên nhiên một cách vô ý thức, mình bị đặt trước nguy cơ phá huỷ thiên nhiên và trở thành nạn nhân của chính hành động phá hoại có tác động dội lại trên con người”. Ngài xác nhận: vấn đề môi trường liên quan tới toàn thể nhân loại. Ngài kêu gọi các Kitô hữu hãy kề vai sát cánh cùng nhau gánh vác trách nhiệm về định mệnh chung bảo vệ thiên nhiên của cả thế giới[4].
Theo thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, cuộc khủng hoảng môi trường là hậu quả của chủ nghĩa tiêu thụ và khai thác thiên nhiên một cách vô tội vạ, phát xuất từ triết lý lệch lạc về vai trò con người, theo đó con người tự coi mình là chúa tể, là ông chủ tuyệt đối của thế giới, mà quên rằng Thiên Chúa đặt con người ở giữa vườn Êđen không phải là để làm bá chủ mà là để quản lý. Do đó, “lạm dụng thiên nhiên là ăn cắp của công”[5]. Như vậy tuy con người được phép sử dụng tạo vật, nhưng không có nghĩa là con người muốn sử dụng nó như thế nào tuỳ thích, mà phải có bổn phận giữ gìn và bảo vệ thiên nhiên để người khác cũng được hưởng.
Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn cho rằng bổn phận người Kitô hữu còn là tôn trọng, gìn giữ và bảo vệ môi trường. Đầu tư vào sản xuất, cần quan tâm đến tác động môi trường. Dù không phải là nhà sản xuất, mỗi người đều phải biết bảo vệ và gìn giữ môi trường sống của mình và của mọi người, bằng những hành động cụ thể trong đời sống thường ngày, như không xả rác nơi công cộng, không làm mất vệ sinh trong khu xóm…Thánh Kinh kể lại rằng khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã trao cho con người trách nhiệm chăm sóc, trông coi công trình tạo dựng của Ngài (x. St 1,28). Vì thế, đối với các Kitô hữu, gìn giữ, bảo vệ, chăm sóc môi trường thiên nhiên không chỉ là một trách nhiệm xã hội, mà còn là đòi hỏi của niềm tin, là một nghĩa vụ cao cả, vì lẽ ta được cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng[6].
* Cái nhìn và định hướng của bản thân
– Cái nhìn
Nhìn vào thực trang hiện nay của môi trường mình đang sinh sống quả thực có những vấn đề cần phải quan tâm và lên tiếng. Trước tiên, ý thưc tạo môi trường thiên nhiên lành mạnh chưa được người dân chú ý. Nhiều người còn có cái nhìn thiển cận chỉ biết nhắm đến cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả lâu dài của hành động thiếu tôn trọng và hủy hoại môi trường của mình. Đơn cử như việc chặt phá rừng, những người dân vào rừng chặt trộm cây, họ không biết được rằng chặt phá rừng như thế sẽ dẫn đến hậu quả lớn là thiên tai, bão lụt. Việc xả rác tại các sông ngòi cũng đáng báo động, người dân mới chỉ biết vất rác ra khỏi nhà mình còn lại các chất bẩn độc hại ngấm vào nguồn nước, rồi mình lại dùng lại nước đó sẽ gây bệnh tật thì ít người nghĩ tớ. Do đó mới có hiện tượng ở một số sông ngòi, kênh mương tràn rác thải, nước ô nhiễm bốc mùi nghiêm trọng, những đường ống cống sình lầy…Gần đây nhất là dịch lợn tai xanh, người dân chống dịch bệnh bằng cách mang lợn chết thả trôi lềnh bềnh trên song. Vấn đề phân loại rác trong cộng đoàn và gia đình cũng thế, rác phân hủy được và rác không phân hủy bỏ chung lẫn lộn…
– Định hướng
Là một tu sĩ, bản thân hiểu rõ sứ mệnh “bảo vệ và truyền bá việc bảo vệ môi trường” của mình hơn ai hết, bởi vì “thế giới xuất hiện trước mắt con người như một bằng chứng về Thiên Chúa, là nơi Ngài bày tỏ quyền năng sáng tạo, quan phòng và cứu độ của Ngài”[7]. Tu sĩ đi theo Chúa là mong ước được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, chính vì thế càng phải có trách nhệm góp phần bảo vệ công trình Ngài đã sáng tạo, hầu có thể đưa thiên nhiên về đúng ý định ban đầu Thiên Chúa tạo dựng.
