2020
Những điều mong ước gửi các tân linh mục
2020
3 cách để dâng mình cho Chúa
3 cách để dâng mình cho Chúa
Những lời của Thánh Phaolô trong sách Phúc âm có nghĩa là gì?
Thánh Phaolô mạnh mẽ thúc dục chúng ta : “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12,1).
Nhưng ý nghĩa dâng hiến bản thân như như một hy lễ thực sự là gì?
Trong tiếng Do thái từ “hy lễ” là korbán, nó có nghĩa là “tiến lại gần hơn”. Mục đích của hy lễ là đến gần Chúa hơn; đó là một lời mời gọi sống trong sự hiệp thông mãnh liệt với Chúa. Vì vậy, cần phải thực hiện “teshuvá”, nghĩa là hoán cải. “Teshuvá” bao gồm việc đổi mới cách nhìn và suy nghĩ về thực tại “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Điều đó có nghĩa là xem xét cuộc sống và thế giới của chúng ta “từ trên cao” qua cặp mắt xót thương của Thiên Chúa. Dưới đây là ba chiều kích của hành động dâng hiến.
Thánh Gioan Tẩy giả de la Salle đã nói: “Hãy hiến dâng chính mình và tất cả những gì thuộc về chúng ta đều dâng cho Chúa, nghĩa là dâng lên Ngài mọi tư tưởng, lời nói và việc làm, tất cả mọi tài sản của chúng ta, dù đó là thiêng liêng hay trần tục, tắt một lời, dâng tất cả những gì chúng ta đang sở hữu trên thế gian này”.
- DÂNG HIẾN BẢN THÂN
Phạm vi cuộc sống của chúng ta đã là một “món quà” đến từ Thiên Chúa, chúng ta cần phải xem lại tất cả những gì là tốt đẹp nơi hữu thể và sự hiện hữu của mình: linh hồn, thể xác, tài năng, di sản văn hóa, gia đình của chúng ta…. như thánh Phaolô đã viết : “Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu? Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cor 4,7). Thực hiện teshuvá nghĩa là nhận biết Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo. Và do đó, điều đòi hỏi nơi chúng ta là cần phải thích ứng cuộc sống của mình với Lời Chân Lý của Chúa.
Dâng hiến bản thân được thực hiện bằng cách tạ ơn và ca ngợi vì những ân huệ mà bạn đã lãnh nhận. Nó được thể hiện qua việc luôn mong muốn phục vụ Thiên Chúa và đồng loại của mình; hoàn toàn đặt mình tuân theo ý Chúa, phù hợp với từng giai đoạn của cuộc đời, để xây dựng Nước Trời; đặt mọi tư tưởng của chúng ta, lời nói và hành động của chúng ta trong sự gắn kết với cuộc sống.
- DÂNG CHÚA MỌI TỘI LỖI CỦA CHÚNG TA
Dưới đây là một giai thoại về cuộc đời của thánh Jerome. Một ngày kia Chúa hỏi Jerome: “Hôm nay con có gì cho Ta không?”. Thánh nhân trả lời: “Lạy Chúa, con dâng cho Chúa lời cầu nguyện của con” – “Tốt, nhưng còn gì nữa không”, Chúa nói. Và thánh Jerome đã kể ra hàng loạt những kỷ luật bản thân, nào là sự tỉnh thức, tình yêu dành cho những ai đến thăm mình… Rồi Chúa lại hỏi Jerome: “Còn gì nữa không?”. Jerome thưa : “Con không biết có còn gì để dâng Chúa nữa!”. Cuối cùng Chúa nói với thánh nhân : “Có một điều mà con chưa dâng cho Ta đó là tội lỗi của con!”.
- DÂNG CHÚA NỖI KHỔ CỦA CHÚNG TA
Và sau cùng, có những điều chúng ta phải “chịu đựng” : đó là những thử thách lớn lao của cuộc sống, cũng như những điều nhỏ nhặt thường ngày làm chúng ta khó chịu. Chúng ta dâng lên Chúa những khoảnh khắc đau khổ này để “lồng chúng vào bên trong lòng trắc ẩn vô biên của Chúa Kitô”, để những khổ đau “trở thành một phần trong kho tàng thương xót mà con người đang cần” để sống yêu thương, để lãnh nhận và rao truyền ơn cứu rỗi (Benedict XVI).
Mẹ Têrêsa đã cầu nguyện:
Lạy Cha nhân từ, xin giúp chúng con,
để chúng con biết chấp nhận mọi điều Cha ban cho chúng con,
và biết cho đi mọi thứ mà Cha đòi hỏi chúng con với một nụ cười thật to.
Nụ cười bên trong và bên ngoài là dấu chỉ của việc dâng hiến một cách tự do trong mọi hoàn cảnh. Nụ cười đó chống lại mọi nỗi buồn vì đã từ bỏ, hay giận giữ sau những lời phàn nàn của chúng ta.
Nicolas Buttet/Aleteia
Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2020
Truyền Giáo trong Truyền Thông Xã Hội – những thách đố cho Giáo Hội tại Á Châu
Nhìn vào tiêu đề của bài viết này, người ta có thể nghĩ rằng, nó nên được đảo lại thành: Truyền Thông Xã Hội trong Truyền Giáo. Thật vậy, có nhiều những chỉ dẫn về phạm vi này trong lịch sử của Giáo Hội. Nhưng, ngày nay và đặc biệt dưới góc độ thần học truyền thông, có lẽ chúng ta phải dần dần thay đổi cách suy nghĩ của chúng ta.
Bài viết này bắt đầu với vấn đề sử dụng các phương tiện truyền thông trong truyền giáo và những phát triển, sau đó, đến những thay đổi diễn ra từ cách tiếp cận truyền thông xã hội của Công Đồng Vatican II đối với nền “văn hóa mới” với các ngôn ngữ mới, tâm lý mới và các công nghệ mới từ Thông Điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), sẽ được phản ánh trong thực tế truyền thông Châu Á của chúng ta.
Truyền Thông cho Truyền Giáo
Hồng Y Francesco Ingoli là Bộ trưởng đầu tiên của Hội Truyền Bá Đức Tin được thành lập năm 1622 (nay là Bộ Rao Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc), một nhà in riêng của cơ quan mới đã được ra đời bốn năm sau đó, tức, vào năm 1626. Trong một thời gian ngắn, các ấn phẩm báo chí của nhà in này đã được in với hơn 20 ngôn ngữ, trong đó có tiếng Malayalam của Ấn Độ. Đức Hồng Y đã biện hộ sự cần thiết cho công cụ hiện đại này trong thời gian đó, với các lý do sau:
– Các nhà truyền giáo ở Rome cần sách cho việc nghiên cứu ngôn ngữ của họ, trước khi đi đến vùng truyền giáo.
– Chi phí sản xuất của một nhà in riêng, thì thấp hơn một phần ba so với những ấn phẩm được xuất bản bởi các nhà in khác.
– Chỉ có nhà in của Hội là đủ chuyên môn trong các nhu cầu ngôn ngữ khác nhau.
– Nếu người Tin Lành đã in và phân phát nhiều cuốn Kinh Thánh, thì người Công giáo cũng nên làm theo.
– Sứ vụ của Chúa Giêsu bắt buộc chúng ta phải sử dụng sách báo cho công việc truyền giáo: các nhà truyền giáo ngày nay không thể hoàn thành sứ vụ mà không cần đến sách báo; và sách báo cũng vươn đến những nơi mà các nhà truyền giáo không thể đi.
– Đối với việc truyền bá Lời Chúa, không có khoản đầu tư nào có thể coi là quá mắc.
Hồng Y Ingoli thấy rằng, nhu cầu quan trọng nhất cho việc truyền giáo ngày đó, là chăm sóc cho các nhân viên truyền giáo, trường học, giáo sĩ địa phương và ấn phẩm báo chí.[1]
Trong hầu hết các thông điệp gần đây về truyền giáo (Đức Piô XI, Piô XII, Gioan Phaolô II), có nhiều câu hoặc nhiều phần theo cùng một lối suy nghĩ.
Do đó, chẳng hạn, Đức Giáo Hoàng Piô XII nói “việc phân phối các ấn phẩm kịp thời là một việc phục vụ hữu ích” trong Thông Điệp Về Truyền Giáo Evangelii Praecones (1951) và nói thêm: “một điều rất cần thiết để chúng ta phải chăm chú kỹ ở điểm này, sao cho mọi người biết sử dụng hiệu quả báo chí, tạp chí, và các chuyên đề.” Thật ra, thánh Arnold Janssen đã chỉ ra điều này khi ngài mở một ấn phẩm của riêng hội dòng ngay trong năm đầu tiên thành lập (Dòng Ngôi Lời) ở Steyl 1875: “Đấng Cứu Thế đã kêu gọi sự ân cần của các tông đồ đến Lời khi Ngài nói: hãy loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi loài thụ tạo! Vào thời của Ngài, chữ in chưa được biết đến, nhưng ngày nay nó được biết đến và ma quỷ sử dụng nó cho mục đích xấu xa. Do đó, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải sử dụng nó để tạo ra điều tốt. Thật tuyệt vời như thế nào, khi mà một ấn phẩm có thể được in cả hàng ngàn bản chỉ trong vài giờ!”[2]
Sắc lệnh Inter Mirifica (Giữa Những Điều Kỳ Diệu) về các phương tiện truyền thông xã hội của Công Đồng Vatican II, đã mở rộng quan điểm về truyền thông vượt xa hơn truyền thông xã hội hiện đại, khi cho rằng, việc diễn đạt về truyền thông xã hội có liên hệ đến tất cả các cách và các phương tiện của việc giao tiếp trong xã hội con người. Điều này mang một ý nghĩa đặc biệt trong truyền giáo, bao gồm cả các phương tiện văn hóa và truyền thống về truyền thông.
Tất cả những lý do này thì xem truyền thông xã hội là một công cụ cho truyền giáo. Tuy nhiên, trong thực tế của thời đại chúng ta, chúng ta ngày càng nhận thức được rằng, từ một điểm thần học và các điểm khác của cái nhìn đó, có một yếu tố truyền giáo mạnh mẽ trong chính Truyền Thông Xã Hội. Sự thay đổi về lối suy nghĩ này được chỉ dẫn trong Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế) của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1990) về truyền giáo. Ngài vẫn khẳng định rằng “cần phải truyền bá thông tin qua các ấn phẩm truyền giáo và các phương tiện nghe nhìn” (Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48.).
Nhưng trong cùng thông điệp đó, có một sự thay đổi trong suy nghĩ về truyền thông xã hội, trong quan điểm truyền giáo. Nó không còn chỉ là một công cụ cho Giáo Hội, nhưng hơn nữa là một trạng huống của con người, cần một cách tiếp cận và câu trả lời sâu sắc hơn. Thế giới hiện đại được so sánh với nơi họp chợ của Athens, Hội đồng Areopagus, nơi tất cả các ý tưởng và kinh nghiệm đến với nhau và đã được bày tỏ và được chia sẻ. “Phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên quan trọng đến nỗi, đối với nhiều người, là phương tiện chính để trao đổi tin tức và giáo dục, để hướng dẫn và tác động hành vi cử chỉ nơi cá nhân, gia đình và trong xã hội nói chung. Nhất là đối với thế hệ trẻ trung đang lớn lên trong một thế giới được môi trường truyền thông vây bủa” (Redemptoris Missio, số 37).
Đức Giáo Hoàng thừa nhận: “có lẽ Hội Đồng Areopagus này đã bị bỏ bê ở một mức độ nào đó,” nhưng khẳng định rằng vì sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, “thế nhưng, việc dấn thân vào môi trường truyền thông không phải chỉ để làm tăng cường thêm cho việc rao giảng Phúc Âm thôi. Còn có một thực tại sâu xa hơn chất chứa ở đó nữa: vì chính việc truyền bá phúc âm hóa cho văn hóa tân tiến ngày nay một phần lớn tùy thuộc vào ảnh hưởng của truyền thông, nên chỉ sử dụng truyền thông để quảng bá sứ điệp Kitô giáo và giáo huấn chân thực của Giáo Hội mà thôi chưa đủ. Cũng cần phải đưa sứ điệp vào nền “văn hóa mới” do các phương tiện truyền thông tân tiến tạo nên nữa. Đây là một vấn đề phức tạp, vì nền “văn hóa mới” này bắt nguồn chẳng những từ bất cứ những gì được tỏ hiện ra dần dần, mà còn ở chính những cách truyền đạt mới, với ngôn từ mới, với kỹ thuật mới và với một thứ tâm lý mới”(Redemptoris Missio, số 37).
Những cách mới này không chỉ là kỹ năng và đào tạo cho việc sử dụng truyền thông hay đơn giản là sử dụng những phương tiện truyền thông hiện đại. Chúng chỉ ra một thực tế sâu sắc hơn, đó là sự thay đổi trong suy nghĩ và cách tiếp cận. Chúng chỉ ra một thực tế nơi truyền thông xã hội, chính nó trở thành một nền tảng cho việc truyền giáo của Giáo Hội.
Giáo Hội là Truyền Thông
Một trong những tuyên bố quan trọng của Công Đồng Vatican II trong Sắc Lệnh Về Hoạt Động Truyền Giáo Ad Gentes (Đến Với Muôn Dân) (1965) đó là: “Giáo Hội lữ hành tự bản chất là truyền giáo. Vì theo ý định của Chúa Cha, Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Theo cách tương tự, người ta cũng phải nói rằng Giáo Hội bởi bản chất của mình là truyền thông. Giáo Hội tồn tại để truyền thông và do đó “Giáo Hội là Truyền Thông”, như Avery Dulles nói với các Giám mục Mỹ Châu năm 1971.
