2020
Tác động của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ
“Sự độc tài của chủ nghĩa tương đối” là cụm từ gắn liền với Đức Bênêđictô XVI, vị giáo hoàng kêu gọi Giáo Hội phải cảnh giác và chống lại chủ nghĩa tương đối vì những tác động tai hại của nó trên mọi lãnh vực của đời sống con người và xã hội. Cùng một nhận định, trong tông huấn Evangelii Gaudium, Đức giáo hoàng Phanxicô viết: “Tiến trình tục hóa đã đẩy đức tin và Giáo Hội vào lãnh vực cá nhân riêng tư và thầm kín. Hơn nữa, với việc phủ nhận tất cả chiều kích siêu việt, nó tạo ra những sai lệch về mặt đạo đức, làm suy yếu ý nghĩa về tội cá nhân và xã hội, âm thầm đẩy mạnh chủ nghĩa tương đối, đưa đến việc mất định hướng nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn vị thành niên và tuổi trẻ, là nhóm người rất dễ bị chao đảo trước những thay đổi như thế” (số 64).
Vậy, chủ nghĩa tương đối là gì? Tại sao nó gây tác hại cho đời sống con người, cách riêng là giới trẻ? Giáo Hội có thể làm gì trước những tác hại này? Đây là những câu hỏi mà bài viết này quan tâm nghiên cứu và gợi ý suy nghĩ.
- TỪ NGỮ VÀ LỊCH SỬ
Theo Từ điển Webster, “chủ nghĩa tương đối” có hai nghĩa.
Một là “lý thuyết cho rằng nhận thức có tính tương đối do bản chất giới hạn của tâm trí và do những điều kiện nhận thức”. Hai là quan điểm cho rằng “những chân lý về mặt đạo đức tùy thuộc vào các cá nhân và các nhóm tuân giữ”. Nói cách khác, không có chân lý phổ quát, chỉ có những chân lý khác nhau. Thế nên Simon Blackburn, giáo sư Triết học tại đại học Cambridge, giải thích chủ nghĩa tương đối là “những ý kiến khác nhau, không có quyền bính độc nhất, có bao nhiêu dân tộc, xã hội, văn hóa, thì có bấy nhiêu ‘chân lý’.
Chủ nghĩa tương đối không phải là điều tự nhiên từ trời rơi xuống, nhưng có thể tìm về gốc gác trong triết học Hi Lạp từ thế kỷ V trước Công nguyên. Protagoras (490–420 B.C.) được coi như tiếng nói chính thức đầu tiên về chủ nghĩa tương đối khi ông tuyên bố, “Con người là thước đo mọi sự”. Trước Protagoras còn có Heraclites với chủ trương “mọi sự đều thay đổi”, không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông, do đó chẳng có gì là tuyệt đối.
Đến thời Trung Cổ, William Ockham (thế kỷ 14) đặt nền móng cho chủ thuyết Duy danh (Nomenalism), không nhìn nhận các phổ hữu, chỉ nhìn nhận sự hiện hữu của cái đặc thù, những cá thể sự vật. Sự tương tự giữa các sự vật không còn được coi như đặc tính chung về bản tính, do đó những ý niệm, luật lệ, ý tưởng trừu tượng và phổ quát chỉ là “tên gọi” hoặc những hình ảnh trong tâm trí.
Trong thời đại ngày nay, có thể thấy phản ánh của chủ thuyết duy danh nơi lý thuyết được gọi là Đạo đức hoàn cảnh (Situation Ethics). Người ta cho rằng tình yêu là nguyên lý chính yếu trong mọi quyết định luân lý. Có thể xem đây là một nỗ lực giữ thế trung dung giữa một bên là nền luân lý xây dựng trên những mệnh lệnh tuyệt đối (và bị coi là duy lề luật), còn một bên là lối sống phóng túng, chẳng có lề luật hay nguyên tắc nào hướng dẫn cả. Thế nhưng vấn đề ở đây là “nguyên lý tình yêu” cũng dễ trở thành nguyên lý thực dụng, nghĩa là nhằm đem lại những điều tốt nhất cho nhiều người nhất. Nghe thì rất hay, nhưng liệu có nguy cơ “lấy mục đích để biện minh cho phương tiện” không? Đề cao tình yêu mà không có nội dung đạo đức cụ thể sẽ dẫn đến những chọn lựa luân lý tùy theo sở thích mỗi cá nhân.
- NHỮNG LOẠI HÌNH CỦA CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI
Chủ nghĩa tương đối xuất hiện dưới nhiều hình thức:
- a) Tương đối về thẩm mỹ:Quan điểm triết học cho rằng phán đoán về cái đẹp tùy thuộc vào các cá nhân, nền văn hóa, thời đại, bối cảnh, do đó không có những tiêu chuẩn phổ quát cho cái đẹp. Một tác phẩm nghệ thuật hoặc điêu khắc có thể được người này cho là đẹp nhưng người khác thì không.