Vì thế, trong đời sống của mình, trước tiên với cá nhân người tu sĩ phải biết tôn trọng và phát triển thiên nhiên bằng cách yêu mến, chăm sóc và trồng cây xanh nơi mình sinh sống. Tập nếp sống ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ, tôn trọng và chia sẻ tài nguyên cho mọi người vì thiên nhiên là tài sản chung Thiên Chúa ban cho con người.
Tiếp đến, trong đời sống cộng đoàn, tu sĩ phải biết góp phần mình vào việc sử dụng thiên nhiên một cách hợp lý, việc phân loại và xử lý rác thác phải được thực hiện cách cẩn thận, đi sát giáo huấn của Giáo hội và hưởng ứng cụ thể lời kêu gọi của Giáo hội trong việc bảo vệ môi trường, giúp chị em học hiểu và áp dụng cách thực tế thông điệp Laudato Si’ về môi trường của Đức Giáo Hoàng Phanxico… Trong đời sống tông đồ, người tu sĩ phải làm gương sáng trong việc bảo vệ thiên nhiên. Trong việc coi sóc thiếu nhi hãy dạy cho các em yêu thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên, tổ chức những buổi trồng cây, làm cỏ, tưới nước trong khuôn viên nhà thờ, dạy các em không xả rác bừa bãi, có những thùng rác công cộng ở các nơi trong khu vực giáo xứ. Có những chương trình tổ chức đi đua về việc bảo vệ môi trường. Cổ vũ việc làm sạch môi trường sống bằng những hình thức phù hợp để giúp các em ý thức trách nhiệm và lợi ích của mình khi tôn trọng môi trường, đồng thời chỉ cho các em biết tác hại của việc tàn phá thiên nhiên chính là phá hại cuộc sống của mình.
Kết luận
Trên đây là một vài suy nghĩ về vấn đề môi sinh dưới cái nhìn của Học thuyết xã hội Công giáo, được người viết tổng hợp và trình bày. Thiết nghĩ vấn đề môi sinh hiện nay là vấn đề hết sức khẩn thiết mà ai trong chúng ta cũng nhận ra. Cái đáng nói ở đây là nguyên nhân của sự khủng hoảng môi trường hiện tại không nằm ở “môi trường” mà nằm ở vấn đề “đạo đức” của chính chúng ta, những con người được Thiên trao quyền cai quản thiên nhiên mà Ngài đã sáng tạo. Vì lợi ích cá nhân, một số người đã khai thác thiên nhiên một cách “tàn bạo”, khai thác không phải để phát triển mà là “tiêu diệt”. Môi trường là cái nôi cho con người sinh sống, trái đất như ngôi nhà chung của chúng ta, một khi “tiêu diệt” nó là đang tiêu diệt chính chúng ta. Những khủng hoảng của biến đổi khí hậu, thảm họa môi trường…chính là tiếng kêu cứu của thiên nhiên đang gào thét và ước mong làm thức tỉnh con người trước lối sử dụng khai thác quá mức.
Hy vọng mỗi chúng ta đáp lại tiếng kêu cứu ấy bằng cách góp phần nhỏ bé của mình vào việc bảo vệ và phát triển môi sinh theo đường hướng của Giáo hội.
[1] Dựa theo suy tư của Giáo sư Giorgio Campanini, chuyên viên về chính trị học theo tinh thần kitô giáo. Tập sách có tựa đề như sau: Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội: những thành quả đạt được và những thách thức mới, xuất bản năm 2007, Roma, nhà xuất bản EDB.
[2] Biển Đức XVI, Thông điệp Tình yêu trong sự thật, số 48.
[3] Nguyễn Thái Hợp, Một cái nhìn về Giáo huấn xã hội Công giáo, NXB Phương Đông, tr. 460.
[4] Thiên Kim, Giáo hội và Môi trường sinh thái. http://www.giaoducconggiao.net.
[5] GLHTCG số 2415.
[6] Phạm Minh Mẫn, Lá thư Mục tử, 2009. http://lambich.net.
[7] Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hòa bình, Toát yếu Học thuyết xã hội Công giáo, tập II, Tủ sách chuyên đề, Lưu hành nội bộ, tr. 238.