Tất cả cuộc sống và hoạt động của Giáo Hội truyền giáo là để truyền thông tình yêu này của Thiên Chúa Ba Ngôi đến mọi người. Ở đây, trong một cách nào đó truyền giáo và sự truyền thông trở nên giống hệt nhau. Trên thực tế, từ “truyền giáo” (mittere – misio) có nghĩa là “sai đi” và chỉ hành động của việc sai đi. Tuy nhiên, nếu chúng ta sử dụng từ “rao giảng Tin Mừng” (evangelisare), một từ được sử dụng đặc biệt là sau Công Đồng Vatican II, thì mọi thứ có thể trở nên rõ ràng hơn. Rao giảng Tin Mừng có nghĩa là chia sẻ Tin Mừng trong tất cả các chiều kích của nó với mọi người. Truyền thông xã hội được định nghĩa là công cụ chia sẻ qua các tín hiệu[3] và Huấn Thị về Mục Vụ Truyền Thông Communio et Progressio, điều đã được Công Đồng Vatican II nói trong Sắc lệnh Inter Mirifica, thậm chí còn gọi đó là “tự hiến trong tình yêu.”
Điều này không phải là những gì chúng ta làm bất cứ khi nào chúng ta truyền giáo hay sao? Theo cách hiểu này, truyền thông không phải là thứ chỉ dành cho các chuyên gia, mà là cho mọi Kitô hữu và chắc chắn cho bất kỳ hoạt động tông đồ nào. Như Tổng hội Dòng Tên 1995, trong một tài liệu quan trọng về truyền thông, Tổng hội ấy đã trình bày: “truyền thông trong xã hội thường được coi là một lĩnh vực hoạt động tông đồ, một chuyên ngành dành riêng cho một số chuyên gia, người mà thường cảm thấy bị cô lập hoặc bên lề của việc tông đồ. Xã hội cần nhận thức rằng, truyền thông không phải là một lĩnh vực chỉ giới hạn cho một số chuyên gia Dòng Tên, mà là một khía cạnh tông đồ chính, cho tất cả các việc tông đồ của chúng ta, mỗi tu sĩ Dòng Tên, để có hiệu quả, phải nhận thức và thành thạo trong ngôn ngữ, các biểu tượng và điểm mạnh và điểm yếu của văn hóa truyền thông hiện đại. Đây là một cách để tạo ra sự thay đổi, để nhận ra rằng môi trường truyền thông mới này, là một môi trường, mà trong đó phần đông dân chúng có thể được tiếp cận và làm phong phú thêm, trong đó văn hóa, kiến thức và sự đoàn kết có thể được củng cố.”[4]
Do đó, truyền giáo là truyền thông, đó là sự truyền thông và chia sẻ đức tin với người khác, đặc biệt là những người chưa đạt được sứ điệp này. Nó có nghĩa là, việc huấn luyện truyền thông của chúng ta không chỉ là đào tạo truyền thông cho các chuyên gia, nhưng cũng là cho một yếu tố thiết yếu của đức tin chúng ta. Không phải là sách Công Vụ Tông Đồ nhắc nhở chúng ta rằng, mọi Kitô hữu tiên khởi đã đang truyền thông đức tin của họ đó sao? Hoàn cảnh của cuộc sống được coi là những thách đố đối với hoạt động truyền giáo, trong việc chia sẻ kinh nghiệm đức tin với mọi người xung quanh.
Thần Học Truyền Thông làm cơ sở cho Truyền Giáo
Có những phát triển trong thần học hiện đại, hướng đến một viễn cảnh mới mẻ trong cùng một hướng, bằng cách phát triển từ một nền “Thần Học về Truyền Thông” (Theology of Communication) đến “Thần Học Truyền Thông” (Communication Theology).
Trước đây, chúng ta thường cố gắng phát triển một nền “Thần Học về Truyền Thông”, bằng cách nào đó muốn “rửa tội” truyền thông, và đặc biệt là truyền thông đại chúng và đưa nó vào trong gia đình của Giáo Hội.
Tuy nhiên, còn có sự xem xét về một nền “Thần Học Truyền Thông”, điều mà được quan tâm về các diễn đạt truyền thông của thần học, trong đó thần học diễn đạt chính nó theo cách mà nó có thể dễ hiểu hơn.
Tuy nhiên, “Thần Học Truyền Thông”, coi truyền thông như một nguyên tắc thần học. Tính toàn thể của thần học được xem xét và nghiên cứu dưới góc độ truyền thông[5]:
- a) Thiên Chúa Ba Ngôi truyền thông trong chính mình. Tức là có một cuộc truyền thông nội tại đang diễn ra nơi Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần truyền thông với nhau. Và chúng ta là hữu thể nhân linh có khả năng truyền thông, vì chúng ta được tạo nên “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27). Đây là lý do thần học về khả năng truyền thông của chính chúng ta.
- b) Thiên Chúa Ba Ngôi, tuy nhiên, cũng mặc khải chính mình trong sự truyền thông với các thụ tạo. Thiên Chúa sử dụng tất cả các cách và phương tiện truyền thông của con người. Thiên Chúa truyền thông cách vô ngôn và hữu ngôn, Ngài truyền thông qua các dấu chỉ và hành động. Toàn bộ Cựu Ước là một lịch sử về sự truyền thông của Thiên Chúa với dân của Ngài.
- c) Tuy nhiên, điểm cao nhất của sự mặc khải này là sự Nhập Thể của Chúa Giêsu Kitô. Chúa Cha đã truyền thông với các thụ tạo của mình, thông qua Người Con duy nhất là Đức Giêsu Kitô. Như thư Do Thái đã khẳng định: “thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời”(Dt 1,1-3).
Và rồi, Đức Giêsu Kitô cũng đã truyền thông bằng lời nói và hành động, Ngài dùng các dấu chỉ và biểu tượng, điều mà vượt ra khỏi lời nói hoặc giúp diễn đạt lời nói của Ngài. Ngài truyền thông qua toàn bộ lối sống của mình (Huấn thị Mục Vụ Communio et Progressio – Hiệp thông và Tiến bộ, số 11).
- Từ tất cả những điều này, Giáo Hội nhận ra việc sai đi của mình để truyền thông. Giáo Hội là để tiếp tục việc truyền thông của Thiên Chúa trong mặc khải và nhập thể, ở đây và bây giờ. Như vậy, Giáo Hội là sự hiện diện của Thiên Chúa đang truyền thông giữa mọi người, Giáo Hội thì bởi bản chất của mình và được kêu gọi truyền thông. Do đó, truyền thông xã hội không chỉ là một nghề cho các chuyên gia, thậm chí chuyên gia Giáo Hội, nhưng là một chiều kích cho mỗi Kitô hữu, với tư cách là thành viên của Giáo Hội và được phản ánh trong cuộc sống hàng ngày.
Đó là việc sai đi của Giáo Hội để tiếp tục việc truyền thông của Thiên Chúa ở đây và bây giờ, mọi lúc, mọi nơi. Sự hội nhập văn hóa của sứ điệp này, chính xác là tất cả những gì là truyền giáo và những suy tư truyền giáo. Tiến trình bắt đầu với Lễ Hiện Xuống, dưới lời hứa và sức mạnh của Thánh Linh, là động lực dẫn dắt cho truyền thông và truyền giáo của Giáo Hội từ đó cho đến ngày tận thế.
Từ đây, nó cũng trở nên rõ ràng hơn, bằng cách nào những nhà truyền giáo – như thánh Arnold Janssen – đã phát triển sự quan tâm của các ngài và thăng tiến nhân học và nghiên cứu các nền văn hóa. Truyền thông Kitô giáo phải bắt đầu và được gắn liền với cuộc sống của dân chúng, điều được phản ánh trong nền văn hóa của họ. Do đó, lĩnh vực đang mở rộng của truyền thông đa văn hóa, trở thành một yếu tố quan trọng trong nghiên cứu truyền giáo và công việc truyền giáo.[6]
Trong thời đại của chúng ta, nền “văn hóa mới” của một thế giới truyền thông toàn cầu hóa đặt ra một thách thức riêng biệt và đặc thù, bởi vì có một cách mới để truyền thông, với những khả năng và quan điểm mới.
Một nền “văn hóa mới” là một thách đố truyền giáo
Vượt lên trên mối quan tâm chung về sự hội nhập văn hóa, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đòi hỏi thông điệp Kitô giáo phải được hòa nhập vào nền “văn hóa mới” của truyền thông xã hội hiện đại. Trên thực tế, ngài kêu gọi thế giới của truyền thông hiện đại “công hội Areopagus đầu tiên” là tiêu biểu cho trung tâm văn hóa của xã hội chúng ta và ngày nay nó có thể được coi như một biểu hiệu cho các lãnh vực mới cần phải được loan báo Phúc Âm.
Ngài nói, “nền văn hóa mới này không chỉ bắt nguồn từ bất kỳ nội dung nào được thể hiện, mà còn từ thực tế, nơi đó tồn tại những cách truyền thông mới, với ngôn ngữ mới, kỹ thuật mới và tâm lý mới.” Điều này được nói trong Thông Điệp về truyền giáo Redemptoris Missio, và do đó, hàm chứa một yêu cầu truyền giáo đặc biệt. Thách thức này vượt ra ngoài việc sử dụng đơn giản phương tiện truyền thông cho truyền giáo! Làm thế nào mà nền văn hóa mới này được rao giảng Tin Mừng và phản ứng truyền giáo của chúng ta như thế nào?
Mặc dù Redemptoris Missio đã được ra đời từ năm 1990, nhưng vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về điều này và lĩnh vực này vẫn còn bị bỏ ngỏ. Các liên quan sau đây có thể giúp làm rõ thêm:
- Nền “văn hóa mới,” và thực tế của truyền thông hiện đại được quyết định bởi cảm xúcnhiều hơn lý trí, là con tim hơn là cái đầu. Hầu hết các chương trình TV và các chương trình tương tự như MTV đang nhắm đến cảm xúc của dân chúng, chứ không phải lý trí. Chúng ít được thể chế hóa và trôi nổi tự do để đạt được nhu cầu và mong đợi xúc cảm. Sự phổ biến của ‘telenovelas’ (phim truyền hình nhiều tập) và các chương trình tương tự, là một bằng chứng cho cái gọi là “Reality Shows” (truyền hình thực tế), giống như “Big Brother”, như đã có phiên bản ở một số quốc gia. Số lượng ngày càng tăng của phim ảnh có nội dung khiêu dâm ngấm ngầm hoặc rõ ràng, là một ví dụ khác. (Quản lý của SM Megamall ở Manila gần đây đã quyết định chọn phim để chiếu tại rạp của họ thực sự phục vụ cho các gia đình.)[7]
Ngay cả việc lựa chọn và trình bày tin tức theo một cách đánh giá bởi cảm xúc hơn là sự thật ngày càng tăng. Nếu cảm xúc của dân chúng được phấn khích và thỏa mãn thì bảng xếp hạng sẽ tăng lên, vì các khán thính giả cảm thấy thỏa mãn nhu cầu cảm xúc của họ. Việc sử dụng các hình ảnh, mà cả âm nhạc và ngôn từ, cũng xây dựng và hướng đến cảm xúc nhiều hơn là suy nghĩ. Jacque Ellul đã công khai chỉ trích trong cuốn sách “humiliation of the Word” của ông, vì đã thấy trên truyền hình “một tác nhân tiêu chuẩn hóa và phù hợp với thế giới, vì nó đưa chúng ta đến những giấc mơ và kỹ xảo tâm lý của sự bù trừ.”[8] Nhà sản xuất truyền hình và truyền thanh tiếng Anh nổi tiếng Malcom Muggeridge, một hoán nhân Công giáo, đã đặt tựa đề là một trong những bài giảng của ông trên chương trình “Chúa Kitô và truyền thông” là “cám dỗ thứ tư” (fourth temptation): Satan trao tặng cho Chúa Giêsu một kênh truyền hình trên toàn thế giới đang diễn ra, nhưng Chúa Giêsu từ chối, vì Ngài quan tâm đến sự thật và thực tại, trong khi ma quỷ thì với trí tưởng tượng và hình ảnh.[9]
- Thế giới của truyền thông hiện đại là không biên giới.Điều đang xảy ra và các văn hóa phẩm từ khắp nơi trên thế giới, có thể truy cập được cho mọi người, trong một thế giới truyền thông toàn cầu hóa.
Bối cảnh truyền thông ở Ấn Độ đã phát triển trong vòng vài năm, chỉ từ một kênh truyền hình tivi, đã tăng lên đến 196 kênh vào giữa năm 2004; và tới hôm nay thì không biết đã là bao nhiêu, xu hướng: ngày càng phát triển!
Sự xuất hiện của DTH (truyền hình kỹ thuật số qua vệ tinh) ngày càng làm cho nhiều quốc gia ở châu Á, mang truyền thông mới này đến mọi hang cùng ngõ hẻm của các đất nước chúng ta. Điều này có ý nghĩa gì cho việc bảo tồn các nền văn hóa địa phương và đặc biệt là cho những người trẻ trong những khu vực này? Đó cũng không phải là một yêu cầu truyền giáo để bảo vệ các nền văn hóa và bảo vệ phẩm giá của dân chúng hay sao?