- b) Tương đối về nhận thức:Mọi chân lý đều là tương đối. Không có hệ thống chân lý nào vững chắc hơn hệ thống kia, cũng chẳng có những chuẩn mực khách quan về chân lý. Hệ quả là chẳng có Thiên Chúa của chân lý tuyệt đối, cũng không chấp nhận niềm tin cho rằng lý trí có thể khám phá chân lý tuyệt đối.
- c) Tương đối và duy chủ thể (Subjectivism):Mỗi cá nhân hoặc chủ thể (cùng với cảm giác, ý tưởng, thái độ, cảm xúc, niềm tin của họ) chiếm vị thế ưu tiên trong trật tự thế giới cũng như trong nhận thức về thế giới.
Các học giả ngày nay thường nói đến bốn trường phái tư tưởng liên quan đến chủ nghĩa tương đối: tương đối văn hóa, tương đối nhận thức, tương đối về cấu trúc xã hội, và tương đối hậu hiện đại.
- a) Tương đối văn hóa:Các nhóm ngôn ngữ và văn hóa khác nhau có thể có những quan điểm nền tảng khác nhau, dẫn đến vũ trụ quan khác nhau. Không có nền văn hóa nào cao hơn, mọi nền văn hóa đều bình đẳng.
- b) Tương đối nhận thức:Quan điểm về hữu thể luận tùy thuộc vào những khung nhận thức và những phạm trù khác nhau.
- c) Tương đối về cấu trúc xã hội:Những lực khác nhau trong cấu trúc xã hội dẫn đến việc hình thành những từ ngữ và quan điểm khác nhau.
- d) Tương đối hậu hiện đại:Không chấp nhận khách thể tính, khước từ những ý niệm phổ quát cũng như chân lý phổ quát. Có lẽ đây là lãnh vực mà Giáo Hội phải quan tâm nhiều nhất.
- ĐẶT VẤN ĐỀ VỚI CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI
Ngay từ đầu, bài viết này đã nhắc tới cụm từ “sự độc tài của chủ nghĩa tương đối”. Để diễn tả đầy đủ hơn, cần đọc lại nguyên văn bài giảng của Hồng y Joseph Ratzinger trong Thánh Lễ khai mạc Mật nghị bầu giáo hoàng: “Ngày nay, việc có một đức tin rõ ràng dựa trên Kinh Tin Kính của Hội Thánh lại thường bị dán nhãn hiệu là bảo thủ. Đang khi đó, chủ nghĩa tương đối, nghĩa là để mình “bị sóng đánh trôi dạt theo mọi chiều gió đạo lý” (x. Ep 4,14) xem ra lại được coi là thái độ phù hợp nhất với thời đại. Người ta đang xây dựng thứ độc tài của chủ nghĩa tương đối vốn không nhìn nhận bất cứ điều gì là vững vàng, và mục đích tối hậu của nó chỉ là cái tôi và ước muốn ích kỷ của bản thân”.
Trong một dịp khác, khi bàn đến “Nền tảng nhân học của gia đình”, Đức Bênêđictô XVI nói rõ hơn: “Ngày nay, có một lực cản đặc biệt đáng ngại trong việc giáo dục, đó là sự hiện diện rộng khắp của chủ nghĩa tương đối trong xã hội và văn hóa. Chủ nghĩa này không nhìn nhận điều gì là vững vàng, cuối cùng tiêu chuẩn tối thượng duy nhất là cái tôi và những ước muốn của nó. Và ẩn dưới dáng vẻ của tự do, nó lại biến thành ngục thất cho mỗi người vì nó ngăn cách con người với nhau, khóa chặt mỗi người trong cái tôi ích kỷ của mình”.
Như thế, chủ nghĩa tương đối không chỉ là vấn nạn riêng cho Giáo Hội Công giáo nhưng còn là vấn nạn chung cho cả xã hội và văn hóa. Bản chất độc tài của chủ nghĩa tương đối là ở chỗ nó chỉ chấp nhận quan điểm cho rằng mọi chọn lựa chủ quan của mỗi người đều có giá trị như nhau; do đó kẻ nào chủ trương có những chân lý và thiện hảo khách quan… thì bị coi là thiếu khoan dung!