Hoa cát
2020
FaceApp nguy hiểm, người Việt vẫn đua nhau dùng để đổi giới tính ảnh
FaceApp nguy hiểm, người Việt vẫn đua nhau dùng để đổi giới tính ảnh
Ngày 19/6, ứng dụng chỉnh sửa ảnh FaceApp một lần nữa lọt top 1 xu hướng tìm kiếm Google Trends.
Không chỉ vậy, trên kho ứng dụng Google Play, FaceApp vượt qua Instagram, Facebook, WhatsApp đứng top 3 ứng dụng phổ biến nhất với hơn 100 triệu lượt tải xuống.
Trước đây, ứng dụng này từng được biết đến với tính năng chỉnh sửa gương mặt trẻ hơn hoặc già đi.
Ở lần trở lại này, FaceApp tập trung nâng cấp tính năng chuyển đổi giới tính trên hình ảnh của người dùng. Ngoài chỉnh sửa khuôn mặt, FaceApp còn có thể ghép tóc, râu vào ảnh gốc một cách chi tiết nhất bằng công nghệ máy học.
Chỉ sau một ngày ra mắt tính năng mới, hình ảnh kết quả chỉnh sửa từ FaceApp được người dùng Việt Nam chia sẻ rầm rộ trên mạng xã hội.
“Tôi nghĩ ứng dụng này đánh đúng vào sự tò mò của mọi người trong đó có tôi. Ai cũng sẽ tự hỏi liệu mình trong hình hài giới tính khác sẽ như thế nào? FaceApp đã đáp ứng tốt việc này”, Thượng Tâm, người dùng ứng dụng FaceApp ngụ TP.HCM nói.
Để kích thích sự lan truyền, FaceApp còn mặc định gán tên ứng dụng vào góc phải của ảnh. Tuy vậy, FaceApp lại được rất nhiều chuyên gia bảo mật và các tổ chức lớn cảnh báo về rủi ro lộ lọt thông tin.
Theo đó, phần cài đặt của FaceApp yêu cầu quyền khởi chạy cùng hệ thống, truy cập bộ nhớ, chạy nền, toàn quyền sử dụng Internet…
“Có nghĩa sau khi cài đặt, FaceApp có quyền tự động khởi chạy, truy cập bộ nhớ và truyền dữ liệu về máy chủ. Với hơn 100 triệu lượt tải xuống, đây là kho dữ liệu rất lớn. Một số quyền truy cập vượt quá giới hạn của ứng dụng chỉnh sửa ảnh”, Trí Đức, chuyên gia bảo mật đang làm việc tại New York, Mỹ cho biết.
Một số quyền truy cập của FaceApp vượt quá giới hạn của một ứng dụng chỉnh ảnh. |
Trước đây, Thượng nghị sĩ Mỹ Chuck Schumer từng yêu cầu nhà chức trách Mỹ điều tra ứng dụng FaceApp. Ông cho rằng phần mềm này có thể ảnh hưởng đến quyền riêng tư và an ninh quốc gia.
Theo CNN, hàng loạt nghị sĩ Đảng Dân chủ Mỹ cảnh báo ứng dụng FaceApp có thể ảnh hưởng đến chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ vào năm 2020.
Dù những lo ngại an ninh trên đúng hay sai, người dùng FaceApp Việt Nam dường như không mảy may lo ngại về ứng dụng này. Khi được hỏi những người đã sử dụng FaceApp, câu trả lời nhận được là “dữ liệu của tôi không có gì quan trọng”.
Ngày 18/7, trang Wired đăng tải bài viết với tiêu đề “Bạn sợ ứng dụng này cho đến khi biết đến Facebook”. Theo Wired, FaceApp, sử dụng những quyền tương tự với Meitu. Ứng dụng này không đòi các quyền như GPS hay các thông tin trên SIM như Facebook.
FaceApp sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo đặc biệt được phát triển bởi một đội ngũ ở Nga. Nó cho phép ứng dụng có thể nhận diện hình ảnh, từ đó đưa ra các dự đoán về sự thay đổi của khuôn mặt theo thời gian.
Bên cạnh đó, FaceApp yêu cầu người dùng tải các bức hình lên đám mây để xử lý thay vì thực hiện chúng ngay trên smartphone. Đáp lại những lo ngại về quyền riêng tư, FaceApp cho biết công ty không bán hay chia sẻ bất kỳ dữ liệu của người dùng với bên thứ ba.