- Nền “văn hóa mới” tiếp tục sống trên các nghi lễ mới,thách thức sự tác động của các nghi lễ tôn giáo truyền thống cách đặc biệt. Gregory Goethals đã phản ánh nhiều năm trước đây về hiện tượng này và gọi nó là “Con Bò Vàng,” đề cập đến lịch sử của Israel khi bà viết rằng: “nghi lễ Tivi: sự tôn thờ trên bàn thờ video.”[10]
Việc khai mạc và kết thúc Thế vận hội Olympic, các sự kiện thể thao nói chung, cũng như có các quốc tang như cái chết của công nương Diana, Mẹ Têrêsa là những nghi lễ cũng như việc trình chiếu nghi lễ của riêng chúng ta đối với các chương trình truyền thông, chút ít mang tính đời tư. Những nghi lễ này dường như cũng thay thế các nghi lễ của đời sống tôn giáo một cách ngày càng hơn.
Các nghi lễ, theo James Carey là để duy trì và phát triển văn hóa và xã hội. Chúng được “liên kết với hiệu suất hơn là phong trào, tham gia hơn là sự tiêu dùng, ý nghĩa hay vẻ đẹp hơn là chiến lược và kết quả, sự khơi lên hoặc kêu gọi hơn là ảnh hưởng và hiệu quả. Một nghi lễ không phải là thứ mà người ta chỉ là khán giả, nhưng hơn thế, là điều mà người đó tham gia vào.”[11] Truyền thông nghi lễ như vậy thì quan tâm đến các cách thức và phương tiện truyền thông, duy trì sự nối kết của xã hội, để chia sẻ, tham gia, liên kết, tạo mối tương giao và có được niềm tin và sự tin tưởng chung.
Những kinh nghiệm như vậy thường đến một cách đặc biệt từ tôn giáo. Nhưng bây giờ, điều này dường như được chuyển qua bởi các phương tiện truyền thông hiện đại, điều mà nó quyết định và chi phối cuộc sống của dân chúng, hơn bất kỳ cam kết tôn giáo nào. Sự quan tâm đã chia sẻ của dân chúng ngày càng lớn hơn không còn là nghi lễ tôn giáo và kinh nghiệm nữa, nhưng hơn thế là các lễ nghi thế tục thay thế tôn giáo. Ví dụ cho điều này là các nghi lễ đám cưới và đám tang đã thế tục hóa, cũng như những chương trình giải trí, điều đang được nghi lễ hóa trong nhiều cách (sùng bái ngôi sao!)
- Văn hóa truyền thông hiện đại là được định hướng giải trí.Nó không có quá nhiều kiếnthức, mà mọi người tìm kiếm khi họ xem Tivi, theo dõi một bộ phim hoặc thậm chí đọc một bài báo và các ấn phẩm định kỳ. Họ ưa thích muốn được giải trí bởi báo lá cải và các ngôi sao và cuối cùng, thường chỉ muốn giết thời gian. Thậm chí thông tin ngày càng trở thành một phương tiện giải trí trong mục “thông tin – giải trí”, nơi thông tin được trình bày một cách giải trí. Không có nhu cầu để khán thính giả nỗ lực để hiểu, nhưng thay vào đó anh ta hoặc chị ta đưa mình đến thế giới của các chính trị gia, các ngôi sao và diễn viên đang lên hoặc các hình thức khác của chương trình, cái mà dẫn đến nhu cầu về giải trí hoặc sự tò mò của người tiếp nhận.
- Thế giới ngày nay của truyền thông xã hội, được xác định mạnh mẽ hơn bằng thương mại hóa.Ngay cả ở hầu hết các quốc gia ở Châu Âu nơi có hệ thống dịch vụ công cộng cho việc phát sóng thường là một đơn vị duy nhất, nhưng bây giờ, các đài phát thanh và truyền hình quảng cáo và tư nhân thì rất nhiều. Trong hệ thống của Mỹ ngay từ đầu, toàn bộ hệ thống truyền thông là tư nhân, nhưng không nhất thiết phải thương mại hóa hoàn toàn. Bây giờ hơn bao giờ hết, truyền thông trước hết là phải kiếm tiền và điều này dường như rất thường xuyên là mục đích duy nhất.
Các chương trình được sản xuất và được trình chiếu theo ‘bảng xếp hạng’ và nếu chúng không phù hợp với mong đợi, chúng đơn giản là bị rớt đài. Chủ nghĩa tiêu dùng được thúc đẩy thông qua quảng cáo rầm rộ và các giá trị được trình bày trong các chương trình và quảng cáo không còn là những giá trị truyền thống của đời sống Kitô hữu. William F. Fore nhìn thấy các giá trị được thúc đẩy trong thế giới truyền thông hiện đại theo cách sau: “sức mạnh đứng đầu danh sách: sức mạnh hơn người khác; sức mạnh hơn thiên nhiên… Đóng góp cho sức mạnh là các giá trị của cải và tài sản, ý tưởng rằng mọi thứ đều có thể được mua và mức tiêu thụ đó là một cái tốt nội tại. Các giá trị của chứng tự yêu mình, sự hài lòng ngay lập tức của mong muốn và sự thoải mái theo ngay sau đó. Do đó, thế giới truyền thông đại chúng nói với chúng ta rằng, chúng ta cơ bản là tốt, rằng hạnh phúc là mục đích chính của cuộc đời, và hạnh phúc đó bao gồm việc có được của cải vật chất. Các phương tiện truyền thông biến giá trị của tính dục thành quyến rũ tình dục, giá trị của lòng tự trọng thành sự tự cao, giá trị của ý chí sống thành ý chí quyền lực. Chúng làm trầm trọng thêm tính hám lợi thành tham lam, chúng đối phó với sự bất an bằng cách tạo ra nhiều bất an hơn và lo lắng bằng cách tạo ra lo lắng nhiều hơn. Sự thay đổi giá trị của giải trí thành cạnh tranh và giá trị của thư giãn thành sự thoát ly thực tế. Và có lẽ tệ nhất trong tất cả, các phương tiện truyền thông hạn chế kinh nghiệm của chúng ta và thay thế thế giới truyền thông cho thế giới thực, để chúng ta trở thành càng ngày càng kém hơn trong khả năng đưa ra những đánh giá về giá trị tốt, điều mà sống trong một thế giới phức tạp như vậy đòi hỏi phải có.”[12]
Quảng cáo rất thường được xây dựng trên và góp phần vào một nền văn hóa truyền thông như vậy. Trong một cách phát triển các biểu tượng và nghi lễ tôn giáo cũng được sử dụng cho việc buôn bán và mục đích thương mại. Do đó, một chuỗi của hàng quần áo ở Hà Lan gọi bản thân chúng là G-sus sử dụng các biểu tượng và ngôn ngữ tôn giáo như G-sus comes (Jesus đến), hoặc G- sus saves (Jesus cứu độ). Công ty thực phẩm Hà Lan Unilever đã quảng bá bảy loại kem mới với tên của bảy mối tội đầu; một công ty bia của Bỉ đã quảng cáo bia của mình liên quan đến Giờ Thứ Mười Một: bạn sẽ vào làm chứ; một miếng phô mai được quảng cáo bởi các thiên thần.[13]
- Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) mới,mang đến một đóng góp vào nền văn hóa mới, nơi không chỉ mở rộng khả năng truyền thông của chúng ta vượt thời gian và không gian. Chúng cũng mở ra những chiều kích và thách thức mới, cho cách tiếp cận truyền giáo đối với truyền thông. Nó là không đủ để chỉ có “online tôn giáo,” mà không có ít nhất một số tính tương tác. Có một con số đang gia tăng về những người trẻ cách đặc biệt, người mà cố gắng thể hiện và sống “tôn giáo online.”
Làm thế nào thế giới ảo thay đổi con người, hay trả lời với những nhu cầu sâu xa hơn và cho chúng một cơ hội để diễn đạt mong muốn tôn giáo của chúng? Mặc dù, nói chung, có một số tài liệu đang định hướng về chủ đề này, thì chúng ta vẫn thiếu sự học hỏi và nghiên cứu nghiêm túc về chiều kích truyền giáo và loan báo Tin Mừng ngoài ra ngoài việc nói về “e-vangelism” (truyền giáo điện tử) các “cybermissionaries” (các nhà truyền giáo mạng.)
Tất cả các chiều kích này của nền “văn hóa mới,” phải được coi là các lĩnh vực của truyền giáo. Chúng ta đáp trả với những tình huống như vậy như thế nào và quyền năng cứu chuộc của Tin Mừng đến từ đâu? Chúng ta không thể phủ nhận rằng, chúng ta đang sống trong một nền văn hóa truyền thông ngày càng phát triển và các lĩnh vực truyền giáo của chúng ta không còn được xác định theo địa lý nữa, mà là bởi những thách thức mới này.
Các xu thế thời đại (Megatrends) là những chỉ dẫn cho truyền giáo
Nền “văn hóa mới” của truyền thông xã hội, cũng phải được nhìn nhận trong bối cảnh Châu Á của chúng ta, nơi chiều kích truyền giáo xuất hiện trong một ánh sáng còn chưa rõ.
Trước thềm thiên niên kỷ mới vào tháng 11 năm 1999, các Giám mục phụ trách truyền thông của Châu Á đã dành sự quan tâm đến các vấn đề này, tại cuộc họp Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC-OSC) hàng năm ở Bangkok, bằng cách nhìn vào John Naisbitts “Xu thế thời đại Châu Á” theo quan điểm này. Một cách tiếp cận truyền giáo thực tế cho truyền thông xã hội phải đối mặt với những xu hướng này và những thách thức của chúng, để mang lại tinh thần truyền giáo của Chúa Kitô vào một nền văn hóa mới và đang nổi.
John Naisbitt mô tả các xu thế sau đây cho Châu Á. Chúng đòi hỏi theo cách riêng của chúng một cách tiếp cận truyền thông đặc biệt, mà các giám mục FABC đã cố gắng diễn đạt chi tiết hơn. Những xu thế đó là:
- Từ quốc gia đến mạng lưới toàn cầu
- Từ xuất khẩu đến tiêu thụ văn hóa
- Từ phong cách Phương Tây đến phong cách Châu Á
- Từ kinh tế do nhà nước chỉ huy đến thị trường tự do
- Từ các làng xã đến các siêu đô thị
- Từ lao động chân tay đến công nghệ cao
- Từ giàu đến nghèo
- Từ nam đến nữ
Trong các cuộc thảo luận về những hiệu quả truyền thông của những phát triển này cho Giáo Hội ở Châu Á, các giám mục đã phát hiện ra, ngoài tám xu thế của Naisbitt, còn có thêm hai xu hướng bổ sung có tầm quan trọng như những cái trên và mối quan tâm đặc biệt đối với các Giáo Hội:
- Từ các truyền thống tới các chọn lựa
- Từ niềm tin tới chủ nghĩa cực đoan
Tất cả những xu thế này có một thành phần truyền giáo và truyền thông mạnh mẽ. Chúng đáng được xem xét chi tiết hơn về những thách đố truyền thông xã hội đặc biệt của chúng. Điều này, tuy nhiên, vượt ra ngoài mục đích của bài trình bày này. Chỉ cần liệt kê các xu thế cho thấy thách thức to lớn mà việc truyền giáo trong bối cảnh của những xu thế này mang đến, cho hoàn cảnh của chúng ta ở Châu Á. Làm thế nào để chúng ta đáp trả và chuẩn bị chính bản thân chúng ta cho thách đố truyền giáo như thế?
Các giám mục trong cuộc gặp các giám mục FABC-OSC đã thực hiện bước đầu tiên trong việc nhận xét về tất cả những xu thế này trong bản tài liệu đúc kết của họ. Vì vậy, họ đã nêu, ví dụ trong xu thế “từ truyền thống đến những chọn lựa” rằng “trước đây, những người trẻ đã lớn lên trong xã hội dựa trên sự cố định, văn hóa, đạo đức và truyền thống thiêng liêng. Bây giờ, những truyền thống này rất thường được thay thế thông qua các tùy chọn khác nhau có sẵn cho cá nhân và cộng đoàn.” Họ kết luận rằng “truyền thông Kitô giáo phải chỉ cho thấy giá trị của các truyền thống, nhưng đồng thời cũng giúp biện phân sự phát triển mới. Đặc biệt là những người trẻ cần được hướng dẫn trong một xã hội ngày càng đa dạng hơn. Các nhà truyền thông kitô giáo nên là bạn đồng hành và hướng dẫn họ.”
Một cách tương tự như họ nêu trong xu hướng “từ niềm tin đến chủ nghĩa cực đoan,” đó là “sự xuất hiện của chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa thế tục, đã dẫn đến tình trạng bất an và đối đầu giữa các nhóm quốc gia và cộng đồng khác nhau, điều kêu gọi truyền thông Kitô giáo thúc đẩy hợp tác cũng như hiệp nhất, và cân bằng các thái cực đang nổi lên trong các cộng đồng và xã hội.”[14]
Quá tải thông tin và trật tự đạo đức
Anthony Rogers, thư ký điều hành của Văn phòng FABC về Phát Triển Con Người thấy một khu vực truyền giáo khác của thời đại chúng ta có liên quan đến truyền thông xã hội. Ông đã nói đến việc quá tải thông tin, thiếu tầm nhìn và ý thức về trách nhiệm xã hội, cũng như “các vấn đề hệ thống được tổ chức cao về thông tin sai lạc và quản lý hình ảnh. Mọi người không còn có thể phân biệt cái gì là đúng và cái gì là sai. Có một nhật thực từ từ về sự thật, về khái niệm công lý và hòa bình. Chúng ta nhận được rất nhiều tin tức và nhiều lượt xem trong bài báo và phương tiện truyền thông điện tử.”