Quan điểm này chắc chắn sẽ gây tác hại khôn lường về mặt đạo đức. Một người chủ trương tương đối về mặt luân lý sẽ định nghĩa luân lý là cái gì mang tính cá nhân, chủ quan, có thể thay đổi. Luân lý mang tính chủ quan và phải tôn trọng tự do của mỗi cá nhân. Do đó, cái được gọi là những chuẩn mực khách quan trong đời sống luân lý sẽ bị coi là sự áp đặt từ trên xuống mỗi cá nhân, gây ra mặc cảm tội lỗi cho người ta… và như thế, đương nhiên là sai và không thể chấp nhận.
Thế nhưng, khẳng định “Mọi chân lý đều là tương đối” có hợp lý không? Nếu khẳng định mọi chân lý đều tương đối, thì ngay cả khẳng định đó “Mọi chân lý đều tương đối” cũng không thể là tuyệt đối, nhưng chỉ có tính tương đối! Nếu cho rằng chúng ta chỉ có thể thấy những khía cạnh khác nhau của cùng một thực tại (chứ không phải chính thực tại), vậy giả như những cái nhìn đó mâu thuẫn nhau thì liệu chúng ta có thể tin vào nhận thức của mình không? Hai tác giả Francis J. Beckwith và Gregory Koukl, trong cuốn Relativism: Feet Firmly Planted in Mid–Air (1998) đưa ra bảy sai lầm lớn của chủ nghĩa tương đối:
- a) ”Người chủ trương tương đối không thể kết tội người khác làm sai”.Vì không có điều được nhìn nhận là chân lý khách quan, nên bạn không thể kết luận người khác làm sai, bởi lẽ không có chuyện làm sai, mỗi người đều làm đúng theo chuẩn mực cá nhân của họ. Phải có một chuẩn mực luân lý chung thì mới có thể nói người này làm sai, người kia làm đúng. Còn nếu chỉ là chân lý chủ quan thì chúng ta không thể nói người khác là sai.
- b) ”Người chủ trương tương đối không thể than phiền về vấn đề sự dữ”.Vì không có chân lý khách quan nên sự dữ cũng không hiện hữu. Tại sao? Trong một thế giới theo chủ nghĩa tương đối, ý niệm về “sai, trái” không hiện hữu, do đó cũng không thể coi sự dữ là “sai, trái”. Người chủ trương tương đối đơn giản là phải chấp nhận sự dữ như là chân lý chủ quan của người khác, chứ không phải là cái gì sai trái.
- c) ”Người chủ trương tương đối không thể nguyền rủa, cũng không thể ca tụng ai”.Vì không có chuẩn mực khách quan cho cái đúng và cái sai, nên cũng không có chuẩn mực để đánh giá tốt hay xấu, ca tụng hay nguyền rủa.
- d) ”Người chủ trương tương đối không thể nói đến bất công hay bất toàn”.Vì không có chuẩn mực cho cái đúng hay sai, nên cũng không có chuyện bất công hay bất toàn. Trong một nền văn hóa chủ trương mọi sự là tương đối, cái gọi là “bất công” đơn giản chỉ là người khác hành động theo chân lý chủ quan của họ. Hành động đó có thể gây ra “bất công” cho người khác, nhưng lại là điều đúng và tốt theo chân lý chủ quan của họ.
- e) ”Người chủ trương tương đối không thể tiến triển về mặt đạo đức”.Vì không có chuẩn mực cho cái đúng và cái sai, tốt và xấu, nên làm sao có sự tiến triển từ cái sai đến cái đúng, từ cái xấu đến cái tốt? Phải có chuẩn mực khách quan để đánh giá thì mới có thăng tiến.
- f) ”Người chủ trương tương đối không thể bàn chuyện luân lý cách nghiêm túc”.Vì cho rằng luân lý tính là chủ quan, tùy vào mỗi cá nhân, nên không thể nào bàn đến chuyện đạo đức vì mỗi người chủ trương khác nhau. Điều được cho là đúng với người này không hẳn đã là đúng với người kia.
- g) ”Người chủ trương tương đối cũng không thể nói đến sự khoan dung”.Không có chuẩn mực cho cái đúng, sai, nên không ai đúng và cũng chẳng sai sai. Như thế, làm gì có cái gọi là khoan dung.
- TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI TRÊN GIỚI TRẺ
Thật khó để đo lường tác động của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ. Không có thống kê hoặc dữ liệu để có thể khẳng định những tác động tiêu cực hoặc tích cực của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ. Chỉ có thể dựa vào những tiếp cận thường ngày và kinh nghiệm mục vụ để nói rằng tác động này rất tinh tế và điều đáng quan tâm hơn cả là tác động của chủ trương tương đối về đạo đức. Một số người nghĩ rằng chủ trương tương đối về mặt đạo đức đem lại ích lợi là giúp phát triển sự đa dạng văn hóa và thực hành đạo đức, đồng thời làm cho người ta thích nghi tốt hơn khi nhận thức và kỹ thuật thay đổi trong xã hội. Dù có một vài mặt tích cực thì trong thực tế, nền văn hóa với chủ trương tương đối đang đặt ra cho Giáo Hội nhiều thách đố đáng quan ngại. Ở đây xin nói đến năm lãnh vực liên quan đến tác động của chủ trương tương đối về mặt đạo đức.