Cũng theo ông Đức, chuyện ứng dụng gửi dữ liệu về máy chủ khá phổ biến chứ không phải bất thường. “Tuy vậy, dù những nghi ngại này là thật hay giả, người dùng cũng cần có ý thức trước những rủi ro về dữ liệu cá nhân”, ông Đức nói thêm.
Đáp lại các cáo buộc này, nhà phát hành ứng dụng cho biết họ cam kết xóa toàn bộ dữ liệu sau 48h. Đồng thời người dùng có thể xóa dữ liệu thủ công bất cứ lúc nào.
Trọng Hưng
2020
Lãnh đạo như Giêsu – bài 4
Tôi lãnh đạo theo gương Giê-su như thế nào?
Lãnh đạo một người:
Một khi nhà lãnh đạo nhìn cuộc sống với một lăng kính đã được biến đổi qua việc tìm lại bản thân, thì họ có thể xây dựng một mối tương quan tin tưởng lẫn nhau với người khác. Thiếu niềm tin, thì không có một tổ chức nào hoạt động hiệu quả. Niềm tin là điều cốt yếu để hai con người có thể làm việc được với nhau. Tuy nhiên, cần lưu ý điều quan trọng này, là sẽ không có hoặc duy trì được kết quả của niềm tin nếu chiều kích phát triển đầu tiên – lãnh đạo bản thân – không được thực hiện. Nếu một nhà lãnh đạo có khuynh hướng phục vụ bản thân thì những người khác chỉ đi theo nhà lãnh đạo đó khi mà những lợi ích cá nhận của họ vẫn còn được đáp ứng.
Chúng ta có thể chiêm ngắm lại mẫu gương lãnh đạo một người với tinh thần phục vụ hết mình của Chúa Giêsu. Ngay thời kỳ đầu của sứ vụ, sau thời gian ở trong hoang địa, nơi mà cùng đích và quan điểm sống của Ngài được xác định rõ khi vượt qua thử thách và cám dỗ, Chúa Giêsu bắt đầu kêu gọi các môn đệ. Khi họ đáp lại lời mời gọi đó, Chúa Giêsu đã dành ba năm để xây dựng văn hóa của niềm tin với những môn đệ. Niềm tin giữa Chúa Giêsu và các môn đệ sẽ không được phát triển nếu trước đó Chúa Giêsu đã không dành thời gian trong hoang địa để xác định Ngài cần lắng nghe ai trong cuộc sống của mình và Ngài sẽ trở nên con người thế nào!
Trong tương quan trong cuộc sống, niềm tin là dòng suối, nơi đó sự yếu đuối, quan tâm, cam kết và tình thương được chảy giữa cha mẹ và con cái; vợ và chồng; giữa anh chị em với nhau; giữa bạn bè và giữa các công dân. Niềm tin được tuôn đổ từ con tim yêu thương cam kết phục vụ và tương trợ lẫn nhau, qua việc giữ lời hứa, khích lệ, tán dương, qua hỗ trợ và chấp nhận nhau, đến sự hối lỗi và chấp nhận lời xin lỗi, đến việc hòa giải và khôi phục. Tuy vậy, niềm tin cũng là một dòng suối với sự cân bằng sinh thái dễ vỡ: một khi bị ô nhiễm thì mất nhiều thời gian, công sức mới khôi phục lại được.
Sức mạnh sẵn có để khôi phục sự thân mật và niềm tin bị đỗ vỡ là tình yêu. Hãy đọc những lời sau đây của Thánh Phaolô Tông Đồ và suy ngẫm chiều kích làm mới và hàn gắn của tình yêu:
Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa,mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
Ðức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. (Cr 13:1-7)
Suy ngẫm:
– Hãy liệt kê ba cách mà bạn nuôi dưỡng niềm tin trong vai trò lãnh đạo của mình
– Liệt kê hai điều bạn làm mà gây nguy hại cho niềm tin trong vai trò lãnh đạo của mình
– Nghĩ về thời điểm nào đó mà bạn đã mất niềm tin nơi một nhà lãnh đạo. Lúc đó bạn cảm thấy ra sao? Cảm giác đó kéo dài bao lâu? Bạn đã tha thứ cho người đó lúc nào?