Nhưng dường như hầu hết mọi người không thực sự hiểu được những gì thực sự đang diễn ra. Dường như có “một quan niệm sai lầm rằng trong một nền dân chủ, đa số luôn luôn là đúng:” hầu như không có quy tắc phổ quát và đạo đức. Điều này chỉ ra thực tế là chúng ta thiếu bất kỳ “thẩm quyền đạo đức” mà có thể làm cho các tình huống nhất định rõ ràng.
Bản thân các tôn giáo cũng quá bận tâm đến lợi ích và mối quan tâm nội bộ của họ bởi vì họ thiếu tầm nhìn và một nhãn quan rõ ràng về thực tế. Sứ vụ của Giáo Hội và các tôn giáo trong một tình huống được tạo ra một phần và chắc chắn như vậy, được duy trì phần lớn thông qua một truyền thông hiện đại là gì? Rogers kêu gọi “quay trở lại với từ ‘Ethos’, một lần nữa tập trung vào các giá trị và thái độ nhất định xuất phát từ các đặc điểm tinh thần của di sản văn hóa của chúng ta.”
Nó có nghĩa là một sự trở lại với các “nền tảng trọng yếu của tôn giáo” của chúng ta. Điều này cũng đặt câu hỏi về cách chúng ta “rao giảng” và truyền thông! Rogers thấy các tôn giáo hầu như chỉ tập trung vào “ngoại tại và hiển hiện, chứ không phải là nội tại và mầu nhiệm. Mọi thứ đều được đưa ra một lời giải thích hợp lý, để chúng ta có thể dạy mọi người về cuộc sống thay vì giúp mọi người học hỏi bằng cách suy tư trên cuộc sống và kinh nghiệm của họ để nhận ra Chúa làm việc thầm lặng trong cuộc sống và cộng đồng của họ.” “Chúng ta thực sự bận rộn”, Rogers nói, “về việc phân phát các đồ trang sức tôn giáo, sách vở và các nghi lễ thu hút ngày càng nhiều người tiêu dùng theo Kitô giáo để thỏa mãn những mốt nhất về việc tôn sùng tôn giáo. Rõ ràng là sự tập trung này vào nhu cầu về sự an toàn, giữa sự hỗn loạn kéo chúng ta vào vòng xoáy xung quanh những hòn đảo nhỏ của sự sung túc và sự giàu có, được duy trì bởi tính tâm linh cá nhân hóa và sự thờ ơ xã hội. Phúc lợi và dịch vụ trợ cấp phát triển mạnh, nhưng chúng ta thì khó khăn để trở thành chứng tá cho thế giới. Ánh sáng nhỏ được chiếu vào thế giới rộng lớn và chúng ta cũng không nhìn thế giới trong một ánh sáng mới, bởi vì ánh sáng của đức tin của chúng ta, thì giống như ngọn đèn được cố định chắc chắn dưới gầm bàn. Do đó, chúng ta rút dần vào lối văn hóa thờ ơ và dửng dưng của mình. Tránh xa những tiếng khóc của thế giới và không thể làm cho đức tin Kitô giáo của chúng ta thực sự mang tính truyền giáo, được thiết lập dựa trên phúc âm của Tin Mừng của Chúa Giêsu Á Châu, chúng ta trở thành nạn nhân của một định hướng tiêu dùng chịu ảnh hưởng của các hình thức khác nhau của Kitô giáo nền tảng. Chúng ta không còn có thể tham gia vào cuộc đối thoại thực sự với tư cách là những Kitô hữu thiểu số, trong các quốc gia của chúng ta và là nỗ lực đối thoại giữa các quốc gia.”
Trong sứ mệnh của chúng ta về truyền thông đích thực, chúng ta phải trở về cội nguồn của những di sản văn hóa của chúng ta. “Việc chiêm ngắm những khuôn mặt của một Đức Giêsu Á Châu” sẽ cho phép chúng ta “thần học nó trong bối cảnh Châu Á và phát triển một phương pháp thực sự không thể tách rời và lối sư phạm tự do,” điều mà dẫn đến một đạo đức biến đổi trong lĩnh vực truyền giáo của truyền thông hiện đại.[15]
Một số kết quả
Cách đây hơn 15 năm, Michael Traber đã viết trong Tạp chí Đại kết của ban cố vấn quốc tế của các giáo hội ở Geneva (1987) một bài viết kích thích tư duy dưới tiêu đề: sự ảo ảnh của “truyền giáo là tiếp thị”. Ông bảo vệ điều đó rằng, đặc biệt là các phương tiện truyền thông đại chúng, không nhất thiết có nghĩa là cho việc rao giảng Tin Mừng. Chúng cơ bản là giải trí và chuyện kể có định hướng và do đó không nhất thiết phải thực sự được trang bị hoàn toàn cho truyền giáo. Truyền giáo như là sự sai đi và sự công bố, thì không chỉ giống như chuyện bán xà phòng và chất tẩy rửa hoặc giải trí dân chúng, theo mối quan tâm các phương tiện và thủ thuật theo lối các công cụ hay mưu mẹo càng tốt thì sự thành công càng lớn.
Truyền giáo trong truyền thông xã hội thì vượt xa các cách tiếp cận như vậy, bởi vì nó là thách đố để đem Chúa Kitô vào trong nền “văn hóa mới” cách trọn vẹn. Điều này, tuy nhiên, chỉ có thể được thực hiện bởi các cá nhân và các cộng đoàn, người mà, chính họ là những dấu chỉ của ơn cứu chuộc của Chúa và không phải trong trường hợp cá biệt này, bởi các phương tiện và sự sắp xếp kỹ thuật. Mặc dù, nền “văn hóa mới,” thì được xác định mạnh mẽ bởi kỹ thuật mà cá nhân, người mà quyết định nó cách chung cuộc. Do đó, “chứng tá đời sống” của các cá nhân và các cộng đoàn Kitô hữu quyết định trước hết và trên hết về việc truyền giáo trong truyền thông xã hội, như Đức Giáo Hoàng Phaolô khẳng định trong Evangelii Nuntiandi: “đối với Giáo Hội, đời sống chứng tá của người tín hữu đích thực hiến mình cho Thiên Chúa trong sự thông hiệp không gì cắt đứt được và nhiệt thành giúp đỡ anh em là phương thế thứ nhất của việc Phúc Âm hóa. Mới đây Ta đã nói với một nhóm giáo dân rằng: người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”(Evangelii Nuntiandi, số 41).
Nếu chúng ta có thể, qua cuộc sống của mình để chỉ ra cách hòa nhập nền “văn hóa mới” với chính ngôn ngữ mới, phương tiện mới và tâm lý mới vào trải nghiệm cá nhân của chúng ta về ơn cứu chuộc của Chúa Kitô thì cũng là rao giảng Tin Mừng của Truyền Thông Xã Hội có thể đảm nhiệm. Nó đặt để một khuôn mẫu để có thể được mọi người nhìn thấy. Nó dựa vào yếu tố “là” nhiều hơn yếu tố “làm’ của chúng ta.
Điều này thực sự chỉ ra vai trò trung tâm của linh đạo cho truyền giáo trong Truyền Thông Xã Hội. Huấn Thị Mục Vụ về việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội Communio et Progressio (1971) được đề nghị bởi Công Đồng Vatican II, khẳng định rằng: “nếu người công giáo được dành cho việc phục vụ đối với các phương tiện truyền thông xã hội và hành động để những thứ này có thể phục vụ cùng đích của nhân loại, không cần phải nói rằng nó thuộc về lĩnh vực thiêng liêng. Bằng cách này, văn kiện tiếp tục, bản chất cơ sở của truyền thông xã hội sẽ được đánh giá rõ ràng hơn,… phẩm giá của con người, sẽ được hiểu biết tốt hơn và kính trọng hơn. Theo cách này, sự tương tác xã hội này làm cho mọi người hàng xóm có thể dẫn đến truyền thông thật sự” (Communio et Progressio, số 102). Đích điểm và mục đích này thậm chí còn cấp bách hơn trong nền “văn hóa mới” của ngày hôm nay.
Truyền giáo trong truyền thông xã hội cuối cùng nhằm mục đích giải phóng con người. Họ phải thoát khỏi sự phụ thuộc và bị vướng mắc vào các ngôn ngữ, kỹ thuật và tâm lý mới của nền “văn hóa mới” này, nơi họ có thể mất khả năng đưa ra ý kiến của mình, để quyết định và thay vào đó trở thành nô lệ cho chủ nghĩa tiêu dùng, của cải vật chất, thời trang và sự nổi tiếng chỉ để được thành công ở “đó” mà thôi.
Kết luận
Mối quan hệ giữa Truyền Giáo và Truyền Thông Xã Hội không chỉ là vấn đề sử dụng phương tiện truyền thông phù hợp và phát triển các công cụ của truyền thông tốt nhất, để loan báo trực tiếp hoặc gián tiếp về Lời hoặc thậm chí cho các việc mục vụ của chúng ta. Toàn bộ thế giới Truyền Thông Xã Hội như một nền “văn hóa mới”, bản thân nó là một lĩnh vực truyền giáo đặc biệt; được Kitô giáo hóa và được truyền giáo.
Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận mới và sâu sắc hơn, điều mà bắt đầu trước tiên hết với ý định cá nhân của chúng ta cho truyền thông. Nếu truyền thông xã hội là cách chúng ta chia sẻ với nhau, thì điều đó có nghĩa là nó phải bắt đầu trong cộng đoàn của chúng ta. Chúa Giêsu nêu gương trong ba bước được phản ánh trong sự chữa lành của Ngài như trong câu chuyện chữa lành của mẹ vợ của Phêrô (Mc 1,31): Ngài đến với bà – Nắm lấy tay bà – Và chữa lành cho bà. Nếu chúng được thực hành trong cộng đoàn của chúng ta, chúng ta sẽ sẵn sàng hơn, để đáp trả với những thách đố của nền “văn hóa mới” của truyền thông ngày nay.
Chỉ từ một khuynh hướng của cuộc sống (thiêng liêng) như vậy, mà cuộc đối thoại ba chiều kích có thể được phát triển, điều mà Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á (FABC) đã thúc đẩy ngay từ ban đầu, hơn 30 năm trước: cuộc đối thoại 1. Với mọi người, đặc biệt là người nghèo, 2. Với các nền văn hóa và 3. Các tôn giáo. Điều này sẽ dẫn đến một sự hiểu biết tốt hơn về bối cảnh thực tế của Châu Á bây giờ.
Như những con người của chứng tá, của thiêng liêng và tự do, chúng ta cũng trở thành những người bạn đồng hành đáng tin cậy cho nền “văn hóa mới,” người mà có thể giúp đỡ với những thay đổi và phát triển vì lợi ích của lục địa và nhân loại của chúng ta.
Tuy nhiên, tất cả những điều này là như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng nói rằng là “một vấn đề phức tạp,” điều phản ánh rằng “sự ly khai giữa Tin Mừng và văn hóa quả là một thảm trạng của thời đại chúng ta” (Evangelii Nuntiandi, số 20).
Nền “văn hóa mới,” theo Redemptoris Missio cần học hỏi và nghiên cứu sâu hơn, đặc biệt là tại các trường thần học và các học viện. Điều này nên được coi là một thách đố đặc biệt cho bất kỳ trường thần học, chủng viện hoặc học viện nào, mà cũng cho còn cho các nghiên cứu liên ngành. Dường như chúng ta đã từng đụng chạm cách khó khăn vào mối quan tâm quan trọng này, điều rất cần thiết cho truyền giáo và truyền thông xã hội.
Nhưng điều đó cũng có nghĩa là mỗi người trong chúng ta thay đổi lối suy nghĩ của mình từ định hướng công cụ trong truyền thông, điều này nhấn mạnh đến việc huấn luyện chuyên biệt, cũng như định hướng kỹ năng, cho đến việc đào tạo một khuynh hướng cởi mở để lắng nghe Thiên Chúa và với người khác. Đây là một thách đố, không chỉ đối với những người có mối quan tâm đặc biệt trong truyền thông xã hội, mà còn đối với tất cả chúng ta. Cách tiếp cận và chiều hướng tương tự cũng phải được phản ánh trong tất cả việc giảng dạy và nghiên cứu thần học.
__________
[1] cf. Franz-Josef Eilers. Communicating in Community. An introduction to Social Communication, 3rd revised and enlarged edition. Manila (Logos) 2002, tr.67.
[2] Franz-Josef Eilers/Heinz Helf. Arnold Janssen. A Pictorial Biography, 2nd Edition Nettetal (Steyler Verlag) 1987, tr 62. For encyclical letters on Mission see: Raymond Hickey (ed). Modern Missionary Documents and Africa. Dublin (Dominican Publications), 1982.
[3] Eilers 2002, tr 23.
[4] Cf. Franz-Josef Eilers. Communicating in Ministry and Mission. An Introduction to Pastoral and Evangelizing Communication, 2nd Edition Manila (Logos) 2004 (Bangalore, Asian Trading 2004), tr 61. (có thể đọc bản tiếng việt toàn bộ cuốn sách này tại: http://www.truyen-tin.net/ViewNewsDetail.aspx?tabid=63&NewsPK=4917 (chú thích của người dịch).