- a) Kiếm tìm sự độc lập
Chủ trương tương đối tác động trên cách nghĩ và cách sống của người trẻ rất tinh tế khiến chính họ cũng không ý thức. Cách tổng quát, có những nghiên cứu cho thấy nền văn hóa trong thời đại chúng ta cho rằng chân lý chỉ có tính tương đối. Ai cũng có lập trường của mình và điều buồn cười là ai cũng cho rằng chỉ có mình là đúng. Đối với người trẻ, tìm kiếm sự độc lập là thành phần trong tiến trình tăng trưởng. Từ tuổi thiếu niên phải sống lệ thuộc bước sang tuổi teen muốn sống độc lập, người trẻ luôn đi tìm căn tính của mình. Sự tìm kiếm này song hành với nhu cầu khẳng định bản thân trong xã hội. Do đó, sự khẳng định tính độc lập này dẫn người trẻ đến chủ trương tương đối. Chẳng hạn một bạn trẻ có thể cảm thấy cách để khẳng định bản thân là nhấn mạnh lập trường của mình. Cho dù lập trường của bạn đó có phần hợp lý, nhưng thái độ này có thể dẫn người trẻ đến chỗ không dễ dàng đón nhận chân lý khách quan.
- b) Sự khoan dung
Một vài tác giả cho rằng “khoan dung” cũng có thể là một trong những nguyên cớ góp phần củng cố chủ nghĩa tương đối. Đôi khi sự khoan dung có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của chân lý. Chúng ta dạy người trẻ phải tôn trọng, đón nhận, không đối đầu…là đúng, nhưng điều này cũng có thể làm giảm nhẹ tính khách quan và những đòi hỏi của chân lý. Những người chủ trương tương đối thường bảo vệ lập trường của họ bằng cách khẳng định rằng họ khoan dung hơn những người khác, bởi lẽ đối với họ, mọi sự là tương đối và không có niềm tin nào là duy nhất tốt lành và đúng đắn. Trong bối cảnh thời đại đa văn hóa, đa chủng tộc, dĩ nhiên khoan dung là một đức tính cần trân trọng, tuy nhiên nó cũng có thể mang lại hậu quả tiêu cực do ảnh hưởng của chủ nghĩa tương đối.
- c) Tục hóa
Không thể phủ nhận rằng làn sóng tục hóa đang lan rộng khắp thế giới, len lỏi vào mọi lãnh vực của đời sống. Giữa tục hóa và chủ nghĩa tương đối có mối liên hệ mật thiết đến nỗi có người cho rằng tục hóa là một trong những hệ quả của chủ nghĩa tương đối. Người chủ trương tương đối không chấp nhận chân lý tuyệt đối, do đó một trong những điều phải vứt bỏ ngay là các tôn giáo với hệ thống tín điều và cơ cấu tổ chức. Đây chính là dấu hiệu cụ thể của tục hóa như Charles Taylor nói, “Tục hóa hệ tại ở việc rời bỏ niềm tin và thực hành tôn giáo, và việc người ta xa rời Thiên Chúa, không đến nhà thờ nữa”.
Sự khước từ tôn giáo dẫn đến một xã hội tục hóa, ở đó mỗi cá nhân tự quyền quyết định tốt, xấu. Không ai có quyền đưa ra lề luật hoặc quy tắc ứng xử vì mỗi người đều cho mình là đúng nhất. Hơn ai hết, người trẻ ngày nay chịu ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ này. Không có lề luật luân lý khách quan nào cả, mỗi người thoải mái làm những gì mình cho là đúng. Thực tế của châu Á cho thấy đang gia tăng số người trẻ rời bỏ Giáo Hội, cụ thể là tại Hàn quốc, nơi vẫn được đánh giá cao về đời sống đức tin và nhiệt tình truyền giáo.
- d) Toàn cầu hóa
Người trẻ thường chịu ảnh hưởng của các nhóm bạn. Trong thời đại toàn cầu hóa, nhóm bạn không chỉ là những người mà họ gặp gỡ trực tiếp nhưng còn là số đông họ gặp trong thế giới ảo (mà tác động lại rất thật): Facebook, Twitter, những mạng xã hội khác. Khi chủ nghĩa tương đối thấm vào văn hóa hiện đại thì qua những phương tiện truyền thông này, nó tác động rất nhanh trên người trẻ. Hãy thử đọc những comments của người trẻ về nhiều vấn đề cuộc sống, hãy thử theo dõi những chương trình truyền hình thực tế, sẽ thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa tương đối lớn ra sao. Câu nói quen thuộc của người trẻ ngày nay là: Nếu người khác làm được, tại sao tôi lại không được? Và cứ thế, những giá trị đạo đức khách quan dần dần bị xói mòn.