[5] Franz-Josef Eilers/Heinz Helf. Arnold Janssen. A Pictorial Biography, 2nd Edition Nettetal (Steyler Verlag) 1987 tr 62. For encyclical letters on Mission see: Raymond Hickey (ed). Modern Missionary Documents and Africa. Dublin (Dominican Publications) 1982.
[6] For a more extensive presentation see Eilers 2002, tr 41-60. For intercultural communication: Franz-Josef Eilers. Communicating between Cultures. An Introduction to Intercultural Communication, 2nd Edition. Manila (Logos) 1994.
[7] Today (Newspaper), Manila Sept.9, 2004, tr 8.
[8] Jacque Ellul. The Humiliation of the Word. Grand Rapids (Eerdman) 1985 tr 140. Available online through: religion-online.org.
[9] Malcolm Muggeridge. Christ and the Media. London (Hodder and Stoughton)1977, tr 23-42.
[10] Gregory Goethals. The TV Ritual: worship on the Video Altar. Boston (Beacon Press) 1981. Cf. also Goethals. Myth and Ritual in Cyberspace. In Jolyon Mitchell and Sophia Marriage (ed). Mediating Religion, Conversations in Media, Religion and Culture. London (T&T Clark) 2003, tr 257-269.
[11] Erc W. Rothenbuehler. Ritual Communication. From Everyday conversation to mediated ceremony. Thousand Oaks (Sage) 1998 tr 125. Cf. also: James Carey. Communication as Culture. Essays on Media and Society. New York/London (Routledge) 1992.
[12] William Fore. Television and Religion, The shaping of faith values and culture. Minneapolis (Augsburg) 1987, tr 64.
[13] Ineke de Fijter. Mainline Religion and Media culture. Amsterdam: Unpublished Manuscript, 2004.
[14] Franz-Josef Eilers (Ed). Church and Social Communication in Asia. Documents, Analysis, Experiences. Manila (Logos) 2002, tr 33-40.
[15] Anthony Rogers. Fighting Poverty: Politics and Policies???. Paper delivered at the Signis Asia Conference 2004. Kuala Lumpur Oct. 7, 2004.
Franz-Josef Eilers, SVD
Phêrô Phạm Minh Triều, CM chuyển ngữ từ fabc.org
2020
Cần một đối thoại ngôn sứ cho những vấn đề truyền giáo hôm nay
Năm nay Giáo hội kỷ niệm 100 năm ngày ban hành tông thư truyền giáo Maximum Illud. Nhìn về lại lịch sử chúng ta thấy vào năm 1919, những thập niên đầu của thế kỷ 20, trong hoàn cảnh khủng hoảng đức tin, cũng như nhưng biến cố của đại chiến thế giới thứ nhất (1914-1918), Châu Âu bước vào một cuộc phân cực sâu sắc trong xã hội, tình hình công giáo và đời sống đức tin đang trong tình trạng xáo trộn, khủng hoảng về việc truyền giáo cũng đang được đặt lại, đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ truyền giáo thế kỷ XIX. Vì thế, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV ban hành tông thư truyền giáo Maximum Illud này với phụ đề về việc truyền bá đức tin Kitô Giáo trên khắp thế giới, là tông thư đầu tiên trong 5 thông điệp về truyền giáo được các giáo hoàng công bố trong suốt 40 năm tiếp theo cho đến công đồng Vaticanô II. Tông thư này không cung cấp một cơ sở thần học cho hoạt động truyền giáo. Các mục tiêu truyền giáo từ tông thư này cho tới công đồng Vaticanô II là chinh phục người ta trở lại đạo (conversio model) và thiết lập các giáo hội địa phương (plantatio ecclesiae model) để củng cố lại và định hướng cho sứ vụ của Giáo hội trong hoàn cảnh khủng hoảng này. Sau tông thư, Giáo hội đã đánh dấu được những khởi hứng mới mang tính quốc tế như việc thành lập Hội Đồng Truyền Giáo Quốc tế (International Missionary Council) năm 1921.[2]
Từ năm 1919 đến nay, 100 năm qua Giáo hội và thế giới chứng kiến nhiều thay đổi, Giáo hội Chính Thống Phương Đông phải đối diện với với những hậu quả của cuộc cách mạng Nga (1917), các nhà truyền giáo đối diện với tình trạng bị bắt bớ, bạo lực và bị trục xuất khỏi những nước xã hội chủ nghĩa và cộng sản như Trung Quốc, Việt Nam và những nước có chế độ cộng sản nắm quyền. Các Giáo hội Châu Âu chứng kiến sự trỗi dậy của Hitler năm 1933 và Thế Chiến thứ 2 (1939-1945), sự cáo chung của chế độ thuộc địa, sự bùng nổ của nhiều cuộc chiến địa phương, làn sóng di dân, sự trỗi dậy trở lại của Hồi Giáo[3] những cuộc cách mạng về chính trị, kinh tế và truyền thông… những yếu tố đó tác động rất lớn đến thế giới, con người và hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Trong bối cảnh thế giới, xã hội và con người đó, Giáo hội đã cố gắng tìm những phương thức định hình cho sứ vụ truyền giáo trong hoàn cảnh của toàn cầu hóa và tục hóa bằng những phương thức hội nhập và đối thoại khác nhau nhằm thăng tiến con người, trong ý thức thông truyền Đức Kitô và hội nhập những giá trị Tin Mừng vào cuộc sống bằng một sứ vụ mang tính ngôn sứ hôm nay.
- Định Hình Những Hướng Đi Của Truyền Giáo
Dọc suốt thế kỷ 20, ngoài việc đối diện với những cuộc khủng hoảng như trình bày ở trên, người Kitô giáo (bao gồm Công Giáo và Tin Lành) lại phải chống chọi với chủ nghĩa cộng sản vô thần tại các nước Đông Âu và một số nước Á Châu, khi sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh xã hội và thế giới đang xáo trộn và định hình lại trật tự, sứ vụ của Giáo hội trong công việc truyền giáo lúc bấy giờ cho đến công đồng Vaticanô II, với 2 mẫu thức truyền giáo như đã nói ở trên là vẫn dựa trên 2 trường phái là cải giáo và xây dựng Giáo hội. Hai mô hình này xoay quanh chủ đề về ý muốn cứu độ của Thiên Chúa [conversio animarum thuộc trường phái Muenster (Đức)] và thiết lập giáo hội địa phương [plantatio ecclesiae thuộc trường phái Louvain (Bỉ và Pháp)]. Tuy nhiên, trong lúc làm sứ vụ và đặc biệt quan tâm đến con người là đối tượng của sứ vụ, khoa nhân chủng học truyền giáo ra đời để hỗ trợ cho sứ vụ truyền giáo. Khoa nhân chủng này được khởi xướng bởi Wilhelm Schmidt, SVD, một nhà ngôn ngữ và nhân chủng học đa tài của Dòng Ngôi Lời, ông sáng lập viện nghiên cứu Anthropos Institute để nghiên cứu về mối phát triển liên kết nhân chủng, văn hóa và tôn giáo để hỗ trợ cho việc thực hành truyền giáo.[4] Bên cạnh đó, có một sự đóng góp rất lớn cho nền thần học truyền giáo và thần học về các tôn giáo của Yves Congar, Karl Rahner và nhiều thần học gia khác đã góp phần hình thành những suy tư thần học cho Công đồng Vaticanô II. Từ đó việc tìm hiểu để biết rõ những gì liên hệ đến con người, văn hóa và các tôn giáo được quan tâm trong sứ vụ truyền giáo của Giáo hội. Để đến Công đồng Vaticanô II, có một bước đột phá trong ý hướng truyền giáo với Sắc lệnh Truyền Giáo Ad Gentes và Tuyên ngôn Tự Do Tín Ngưỡng Nostra Aetate đặt nền tảng thần học và vạch ra nhiều phương thức cho sứ vụ truyền giáo hậu công đồng mà Lumen Gentium số 16 đã định hướng nền tảng tín lý và thần học cho sứ vụ. Hiến chế đã dựa theo nền tảng thần học của thánh Tôma Aquinô và những giáo huấn truyền thống khi khẳng định rằng “những người không nhận biết Phúc âm của Chúa Kitô và Giáo hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi” (LG 16).
Để xác định lại tầm quan trọng của việc truyền giáo và bản chất của mình, Giáo hội qua Công đồng Vaticanô II xác định bản chất của mình là truyền giáo (x. AG 2), theo đó nếu Giáo hội không ý thức và không quan tâm đến sứ vụ truyền giáo của mình là mất bản chất mà mất bản chất thì Giáo hội không còn là mình nữa. Quả vậy, để đem ra một định hướng chung cho việc truyền giáo, công đồng đã dung hòa những trường phái khác nhau trong những phương thức của sứ vụ: cải giáo, xây dựng giáo hội địa phương và quan tâm đến con người trong các nền văn hóa và tôn giáo. Công đồng Vaticanô II dựa trên bối cảnh thần học này, đã cố gắng mô tả ý nghĩa đặc thù của sứ mạng truyền giáo: “(Việc) Truyền giáo là một thuật ngữ thường được dùng để chỉ ‘tất cả những công cuộc đặc biệt trong đó các nhà rao giảng Phúc Âm đã được Giáo hội sai đi khắp thế gian thực hiện nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm, và ‘vun trồng’ Giáo hội nơi các dân tộc, cũng như những nhóm người chưa tin Chúa Kitô” (AG 6).
Tuy nhiên, với một định nghĩa cô đọng như vậy nếu không có những hướng dẫn cụ thể, chắc chắn công việc truyền giáo của Giáo hội cũng chỉ dừng lại ở lý thuyết và thần học. Vì thế, cách thức mà Giáo hội muốn và thế giới ngày nay đang cổ võ đó là làm cách nào để tiếp cận với con người. Xem ra các phương thức của đối thoại, hội nhập văn hóa, thăng tiến con người như là những cách tiếp cận của sứ vụ trong thời hiện đại này.
- Đối Thoại Như Một Cách Tiếp Cận Cho Hướng Đi Của Truyền Giáo
Đối thoại là một thuật ngữ khá phổ biến và là một cách tiếp cận trong tương giao cuộc sống với con người ở mọi thời đại khác nhau.
Con người không thể sống mà không có đối thoại. Khi đối thoại, các đối tác của nhau sẽ hiểu nhau hơn, biết về nhau, thông cảm nhau hơn, có thể đi đến hợp tác với nhau trong nhiều lãnh vực của cuộc sống. Khi đối thoại, chắc chắn chúng ta sẽ giảm bớt được nguy cơ đối đầu, đối kháng, đối lập, đối chọi, đối chất… Mà ý nghĩa đặc thù của đối thoại là cùng khiêm nhường lắng nghe nhau và tôn trọng nhau. Vì thế, khi bàn thảo về sứ vụ truyền giáo tại Á Châu, các giám mục Á Châu đã tìm một “con đường riêng và mới để là Giáo hội tại Á Châu đó là đối thoại” để làm phương tiện cho phục vụ Tin Mừng trong thế giới đa dạng văn hóa và đa nguyên tôn giáo ngày nay, cũng như trong một xã hội phân cực giàu nghèo. Giáo hội cũng muốn tạo những tương quan với thế giới trong tinh thần đối thoại. Thật vậy, trong Tông huấn Giáo hội tại Á Châu, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói lên ý thức sứ mạng của Giáo hội với “ước muốn đối thoại không phải chỉ là một chiến lược để chung sống hòa bình giữa các dân tộc; nó còn là một phần thiết yếu của sứ mạng Giáo hội, bởi vì nó có nguồn gốc trong cuộc đối thoại cứu rỗi đầy tình yêu của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con trong quyền lực Chúa Thánh Thần.”[5] Điều này được Đức Phaolô VI định hướng theo tinh thần đổi mới của Công đồng Vaticanô II, mà thông điệp Ecclesiam Suam giới thiệu như là một phương thức truyền giáo qua đối thoại. Bản thông điệp này vẫn được mệnh danh là bản hiến chương về đối thoại của Giáo Hội. Vì trong Thông Ðiệp Ecclesiam Suam, Ðức Phaolô VI đã tuyên bố về vấn đề liên hệ giữa Giáo Hội và thế giới hiện đại, là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngài viết rằng ‘sự hiện hữu của nó và sự cấp bách của nó, như thể tạo nên một gánh nặng trên tâm hồn chúng ta, tạo ra một sự khuyến khích, một ơn gọi’. Kể từ ngày Công đồng, Giáo hội luôn chứng tỏ mình muốn theo đuổi liên hệ đó trong tinh thần đối thoại.[6]
Tuy nhiên, ‘đối thoại cũng không được hiểu như một thủ thuật khôn khéo và tế nhị để loan truyền danh xưng và sứ điệp của Đức Kitô cho các tín hữu.’ Trong bối cảnh toàn cầu hóa hôm nay, chúng ta phải hiểu đối thoại là một chọn lựa ưu tiên trong thế giới phân cực và đa cực. Trong tiến trình đối thoại, nó thực sự và phải bao gồm một khoảnh khắc rao giảng, mỗi người rao giảng cho nhau. Vì thế ‘đối thoại hoàn toàn không thay thế việc rao giảng hay nhu cầu mời gọi sự hoán cải Kitô giáo.’ Nhưng một cách sâu xa nhất, đối thoại ngày nay là ‘quy tắc và cung cách cần thiết của mọi hình thức truyền giáo Kitô giáo.’ Vì việc truyền giáo là tham dự vào sứ vụ của Thiên Chúa, và bản tính và hành động của Thiên Chúa mang tính đối thoại. Việc Thiên Chúa tự mặc khải cho thấy một sự hiệp thông trong đối thoại được diễn tả một cách cụ thể nơi con người của Đức Giêsu, trong Giáo hội nhờ Thánh Thần. Đó là cách Thiên Chúa đối xử tự do và tôn trọng trong đối thoại đối với loài người và toàn thể tạo thành.[7] Quả vậy, Tuyên ngôn Dominus Jesus xác định: “Đối thoại chắc chắn không thể thay thế, nhưng đúng hơn, đi kèm theo sứ vụ truyền giáo, hướng về mầu nhiệm hiệp nhất từ đó mà tất cả người nam và người nữ, những kẻ được cứu chuộc, chia sẻ dù cách khác nhau, cùng một mầu nhiệm cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Thần Khí của Người.”[8] Như vậy, trong việc đối thoại, một mặt ta phải luôn trân trọng những gì là chân thiện mỹ nơi các tôn giáo, nhưng mặt khác ta không thể lãng quên hay đánh mất căn tính của mình là đem Tin Mừng cho các dân tộc. Công đồng Vatican II định hướng rõ ràng cho việc đối thoại liên tôn là cùng nhau khám phá và làm triển nở những yếu tố “chân lý và ân sủng do sự hiện diện tiềm ẩn của Thiên Chúa nơi mọi tôn giáo.”[9]
- Đối Thoại Là Quy Tắc Chung Cần Thiết Cho Mọi Hình Thức Truyền Giáo
Từ những định hướng cụ thể như đã nêu trên, và chúng ta cũng đã biết “đối thoại là quy tắc chung và là cung cách cần thiết của mọi hình thức truyền giáo Kitô giáo,” cũng như của mọi khía cạnh của nó, dù ta hiểu về nó như là một sự hiện diện và chứng tá, phục vụ đơn sơ, hay là rao giảng trực tiếp. Trong mọi hoạt động truyền giáo, dù áp dụng phương thức nào cũng phải luôn đặt trong ý thức rằng mọi ý nghĩa của truyền giáo mà không thấm nhuần một tinh thần đối thoại như thế sẽ là đi ngược lại những đòi hỏi của nhân loại đích thực và đi ngược lại các huấn giáo của Tin Mừng.[10] Khi thấy được những sức năng động của phương thức này, Văn phòng Đối Thoại Liên Tôn đã đem ra những phương cách cụ thể để quá trình đối thoại trong sứ vụ đi theo được những lộ trình nhất định nhằm đạt tới hiệu quả cho từng giai đoạn.
Hoạt động đối thoại được diễn tả trong nhiều cách mà số 42 trong văn kiện “Ðối Thoại và Rao Truyền” đã tóm tắt những hình thức có tính nguyên tắc như sau: 1) Ðối thoại bằng đời sống: Ðây là môi trường mà con người cố gắng sống trong tinh thần cởi mở và thân thiện láng giềng; cùng nhau chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, những khó khăn cũng như những lo toan của con người trong cuộc sống. 2) Ðối thoại bằng hành động: Các Kitô hữu và những người khác cộng tác với nhau trong việc phát triển toàn diện và sự tự do của các dân tộc. 3) Ðối thoại bằng cách trao đổi về thần học: Các chuyên viên đào sâu hơn sự hiểu biết của họ về các di sản của các tôn giáo và đánh giá đúng về những giá trị tinh thần của mỗi tôn giáo. 4) Ðối thoại bằng kinh nghiệm tôn giáo: Các tín đồ của các tôn giáo có thể chia sẻ cho nhau những điều tốt đẹp trong tôn giáo của mình. Chẳng hạn về vấn đề cầu nguyện, chiêm niệm, niềm tin và các cách thế tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm Ðấng Tuyệt Ðối.[11] Văn Phòng Đối Thoại Liên Tôn cũng nhấn mạnh tầm quan trọng trong đối thoại là “đừng xem thường tính cách đa dạng này của các hình thức đối thoại.”[12] (DP 43) Từ những định hướng chung đó, qua việc đối thoại, việc truyền giáo của Giáo hội có thể áp dụng cho mọi đối tượng trong sứ vụ. Như việc đối thoại liên tôn, đối thoại đại kết, đối thoại văn hóa, đối thoại với người nghèo, đối thoại với tạo vật…
Thông Điệp Redemptoris Missio số 55 đã nói về khía cạnh đối thoại cách rõràng vàchi tiết. Đối thoại liên tôn là một phần trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo hội. Hiểu như một phương pháp và phương tiện hiểu biết lẫn nhau và làm cho nhau nên phong phú, đối thoại không đối lập với sứ mạng truyền giáo; thực ra, nó liên kết đặc biệt với nhiệm vụ này và là một trong những biểu hiện của nó. Trong ánh sáng của nhiệm cục cứu độ, Giáo hội không thấy có sự xung khắc nào giữa rao giảng về Chúa Kitô và tham gia vào các cuộc đối thoại liên tôn. Thay vào đó, Giáo hội cảm thấy cần thiết phải liên kết cả hai trong bối cảnh truyền giáo. Hai yếu tố này vừa phải duy trì được sự liên kết sâu sắc đồng thời cũng phải giữ được những đặc trưng phân biệt rõ ràng.[13]
Tông huấn Giáo hội tại Á Châu xác định và nhấn mạnh việc không thể loại bỏ các nguyên tắc, cũng không nên chủ trương hòa giải giả tạo, nhưng ngược lại, phải làm chứng lẫn cho nhau để cùng nhau tiến bước trên con đường tìm kiếm và sống kinh nghiệm tôn giáo, và đồng thời loại bỏ những tiên kiến, bất bao dung và hiểu lầm. Chỉ những người có đức tin Kitô giáo trưởng thành và xác tín, mới có tư cách dấn thân vào việc đối thoại liên tôn chân chính. Chỉ những Kitô hữu được dìm sâu vào trong mầu nhiệm Đức Kitô và sống hạnh phúc trong cộng đồng đức tin của họ, mới có thể dấn thân vào việc đối thoại liên tôn, mà tránh được sự liều lĩnh không đáng và có hy vọng hái được hoa quả tích cực. Do đó, điều quan trọng là cung cấp những kiểu mẫu xứng đáng cho cuộc đối thoại liên tôn – Phúc âm hóa trong đối thoại và đối thoại để Phúc âm hóa – và sự đào tạo xứng hợp cho những ai dấn thân vào đó.[14] Hơn thế nữa, trong tiến trình đối thoại, tín đồ thuộc các tôn giáo khác trên thế giới, tuy không bỏ các truyền thống riêng của mình, vẫn còn có thể dấn thân vào việc cầu nguyện và kiến tạo hòa bình thịnh vượng cho nhân loại. Giáo hội phải tiếp tục cố gắng gìn giữ và cổ võ, ở mọi cấp bậc, tinh thần gặp gỡ và hợp tác giữa các tôn giáo đó.[15] Từ những yếu tố tích cực và xây dựng đó trong tinh thần đối thoại, những đối tác của đối thoại sẽ thân thiện và niềm nở hơn với nhau như Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi: “Cuộc đối thoại này phải luôn phải diễn ra một cách thân thiện và niềm nở; không được bỏ qua liên hệ căn bản giữa đối thoại và rao giảng mà Giáo hội mang đến, phải tuân giữ đúng đắn và tăng cường liên hệ với những người chưa phải là Kitô hữu… Sự cởi mở chân thành cần nắm vững căn tính trong xác tín sâu xa nhất, nhưng cũng phải cởi mở để có thể hiểu người khác, trong ý thức, cuộc đối thoại sẽ làm phong phú cho cả đôi bên.”[16]
Việc gặp gỡ đối thoại thực sự trong một bối cảnh, với con người hay một tôn giáo dẫn đưa nhà truyền giáo hay người Kitô giáo khám phá ra sự viên mãn của Đức Kitô. Quả thực, trong thực tế khi đối thoại là lúc cho chúng ta một thời khắc bình an cho cả hai phía trong việc tuyên xưng đức tin có tính ngôn sứ; nó cho phép chúng ta biết về các tôn giáo, con người hoặc văn hóa không như lý thuyết và trừu tượng mà như những cách sống đã được sống bởi những con người và hoàn cảnh cũng như tôn giáo mà chúng ta đang cùng trở thành những người bạn và cộng tác. Hơn nữa, nó giúp chúng ta đào sâu sự hiểu biết của mình về những đối tác mà chúng ta đang đối thoại.
Nhưng trước hết và trên hết, nó cho chúng ta một khám phá ra sự xác tín trong đức tin của chúng ta, để ta có thể cống hiến cách sống đức tin ấy cho người khác.[17] Vì thế chúng ta có thể đoan chắc rằng trong tinh thần đối thoại như thế phải nói lên được một tinh thần ngôn sứ.
- Từ Phương Thức Đối Thoại Hướng Tới Đối Thoại Ngôn Sứ
Tại sao lại là đối thoại ngôn sứ? Để chuẩn bị cho Tổng Tu Nghị lần thứ 14, các thành viên của Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời được cung cấp tài liệu Tổng Tu Nghị để cùng nhau cầu nguyện và học hỏi trong gần một năm trước đại hội và tu nghị để tìm ra một hướng truyền giáo cho toàn Hội Dòng trong vòng 6 năm theo nhiệm kỳ của Bề trên Tổng quyền. Trên tinh thần đó, kỳ đại hội và Tổng Tu Nghị năm 2000 các nghị viên đã chọn chủ đề truyền giáo bằng “Đối thoại Ngôn sứ” cho toàn Hội Dòng trong nhiệm kỳ 6 năm và Tổng Tu Nghị 2006 tiếp tục lặp lại chủ để đó cho 6 năm tiếp theo.
Tại sao Dòng Ngôi Lời lại chọn chủ đề “Đối Thoại Ngôn Sứ” cho sứ vụ suốt 12 năm cho của toàn dòng? Xảy ra là, trong các phiên họp của Tổng Tu Nghị năm 2000, các nghị viên đến từ các nước Châu Mỹ La Tinh bàn bạc và đề nghị phương thức truyền giáo cho thời đại mới phải mang yếu tố ngôn sứ trong việc quan tâm ưu tiên chọn lựa và giải phóng cho người nghèo, thăng tiến nhân sinh, gióng lên tiếng nói phản biện cho xã hội về công bằng và quyền lợi con người… Tất nhiên họ chịu ảnh hưởng từ một nền Thần học Giải phóng trong sứ vụ truyền giáo từ lục địa Mỹ La Tinh. Trong lúc đó, các nghị viên đến từ Châu Á, sống trong một lục địa bao la rộng lớn của người nghèo, đa dạng văn hóa và đa nguyên tôn giáo, và họ cũng chịu ảnh hưởng từ nền tảng thần học truyền giáo của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) đưa ra phương thức truyền giáo cho lục địa này là đối thoại.[18] Vì thế các nghị viên đến từ Châu Á đã ưu tiên chọn lựa cho phương thức truyền giáo là đối thoại. Trong hai lập trường của các nhóm thảo luận đó, một bên đưa ra yếu tố ngôn sứ trong truyền giáo, bên khác đưa ra ưu tiên đối thoại là phương thức cho sứ vụ của toàn dòng. Để dung hòa hai lập trường này, trong những phiên họp toàn thể các nghị viên đã bàn bạc và đi đến quyết định lấy cả hai phương thức nhập lại làm một làm chủ đề cho sứ vụ đó là Đối Thoại Ngôn Sứ, dung hòa hai nền Thần học Giải phóng và Thần học Đối thoại cùng những phương thức truyền giáo của các Châu lục khác để làm chủ đề truyền giáo cho toàn hội dòng trong thời đại toàn cầu hóa của thiên niên kỷ mới này.[19]
Nền tảng kinh thánh và thần học cho phương thức Đối Thoại Ngôn Sứ này được các nghị viên tu nghị của dòng lấy nền tảng trong câu chuyện Tin Mừng, “Chúa Giêsu đối thoại với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop” (Ga 4, 4-42). Trên quan điểm truyền giáo và thần học đối thoại, Chúa Giêsu đóng vai trò một vị ngôn sứ đối thoại với người phụ nữ. Người phụ nữ xứ Samaria đóng vai trò của ba thành phần để đối thoại với Chúa Giêsu. Người phụ nữ này đóng vai một người mang màu sắc tôn giáo khi chị đối thoại với Chúa Giêsu, “cha ông chúng tôi truyền phải thờ Thiên Chúa trên núi này (Garizim), còn người Do Thái các ông lại thờ Thiên Chúa trong đền thờ Giêrusalem” (Ga 4,20). Chị ấy lại tiếp tục đóng vai của người nghèo để đối thoại với Chúa Giêsu, chị là một phụ nữ mà trong con mắt của người Do Thái người phụ nữ là người bị loại ra ngoài, người không được kể đến (“cho năm ngàn người ăn không kể đàn bà con nít”). Người phụ nữ này lại tiếp tục đóng vai một người mang màu sắc một nền văn hóa khác để đối thoại, nghĩa là Chúa Giêsu gặp gỡ người phụ nữ và chuyện trò với chị tại một nơi mà chỉ dành riêng cho phụ nữ ra kín nước nơi giếng Giacob “lúc 12 giờ trưa” (Ga 4,6), và hơn nữa “người Do Thái không được giao thiệp với người Samari” (Ga 4,9) mà đối với một Rapbi Do Thái thì không được phép nói chuyện với phụ nữ ở những nơi này. Vì thế, dựa trên nền tảng này chúng ta có thể nhận ra được một cuộc đối thoại ngôn sứ (Chúa Giêsu đóng vai trò ngôn sứ để đối thoại) ba chiều kích (người phụ nữ đóng ba vai trò: người nghèo, tôn giáo và văn hóa).