Thêm vào đó, lượng thông tin khổng lồ qua các phương tiện truyền thông làm cho con người nói chung, người trẻ nói riêng, bị chìm ngập, không còn giờ để suy nghĩ về ý nghĩa và mục đích sâu xa hơn của đời sống, chỉ mong tìm những gì thỏa mãn thị hiếu và khao khát nhất thời.
- e) Mất căn tính văn hóa
So với những thế hệ trước, người trẻ ngày nay có quá nhiều phương tiện để tiếp cận thông tin và các nền văn hóa trên thế giới: internet, du lịch, di dân… Sự tiếp cận này dẫn đến những so sánh và loại trừ những giá trị đạo đức truyền thống vì bị coi là cổ hủ. Chẳng hạn tại châu Á, hôn nhân thử và quan hệ tình dục trước hôn nhân đang trở thành một trào lưu được cho là tự nhiên và hợp lý. Với nhiều người trẻ, đức khiết tịnh chỉ còn là món đồ xa xỉ. Mỗi người có quyền chọn và sống theo những gì mình cho là đúng, có như thế cuộc sống mới đúng nghĩa tự do và hạnh phúc. Rõ ràng là chủ nghĩa tương đối đã thấm vào cách nghĩ và cách sống của họ.
Có thể tóm lại bằng nhận định của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ: “Giáo Hội nhấn mạnh các nguyên tắc luân lý khách quan, có giá trị đối với tất cả mọi người, nhưng có nhiều người lại cho rằng các giáo huấn này thật bất công, nghịch với những quyền căn bản của con người. Các lý luận này cách chung phát xuất từ một hình thức của chủ nghĩa tương đối về luân lý, nối kết với sự tin tưởng vào quyền tuyệt đối của mỗi cá nhân. Dựa theo đó, người ta cho rằng Giáo Hội xem ra đã có thiên kiến và can thiệp vào sự tự do của các cá nhân…Do đó phải có sự giáo dục giúp suy nghĩ chín chắn và đưa ra một đường hướng trưởng thành về các giá trị” (Persons with a Homosexual Inclination: Guidelines for Pastoral Care).
- ĐỒNG HÀNH MỤC VỤ
Dưới tác động của chủ nghĩa tương đối về luân lý, xem ra chúng ta đang tuột dốc rất nhanh và không biết phải làm gì để thắng lại. Đức Bênêđictô XVI mô tả chủ nghĩa tương đối như mối đe dọa lớn nhất cho đức tin Kitô giáo ngày nay. Đây không chỉ là một vấn đề đòi hỏi phải có suy tư ở chiều sâu, nhưng còn là vấn đề mục vụ, nghĩa là làm sao để tìm ra cách thế đồng hành với các tín hữu, để họ đứng vững trước sự đe dọa của chủ nghĩa tương đối và không đánh mất cảm thức về Thiên Chúa là chính Chân Lư.
Đòi hỏi này càng khẩn thiết hơn với mục vụ giới trẻ. Một đàng, Giáo Hội đánh giá cao về giới trẻ: “Nhiều vấn đề phức tạp mà giới trẻ phải đối diện ngày nay trong thế giới đang thay đổi tại châu Á thúc đẩy Giáo Hội nhắc nhớ người trẻ về trách nhiệm của họ với xã hội và Giáo Hội, đồng thời nâng đỡ, khuyến khích họ sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm này” (Ecclesia in Asia, số 47). Đàng khác, chúng ta lại đối diện với thực tế phũ phàng là nhiều người trẻ đang rời bỏ Giáo Hội như linh mục người Hàn quốc John JunYang Park nhận định: “Gần đây tại châu Á, chúng ta chứng kiến hiện tượng nhiều người trẻ rời bỏ Giáo Hội, và điều này được coi như tín hiệu thật sự nguy hiểm trong một vài quốc gia, đặc biệt những nước Đông Á như Hàn quốc”. Thực tế đó đặt ra cho Giáo Hội những câu hỏi cụ thể phải suy tư: Tại sao người trẻ rời bỏ Giáo Hội? Đâu là những nguyên nhân chính? Có thể làm gì trước tình hình này?