- Đối Thoại Liên Tôn Mang Chiều Kích Ngôn Sứ
Nhìn lại trong những thập kỷ qua, Giáo hội đã chọn đối thoại như là một phương cách để phục vụ truyền giáo trong một thế giới luôn có xu hướng phân cực, đối đầu, bạo lực, xung đột và toàn cầu hóa. Trong quá khứ Giáo hội cũng đã từng cao ngạo hiếu chiến trong thành công của thời kỳ hoàng kim truyền giáo cũng như những thất bại trong sứ vụ của mình. Từ đó, Giáo hội đã nhìn lại mình và học nơi Chúa Giêsu đã từng ngạc nhiên trước đức tin của những người ngoại, hoặc những người mang một niềm tin khác ( x. Mt 15, 21-28; Ga 4, 4-42).
Chúng ta luôn ý thức rằng, mọi tôn giáo đều có mục đích tôn giáo: có giá trị, vì mầu nhiệm, Thần Khí và Lời đều phân biệt với nhau, nên các tôn giáo ấy cần lẫn nhau và vì thế cần đi vào đối thoại theo gương sự đối thoại thường hằng của Ba Ngôi. Mặc dầu Kitô giáo có thể đáp ứng đầy đủ nhất cho sự sung mãn của sự sống, nó vẫn còn là một biểu thị cục bộ của sự sung mãn ấy, và vì thế có thể khám phá ra những chiều sâu mới của mình nhờ đối thoại chân thành với các tôn giáo lớn cũng như các tôn giáo truyền thống.[20] Khi chúng ta là những nhà truyền giáo hoặc những Kitô hữu đi vào đối thoại thì cũng giống như những tín đồ trong các tôn giáo khác, họ mang theo niềm xác tín về sự thật của niềm tin mà họ sống và sẵn sàng tuyên xưng chân lý ấy. Nhưng đồng thời chúng ta cũng nhận ra rằng có nhiều điều phải học từ các tôn giáo và truyền thống khác. Vì rõ ràng đối thoại là một phần không thể thiếu của sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội và tất nhiên đối thoại đồng thời là một hoạt động ngôn sứ sâu xa.[21]
Vì thế, đối thoại liên tôn thực sự là đối thoại ngôn sứ. Là đối thoại như đã trình bày ở trên vì nó chú ý lắng nghe, các kỹ năng nói chuyện, đồng cảm, học hỏi, tôn trọng nhau. Là ngôn sứ nó đòi hỏi sự thành thật, xác tín, can đảm và đức tin. Rất nhiều khi đối thoại được mô tả như là sự tìm kiếm một “mẫu số chung thấp nhất” hay một thực tại lớn hơn vượt lên trên các cách diễn tả hay cách thực hành cụ thể của các tôn giáo[22] hay những tập tục văn hóa và cách sống của con người trong vùng văn hóa. Hơn nữa, khi nói đến đối thoại là đụng đến con người sống trong một khung cảnh lịch sử văn hóa cụ thể, để trong đối thoại tôn giáo cũng phải hiểu trong khung cảnh của văn hóa. Vì thế, “đối thoại tôn giáo cũng rất khẩn thiết trong bối cảnh của văn hóa. Ý niệm về văn hóa rộng hơn ý niệm về tôn giáo. Theo một quan niệm nào đó, tôn giáo tiêu biểu cho chiều kích siêu việt của văn hóa, do đó có thể nói nó là hồn của văn hóa.”[23] Chính vì vậy khi hội nhập văn hóa hay đối thoại văn hóa cũng cần phải ý thức đến vai trò ngôn sứ để sứ vụ truyền giáo không dừng lại ở khía cạnh thuần túy văn hóa, hoặc có những yếu tố văn hóa cũng cần “thanh tẩy” cho mục tiêu phẩm giá của con người và giá trị của Tin Mừng có thể đồng bộ.
- Hội Nhập Văn Hóa Như Là Đối Thoại Ngôn Sứ
Như lời giáo huấn gần đây của Giáo hội về việc hội nhập Tin Mừng vào văn hóa và bản sắc hóa Tin Mừng trong cuộc sống, Đức thánh cha Phanxicô đã kêu gọi “phải rao giảng Tin Mừng cho các nền văn hóa để bản sắc hóa Tin Mừng. Ở những nước theo truyền thống Công Giáo, sẽ là đồng hành, chữa lành và củng cố sự phong phú đã có sẵn, và ở những nước có những truyền thống tôn giáo khác hay đã bị tục hóa một cách quá sâu xa, sẽ là đưa ra một tiến trình mới để loan báo Tin Mừng cho nền văn hóa… Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng mình luôn luôn được mời gọi để lớn lên. Mọi nhóm văn hóa và xã hội đều cần sự thanh lọc và trưởng thành.”[24] Chúng ta được mời gọi để lớn lên, từ đó có thể thanh lọc được một yếu tố văn hóa cho Tin Mừng trở thành bản sắc, đòi hỏi phải có một hành động ngôn sứ đích thực. Quả thật, “việc hội nhập văn hóa Tin Mừng là biết đối thoại với hoàn cảnh trong đó Tin Mừng được rao giảng hay cắt nghĩa, và biết lắng nghe và phân định cách nào là tốt nhất để liên kết các khía cạnh bất biến của đức tin Kitô với các khía cạnh thay đổi và thách thức của một kinh nghiệm cụ thể, văn hóa, khu vực xã hội hay những thay đổi xã hội tại một nơi cụ thể hay trong một dân tộc cụ thể.”[25] Vì văn hóa là địa hạt sống còn qua đó con người gặp gỡ được Tin Mừng… Khi nền văn hóa đổi thay, thì con người và não trạng của họ cũng phải thay đổi, thích nghi và hòa nhập. Từ viễn cảnh này, ta thấy rõ mối tương quan mật thiết giữa văn hóa và Tin Mừng là điều tự nhiên và thiết thực. Văn hóa không phải là Tin Mừng, nhưng không thể đem Tin Mừng đến với con người mà không thông qua nền văn hóa của họ.[26] Nói cách khác, hội nhập văn hóa được thực hiện tốt nhất trong đối thoại ngôn sứ.
Có thể nói, hội nhập văn hóa phải mang tính đối thoại sâu xa, vì trong đối thoại ta mới hiểu tường tận những chiều sâu của văn hóa và con người, và chắc chắn chúng ta không luôn luôn dễ hiểu được một bối cảnh từ bề mặt của nó… Hội nhập văn hóa còn mang đậm tính giáo hội theo nghĩa nó tôn trọng các giá trị và tập tục của giáo hội địa phương, nhưng nó biết mở ra để đón nhận sự sửa sai từ các giáo hội địa phương hay nền văn hóa khác và sẵn sàng đi vào đối thoại phê bình. Phải chăng đây là hành động ngôn sứ? Quả thế, hội nhập văn hóa là công việc của các cộng đồng, không phải của các cá nhân, vì thế cần phải có sự hỗ trợ của khoa nhân chủng học để trong quá trình đối thoại và hội nhập, chúng ta biết nhìn nhận bản chất xã hội sâu xa của nhân loại và cũng nhìn nhận sự tốt lành của kinh nghiệm nhân loại và tiến trình hình thành văn hóa của nhân loại.[27]
Tại sao hội nhập văn hóa tốt nhất được thực hiện trong đối thoại ngôn sứ? Một mặt những người có đức tin cần kính trọng đúng mức đối với văn hóa như là chứa đựng những “hạt giống của Lời.” Mặt khác “người Kitô hữu cần phải nhận ra rằng Tin Mừng sẽ luôn luôn có một thứ lưỡi dao kháng văn hóa đối với văn hóa.”[28] Đối thoại ngôn sứ cũng có thể diễn ra những biểu hiện cá nhân trong môi trường đời sống Tin Mừng tại địa phương cụ thể của văn hóa nhưng trong ý thức toàn thể của giáo hội hoàn vũ. Để có thể diễn tả cụ thể của việc hội nhập của Tin Mừng, trước hết chúng ta xác tín rằng đức tin vào Đức Kitô có khả năng diễn tả vô hạn, nó tạo ra ‘một nơi để cảm thấy như nhà mình.’ Nhưng nó không được tạo ra một nơi mà chúng ta cảm thấy quá thoải mái như nhà của mình đến độ không ai khác có thể đi vào và có thể sống trong đó. Chắc chắn đó không phải là thành trì vĩnh cửu.[29] Như Đức thánh cha Phanxicô đã diễn tả “tôi không thích một giáo hội có cảm giác và luôn muốn ở lại để được an toàn ở trong thành trì giả tạo.” Và ngài mong ước một “lựa chọn truyền giáo có sức biến đổi mọi sự, để những thói quen, những phong cách, thời gian, ngôn ngữ, và tất cả các cơ cấu Hội Thánh trở thành một kênh thích hợp cho việc truyền giáo cho thế giới ngày nay, hơn để tự bảo toàn.”[30] Đây quả thật là một chọn lựa mang tính ngôn sứ.
Con người thời nay đang đối diện với một nền văn hóa ảo, chỉ nhắm đến lợi nhuận mà không màng đến một mối nguy tiềm ẩn là sự suy thoái đạo đức. Trong nền văn hóa toàn cầu và thịnh hành, một loại hình văn hóa hướng con người ưa chuộng bề ngoài và những cái hời hợt và tạm thời; những gì có thật nhường chỗ cho những gì có vẻ bề ngoài. Nền văn hóa này dẫn đến sự suy thoái nhanh chóng của nền văn hóa gốc, cùng với cuộc xâm lăng của những xu hướng đến từ những nền văn hóa khác, có sự phát triển về kinh tế nhưng yếu đi về đạo đức.[31] Trong tâm thế của việc hội nhập và đối thoại này, nhà truyền giáo hay chương trình mục vụ truyền giáo của Giáo hội không thể thỏa hiệp cho một nền văn hóa mì ăn liền, một nền văn hóa phi nhân và phi đạo đức mà đánh đổi một nền văn hóa gốc. Vì thế, tiếng nói ngôn sứ và hành động ngôn sứ phải được gióng lên và cổ võ trong việc hội nhập và đối thoại văn hóa này. Từ một nền văn hóa toàn cầu nhằm mục đích hướng tới phát triển kinh tế và tiêu thụ sẽ tạo ra một nền văn hóa loại trừ mà nạn nhân của nó là người nghèo và người bị loại trừ. Giáo hội sẽ phải làm gì với những người được gọi là “nạn nhân” này?
- Thăng Tiến Con Người Như Là Một Đối Thoại Ngôn Sứ Bằng Hành Động
Việc dấn thân phục vụ người nghèo, người bị loại trừ và thăng tiến con người được quan tâm nhiều hơn và được thực hiện trong mọi tôn giáo và các tổ chức xã hội dân sự khác trên khắp thế giới. Từ cuối thế kỷ 20 đến nay đã có những bước nhảy vọt trong nhận thức của con người về người nghèo và thăng tiến nhân sinh. Qua nhận thức và đánh giá chung, người ta nhận thấy việc phục vụ người nghèo và người bị bỏ rơi bằng các công việc bác ái từ thiện mà thôi thì chưa giải quyết được gì cho người nghèo; có chăng chỉ là những gói mì tôm tạm thời khi bụng đói, hết gói mì tôm bụng lại tiếp tục đói. Vậy thì chỉ tạo cho người nghèo một thói quen chờ gói mì tôm. Ngày nay cách hiểu về phẩm giá và sự bình đẳng con người cũng được nhận thức sâu sắc hơn trong văn hóa, chính trị, xã hội dân sự hay tôn giáo; từ đó Giáo hội và xã hội đã cùng nhau đánh giá để tìm ra nguyên nhân hệ thống dẫn đến tình trạng nghèo khổ và loại trừ trong hệ thống toàn cầu.