Trong Gioan 18,38, Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là chi?” Đây cũng là câu hỏi then chốt mà chủ nghĩa tương đối đặt ra. Theo thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Veritatis Spendor, “Sự thật soi sáng trí khôn và định hình tự do của con người, dẫn họ đến chỗ nhận biết và yêu mến Chúa”. Sự thật là đối tượng chính yếu nhất của lý trí, cũng là mục đích tối hậu của hiện hữu nhân sinh, xét như là những hữu thể có lý tính. Sự thật được thể hiện trọn vẹn, sống động và cụ thể nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng là Đường, Sự Thật, Sự Sống. Vấn đề là làm sao giúp người trẻ chạm đến Sự Thật đó và để họ thấy tầm quan trọng của sự thật trong cuộc đời họ. Đây chính là thách đố mục vụ rất lớn mà mỗi thừa tác viên trong Giáo Hội, trong bối cảnh xã hội cụ thể mình đang sống, phải suy nghĩ và tìm ra phương thế thích hợp.
Cách tổng quát, mục vụ giới trẻ và việc dạy giáo lý cần phải “đem đức tin vào đời sống và đem đời sống vào đức tin”.
- a) Đem đức tin vào đời sống
Tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, số người trẻ Công giáo đi lễ Chúa nhật vẫn còn khá đông, mặc dù đã giảm sút. Sau Thánh Lễ, họ kéo nhau đi uống café hay đi chơi, nói với nhau nhiều chuyện nhưng hầu chắc là không nói gì đến tôn giáo! Liệu đức tin có ý nghĩa gì trong đời sống và những chọn lựa của các bạn trẻ không? Có lẽ các bạn vẫn tin vào Chúa và những điều Giáo Hội dạy nhưng không cảm thấy Chúa có liên hệ gì đến đời sống thường ngày của mình. Về mặt thần học, tác giả Clarence Devadass cho rằng “Chủ nghĩa tương đối cũng thách đố Giáo Hội nhìn lại chính mình, nhìn lại những ý niệm và thực hành đã giữ từ nhiều thế kỷ. Lời than phiền thường xuyên nghe từ giới trẻ ngày nay là giáo huấn của Giáo Hội đã lỗi thời rồi. Tại nhiều nơi ở châu Á, người dân, cách riêng giới trẻ, không thấy được sự liên hệ của đức tin với đời sống thường ngày của họ. Sự tách ly giữa đức tin cử hành với kinh nghiệm sống cụ thể xem ra ngày càng gia tăng”. Trong tình hình đó, mục vụ giới trẻ nên quan tâm đến những sinh hoạt ngoài Thánh Lễ, ví dụ những nhóm nhỏ cùng cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, ở đó các bạn biết nhau cách thân tình hơn và cùng nhau tạo nên gạch nối giữa đức tin và những vấn đề thực tiễn mà họ đang đối diện trong cuộc sống. Chắc chắn những sinh hoạt này không mang tính đại chúng như việc dự lễ, nhưng chỉ với những nhóm nhỏ. Tuy nhiên chính những nhóm nhỏ này, nếu được thấm nhuần Lời Chúa và kinh nghiệm sống đức tin, lại là hạt mầm và nòng cốt cho sứ vụ Phúc–Âm–hóa. Chính người trẻ là tông đồ cho người trẻ.
- b) Đem cuộc sống vào đức tin
Ở đây trách nhiệm của các linh mục được quan tâm đặc biệt, nhất là trong việc giảng Lời Chúa, dạy giáo lý và đồng hành thiêng liêng. Hơn ai hết, Đức giáo hoàng Phanxicô thấy rơ điều này nên trong tông huấn Evangelii Gaudium, ngài đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các linh mục:
– Lắng nghe: “Vị giảng thuyết phải chú tâm lắng nghe dân chúng để khám phá điều gì họ cần được nghe. Vị giảng thuyết vừa là người chiêm niệm Lời Chúa, vừa chăm chú vào giáo dân”. Nhờ đó, vị giảng thuyết mới có thể “nối kết sứ điệp của bản văn Kinh Thánh với hoàn cảnh cụ thể của con người, với những gì họ sống, với kinh nghiệm họ cần đến ánh sáng của Lời Chúa” (số 154).
– Đơn sơ và rõ ràng: Đức Phanxicô nhận xét, “Điều thường xảy ra là các vị giảng thuyết dùng những ngôn từ trong thời học hành và ở những môi trường học thuật, nhưng lại không phải là ngôn từ thông dụng của người nghe. Đó là những thuật ngữ đặc thù thần học hay giáo lý, nhưng phần đông tín hữu không hiểu được”. Vì thế, ngài khuyên các linh mục phải sử dụng thứ ngôn ngữ đơn sơ và rõ ràng, đơn sơ trong ngôn từ và rõ ràng trong cách trình bày (số 159).
– Tích cực: “Đừng nói nhiều về những điều không nên làm, nhưng hãy đề nghị điều người ta có thể làm tốt hơn”. Như thế, bài giảng định hướng tương lai hơn là than trách và lên án quá khứ, bài giảng mang đến hy vọng hơn là gieo rắc sợ hãi: “Thật đáng mừng nếu người ta không nhìn chúng ta như những nhà chuyên môn dự báo thảm họa hay những thẩm phán đen tối, nhưng như các sứ giả hân hoan đề nghị những giải pháp cao cả, những người trân trọng điều thiện hảo và vẻ đẹp chiếu tỏa trong một cuộc sống trung tín với Tin Mừng” (số 168).
Thiên Triệu
Tổng hợp từ các bài viết trong FABC Papers no. 135:
– Fr. Clarence Devadass, STD., Relativism: A Deeper Understanding and Its Impact on the Youth in Asia.
– Dominic Veliath, SDB., Fundamentalism and Relativism.
– Fr. John JunYang Park, Fundamentalism and Relativism: Why Young People Are Leaving the Church?
2020
Đức Giêsu Kitô – Đường thánh thiện
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (8)
Đức Giê-su Ki-tô
ĐƯỜNG THÁNH THIỆN
(Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 8 năm 2020)
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng Bảy vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Mục Tử Nhân Lành. Tháng Tám này, cùng nhau chúng ta suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thánh Thiện. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Nguồn mọi sự thánh thiện. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã đi Đường Thánh Thiện để đến với gia đình nhân loại. Đường đó tiếp tục sống động trong Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, và được diễn tả cách cụ thể nơi đời sống của các Ki-tô hữu qua mọi thời đại.
Thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể (người hoặc sự vật) được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa. Còn theo thánh Tô-ma A-qui-nô, thánh thiện là đức hạnh mà con người diễn tả chính mình cũng như hành động phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Người thánh thiện là người ‘gần với căn tính’ của mình nhất. Kinh nghiệm của các thánh trong dòng lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết như vậy. Đặc biệt, đây cũng là kinh nghiệm của thánh Au-gút-ti-nô và Tô-ma Mơ-tần (Thomas Merton, tu sĩ Dòng Trappist). Nói cách khác, con người càng thánh thiện bao nhiêu, thì càng gần gũi với căn tính của mình bấy nhiêu.
Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu và là Đấng Thánh. ‘Tên’ của Thiên Chúa là ‘Thánh’ (Ed 36,22-24; Lc 1,49). Trong tiếng Do-thái, hạn từ ‘thánh’ là ‘qadosh’ và được dịch sang tiếng Hy Lạp là ‘hagios’. Hạn từ này có nghĩa nguyên thủy là cắt, tách biệt. Thiên Chúa tách ra khỏi những gì phàm tục. Người siêu việt muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Thiên Chúa được tung hô: ‘thánh, thánh, thánh’ (Thiên Chúa ba lần thánh) nhằm diễn tả sự siêu việt với ‘sức mạnh vô song’ và ‘thánh thiện tuyệt đối’ của Người. Cách tung hô này được đề cập hai lần trong bộ Kinh Thánh, một lần trong Cựu Ước và một lần trong Tân Ước (Is 6,3; Kh 4,8). Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi bánh và rượu được thánh hiến, cộng đoàn Thánh Thể tung hô ‘thánh, thánh, thánh’. Sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa là đặc tính căn bản nhất, các đặc tính khác liên kết hoặc diễn tả đặc tính thánh thiện của Người.
Thiên Chúa thông truyền sự thánh thiện của Người cho muôn vật muôn loài. Người thông truyền qua việc thánh hiến, tách biệt con người và vật ra khỏi thế giới phàm tục theo ý định của Người. Chẳng hạn, Thiên Chúa đã tách biệt Dân Do-thái khỏi các dân khác và trao ban sứ mệnh cộng tác vào chương trình cứu độ của Người. Trong sách Lê-vi, Thiên Chúa phán: “Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta” (Lv 20,26). Ngay trong Dân Do-thái, chi tộc Lê-vi được dành riêng để ‘chuyên lo việc Nhà Chúa’. Một số đồ vật cũng được thánh hiến hay dành riêng cho việc tế tự.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ qua vinh quang của Người. Vinh quang chiếu giãi vào đời sống con người và biến đổi con người thành không gian thánh thiện, nhờ đó, con người diễn tả sự thánh thiện và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người không chỉ thụ động đón nhận phẩm chất thánh thiện Thiên Chúa trao ban, mà còn được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân, thánh hóa người khác và cùng nhau làm lành lánh dữ. Sự thánh thiện song hành với thực thi đời sống luân lý tốt đẹp là hệ quả tất yếu của tương quan giữa Thiên Chúa là Đấng Thánh và con người được mời gọi nên thánh.