Trước hết, để đồng cảm với người nghèo, Giáo hội tìm cách đồng hành với họ bằng một chọn lựa liên đới để thực hành sứ vụ của mình. Khi ưu tiên chọn lựa người nghèo trong sứ vụ truyền giáo của mình; là chúng ta đang muốn nói đến lòng thương yêu của Thiên Chúa vươn ra mọi dân tộc; chúng ta tạo lập được một ý thức chung là cần phải có một sự ưu tiên và dấn thân cho người nghèo và người bị loại trừ trong một xã hội phân cực và bỏ rơi người nghèo. Lời gọi khẩn thiết của Đức thánh cha Phanxicô kêu mời sự chung tay của con người trong việc hành động cùng người nghèo. “Hãy mở to mắt để nhận ra tình trạng khốn khổ của thế giới, để thấy những vết thương của anh chị em chúng ta đang bị tước mất nhân phẩm, và ý thức rằng chính chúng ta được mời gọi lắng nghe tiếng họ kêu gào xin được cứu giúp. Ước gì bàn tay chúng ta nắm lấy đôi bàn tay họ và kéo họ đến với chúng ta. Ước chi tiếng nói của họ trở thành tiếng nói của chúng ta, và ước chi chúng ta có thể chung tay phá đổ những rào cản của thái độ dửng dưng lãnh đạm.”[32] Nếu không ý thức sự dấn thân chọn lựa này thì Giáo hội sẽ dễ dàng quên hoặc không chịu lắng nghe người nghèo. Họ là những người không phải chỉ ở vùng sâu, vùng xa về mặt không gian, địa lý mà còn là những người ở xa cõi lòng con người, là những người đang ở tận đáy của xã hội, đang chịu nhiều vùi dập, khốn khổ, bất công bởi xã hội, bởi chính đồng bào, đồng loại, thậm chí đồng đạo gây nên.[33]
Quả thế, Giáo hội được kêu gọi tham dự vào sứ vụ của Thiên Chúa để nói với và nói vì người nghèo. Điều mà chúng ta muốn nói với người nghèo là họ đang có một vị Thiên Chúa của công lý sẵn sàng bảo vệ và đứng về phía người nghèo. Tìm về trong lịch sử của Kinh Thánh, chúng ta thấy những kẻ quyền thế đã lợi dụng danh Thiên Chúa cho mục đích bất công của họ, họ cho rằng Thiên Chúa đứng về phía những người có thế lực; nhưng truyền thống ngôn sứ trong tôn giáo Do Thái luôn đứng lên phản đối khuynh hướng này để bảo vệ người nghèo và người bị áp bức. Khi dân tộc Do thái bị đàn áp bên Ai Cập, Thiên Chúa đã dùng “bàn tay mạnh mẽ và cánh tay uy quyền” (Đnl 11,2) để giải thoát dân qua sự dẫn dắt của Môsê; khi dân Do Thái lấy sự giàu có và quyền thế của mình để áp bức dân bản xứ nghèo khó, thì Thiên Chúa đã lên án họ qua tiếng nói răn đe của ngôn sứ Amos (Am 2,6-8); khi dân của Chúa bị lưu đày, Thiên Chúa nói lời an ủi và hy vọng qua các ngôn sứ (Isaia đệ nhị và đệ tam). Đặc biệt trong sứ vụ và cuộc đời của Chúa Giêsu, Người luôn đứng về phía người nghèo và người bị loại trừ để an ủi và giải thoát họ. Tại hội đường Nazaret, Chúa Giêsu tuyên bố sứ vụ của Người là đem Tin Mừng cho người nghèo, loan báo tự do cho người bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù và giải phóng cho tù nhân, đem niềm hy vọng và hồng ân cho một xã hội công bằng và bao dung hơn. (x. Lc 4, 18-19).[34] Từ đó, qua truyền thống Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa triệt để đứng về phía người nghèo, người bị áp bức, bị loại trừ như là một hành động ngôn sứ và Ngài kêu gọi con người cộng tác để thực hiện công trình giải thoát cho người nghèo.
Từ ý thức việc đồng hành với người nghèo, Giáo hội nhận thức việc truyền giáo không chỉ là giảm bớt tình trạng đau khổ và bị bỏ rơi của con người, nhưng còn phải bao gồm việc loại trừ hẳn gốc rễ của tình trạng ấy. Giáo hội không chỉ dấn thân vào các công cuộc tập thể qua các việc phục vụ từ thiện, mà còn phải tham gia vào việc phát triển con người, thực hành và thiết lập công lý và cuộc đấu tranh giải phóng con người. Chúng ta được kêu gọi để lắng nghe tiếng nói của người nghèo bị bỏ rơi, ủng hộ các mối quan tâm của họ, đóng góp vào các hành động thăng tiến sự phát triển của họ. Vì thế, trong sứ vụ của mình, Giáo hội được kêu gọi để nói với và nói cho những người nghèo và người bị bỏ rơi, giúp họ có khả năng nói bằng tiếng nói của chính họ, và sát cánh với họ trong một chọn lựa về tình liên đới và hành động ngôn sứ.[35] Chọn lựa người nghèo bao gồm một sự phân tích cùng người nghèo về các nguyên nhân gây nên tình trạng nghèo khổ của họ và tạo nên các kế hoạch hành động để loại trừ bớt nguyên nhân tạo ra sự loại trừ. Khi cùng làm việc và đối thoại với người nghèo, Giáo hội cần gây ý thức, giáo dục và tạo điều kiện để họ hành động cho chính họ. Vì sứ vụ của Giáo hội là bước ra để hướng đến người khác, đến tận ngoại vi nhân bản của con người, để mở rộng cánh cửa mà nhìn tận vào trong ánh mắt, trong lắng nghe, để đồng hành với những người đang đứng bên lề đường.[36]
Điều mà Giáo hội lên tiếng nói cho người nghèo đó là tiếng nói của công lý và hành động giải phóng mang tính ngôn sứ trong một thế giới bị thống trị bởi nhiều thế lực của sự dữ nấp bóng dưới các ý thức hệ khác nhau, các chế độ độc tài nhà nước, chủ nghĩa tư bản hay xã hội, ngay cả các tổ chức và kinh tế toàn cầu. Vì thế, cần một sự hiện diện và tham gia vào tiếng nói phản biện hoặc phải “vạch trần” để nói ra tình trạng bất công và góp ý tái xây dựng lại cấu trúc xã hội, khi trình bày những nguyên tắc và giá trị của Tin Mừng. Đặc biệt Giáo hội cần nói lên những định hướng của mình khi quan tâm đến những vấn đề của xã hội và con người trong Học Thuyết Xã Hội của Kitô giáo.[37] Tuy nhiên, để lồng vào những tiếng nói ngôn sứ của Giáo hội, chắc chắn phải cần sử dụng phương cách đối thoại chân thành và sự phê bình một cách chân thật trong tiếng nói và hành động ngôn sứ. Khi chúng ta dấn thân vì người nghèo và với thế giới thì tiếng nói của Thiên Chúa công bằng sẽ được lắng nghe và đón nhận. Nên chú ý rằng, có một nguyên tắc chung khi làm việc dấn thân cho người nghèo là không làm cho họ phụ thuộc hoàn toàn vào chúng ta hay một tổ chức nào, nhưng là giúp họ nói tiếng nói của chính họ, làm việc bằng đôi tay và đứng trên đôi chân của họ và tất nhiên được nói ra và hành động trong nền văn hóa, truyền thống và ngay chính trong tôn giáo của họ.
Tuy nhiên khi thực hiện hành động ngôn sứ để nói vì người nghèo mà không làm trong nguyên tắc đối thoại, chắc chắn chúng ta không thể tránh được những thách đố, vì người nghèo và người bị áp bức là nguồn lợi ích vô tận của những người giàu và thế lực áp bức như Đức Phanxicô đã cảnh báo trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng: “Ngày nay, ở khắp mọi nơi, người ta đòi hỏi một nền an ninh rộng lớn hơn. Nhưng bao lâu còn sự loại trừ và chênh lệch xã hội trong xã hội và giữa con người, thì sẽ không thể nhổ tận gốc bạo lực. Những người nghèo và rất nghèo bị kết án… những hình thức gây hấn và chiến tranh… sẽ bùng nổ.”[38]
Kết Luận
Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức thánh cha Phanxicô cũng đã cho thấy vấn đề người nghèo là một trong hai vấn đề thiết yếu ở thời điểm lịch sử này cùng với vấn đề hòa bình và đối thoại xã hội, chúng quyết định tương lai của nhân loại. Giáo hội đã nhận ra rằng chính nhu cầu lắng nghe tiếng kêu cứu này phát sinh từ hành động giải thoát của ân sủng trong mỗi người chúng ta, và vì thế đây không phải là sứ mạng chỉ dành riêng cho một số ít người. Mọi người cần cộng tác để loại trừ các cơ cấu gây nên đói nghèo, đồng thời cổ võ sự phát triển toàn diện của con người. Hành động đối thoại để tìm ra một sự đồng thuận trong các hoạt động và đời sống con người trong các tôn giáo, đời sống văn hóa hay thăng tiến chung của nhân loại thật cần thiết hơn bao giờ hết.
Trong các hành động đối thoại mang tính ngôn sứ của Giáo hội, có thể nói đối thoại bằng hành động là điều khả thi. Điều có thể làm đó là các đối tác trong chương trình đối thoại (tôn giáo, văn hóa hay con người) tất cả cùng bắt tay nhau trong các hoạt động chung để cổ võ cho công lý, hòa bình, phát triển nhân sinh và sự toàn vẹn của tạo thành. Tuy nhiên, vẫn tôn trọng những khác biệt tôn giáo, văn hóa và phẩm giá con người của nhau, nhưng cùng nhau quan tâm đến vấn đề chung của công bằng, trật tự và ổn định xã hội; cân bằng và bảo vệ môi trường sinh thái; nâng cao phẩm giá và quyền lợi chung của người nghèo. Nếu mọi người cùng đối thoại và bắt tay nhau để hợp tác vì lợi ích chung cho con người thì chắc chắn sẽ thành công. Đời sống tôn giáo của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau sẽ làm chứng trong vai trò ngôn sứ trong việc sống niềm tin tôn giáo, đời sống văn hóa và thăng tiến nhân sinh qua các hoạt động của bác ái vì con người.
Giáo hội đồng hành với thế giới và con người, cùng vui mừng và lo âu với con người, vui với người vui, khóc với người khóc (x. GS 1) để tìm ra những lời đáp cho con người và xã hội trong sứ vụ của mình dọc suốt lịch sử truyền giáo và phục vụ của Giáo hội. Để tìm ra một con đường và hướng dẫn con người đi trên con đường được xem là an toàn đó, Giáo hội không thể không dựa trên những gì mà mình kinh nghiệm về Thiên Chúa qua truyền thống Kinh Thánh và kinh nghiệm lịch sử truyền giáo đi qua trong mọi thời đại. Cái mà Giáo hội đang hướng tới để hoàn thiện hơn trong sứ vụ và đời sống của mình là cắm sâu vào kinh nghiệm đối thoại với Thiên Chúa và với con người trong hành động và đời sống của mình mang tính cách ngôn sứ; để hành động và việc làm của Giáo hội trong sứ vụ truyền giáo là một hành động của đức tin vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17).
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 117 (tháng 3 & 4 năm 2020)
[1] Lm. Phêrô Đỗ Cao Cương, dòng Truyền Giáo Ngôi Lời (SVD), hiện là Giám đốc Đào tạo của tỉnh dòng, đang phụ trách nhà Học viện Triết của tỉnh dòng tại Sài Gòn, dạy môn Thần học Truyền giáo và Thần học Mục vụ tại các học viện Thần học tại SG.
[2] X. Stephen B. Bevans, SVD và Roger P. Schroeder, SVD, Trung Thành và Thích Nghi: Một Thần Học Truyền Giáo cho hôm nay (bản dịch của Ngô Quang Tuyên, lưu hành nội bộ, 2005), tr. 295- 301.
[3] X. Sdd. tr.295-296.
[4] X. Sđd. tr.307
[5] Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia), số 29.
[6] X. Sđd., số 31.
[7] X. Bevans và Schroeder, Trung Thành và Thích Nghi, tr. 471.
[8] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Ngôn Dominus Jesus, số 2.
[9] Công đồng Vaticanô II, Sắc Lệnh Truyền Giáo (Ad Gentes), (1965), số 9.
[10] Xem Văn phòng về Người ngoài Kitô Giáo, “the Attitude of the Church Toward the Followers of Other Religions: Reflections and Orientations on Dialogue and Mision,” No. 29.
[11] X. Văn Phòng Đối Thoại Liên Tôn thuộc Bộ Loan Báo Tin Mừng cho Các Dân Tộc, Văn kiện Đối Thoại và Rao Truyền (Dialogue and Proclamation), số 42.
[12] Sđd., số 43.
[13] X. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu thế (Redemptoris Missio), (1990), số 55.
[14] X. Ecclesia in Asia, số 31.
[15] X. Sđd.
[16] Đức Phanxicô, Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium), (2013) số 251.
[17] X. Bevans và Schroeder, Trung Thành và Thích Nghi, tr. 472.
[18] Trong phiên họp toàn thể tại Đài Loan năm 1974, FABC đã đem ra định hướng cho sứ vụ truyền giáo tại Á Châu là đối thoại với người nghèo, với các tôn giáo và với các nền văn hóa.
[19] X. Stephen B. Bevans, SVD and Roger P. Schroeder, SVD, Prophetic Dialogue: Reflections on Christian Mission Today (Orbis Books, 2011), 59.
[20] X. Bevans và Schroeder, Trung Thành và Thích Nghi, tr. 477.
[21] X. HĐGH về Đối Thoại Liên Tôn, Văn kiện Đối Thoại và Rao Truyền (DP) số 9 và Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế (RM) số 55.
[22] X. Bevans và Schroeder, Trung Thành và Thích Nghi, tr. 479
[23] Văn kiện Đối Thoại và Rao Truyền (DP) số 45.
[24] Evangelii Gaudium, số 69.
[25] Bevans và Schroeder, Trung Thành và Thích Nghi, tr. 482
[26] X. Ecclesia in Asia, số 21.
[27] X. Bevans và Schroeder, Trung Thành và Thích Nghi, tr. 484
[28] Sđd., tr. 482.
[29] X. Andrew F. Walls, The Missionary Movement in Christian History: Studies in Transmission of Faith (Maryknoll: Orbis Books, 1996), 3-15.
[30] Evangelii Gaudium, số 27.
[31] X. Sđd., số 62.
[32] Đức Phanxicô, Tông Sắc Misericordiae Vultus, số 15.
[33] X. Sđd., số 15.
[34] X. Bevans và Schroeder, Trung Thành và Thích Nghi, tr. 460-461.
[35] X. Sđd., tr. 460.
[36] X. Evangelii Gaudium, số 46.
[37] X. Bevans và Schroeder, Trung Thành và Thích Nghi, tr. 462.
[38] Evangelii Gaudium, số 59.
Lm. Phêrô Đỗ Cao Cương, SVD