Trong phụng vụ của Giáo Hội, theo Kinh nguyện Thánh Thể II: Thiên Chúa là ‘nguồn mạch mọi sự thánh thiện’. Điều này có nghĩa rằng sự thánh thiện của Thiên Chúa là sự thánh thiện Gốc, sự thánh thiện Nguồn. Các hình thức thánh thiện trong môi trường thế giới thụ tạo phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đặc biệt, sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ cách trọn vẹn nơi sự thánh thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế.
Là Thiên Chúa trong thân phận con người, sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả qua hai hình thức phân biệt nhau: ‘Sự thánh thiện từ trên xuống’ và ‘sự thánh thiện từ dưới lên’. ‘Sự thánh thiện từ trên xuống’ có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa đối với con người, bởi vì Người là Thiên Chúa thật. ‘Sự thánh thiện từ dưới lên’ có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của con người, bởi vì Đức Giê-su là con người thật. Nhân danh toàn thể nhân loại, Đức Giê-su đã vâng phục đáp lại chương trình của Thiên Chúa và trở nên mẫu gương hoàn hảo cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Chúng ta có thể nói rằng hai hình thức thánh thiện này trở nên một nơi Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Như vậy, Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện hai chiều, từ Thiên Chúa đến con người và từ con người đến Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế cho chúng ta biết sau khi Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã ban Lời Hứa về chiến thắng của sự thánh thiện trên sự dữ (St 3,15). Khoảng 700 năm trước Biến Cố Giáng Sinh, ngôn sứ I-sai-a loan báo về Đức Giê-su, Đấng gánh tội nhân loại để muôn người được trở nên thánh thiện (Is 53,11). Trong Tân Ước, khi sứ thần Gáp-ri-en truyền tin cho Đức Ma-ri-a rằng ‘bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su’, thì Đức Ma-ri-a rất bối rối. Sứ thần đã trấn an Đức Ma-ri-a rằng người con mà bà cưu mang là bởi Chúa Thánh Thần và quyền năng Đấng Tối Cao. Người con đó là ‘Đấng Thánh’ và là Con Thiên Chúa (Lc 1,30-35).
Sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả cách đặc biệt trong hành trình rao giảng của Người. Trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Chứng kiến sự thánh thiện và quyền năng của Đức Giê-su trước mẻ cá lạ, thánh Phê-rô nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Với những người Pha-ri-sêu, Đức Giê-su nói: “Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội?” (Ga 8,46). Trong cuộc khổ nạn, sau khi Đức Giê-su trả lời câu hỏi của thượng tế Cai-pha, một tên trong nhóm thuộc hạ của thượng tế đánh Đức Giê-su, thì Người nói: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Trong thư thứ nhất, thánh Gio-an viết: “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết” (1 Ga 2,20). Cũng trong thư này, thánh nhân viết: “Đức Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi” (1 Ga 3,5). Như thế, Kinh Thánh cho chúng ta bức tranh khá đầy đủ về sự thánh thiện của Đức Giê-su.
Không chỉ các môn đệ hay những ai lắng nghe và tin tưởng vào Đức Giê-su mới nhận ra sự thánh thiện của Người, các thế lực chống đối Người hay ma quỉ cũng nhận ra điều đó. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Người vào hội đường, có kẻ bị thần ô uế nhập la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Chứng kiến cái chết của Đức Giê-su và những sự kiện lạ lùng, viên đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giê-su thốt lên: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54). Như vậy, sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện siêu việt và biểu lộ trong mọi hoàn cảnh. Muôn vật hữu hình và vô hình đều nhận biết, kính sợ và thành khẩn tuyên xưng.
Sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện trổi vượt trên tất cả các hình thức thánh thiện trong thế giới thụ tạo. Đồng thời, Đức Giê-su chia sẻ sự thánh thiện của Người cho tất cả mọi người để mọi người được ơn cứu độ. Do đó, khi chúng ta nói rằng Đức Giê-su là Đấng cứu độ mọi người cũng tương tự như nói rằng Người là Đấng làm cho mọi người trở nên thánh thiện.
Chúng ta đề cập đến sự thánh thiện của Đức Giê-su trong sự liên kết với Chúa Thánh Thần, vì ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Maria đã thụ thai và sinh hạ Đức Giê-su’. Chính Chúa Thánh Thần đồng hành cùng Đức Giê-su trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả nói về Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người [Đức Giê-su], Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Sau khi Đức Giê-su lãnh nhận Phép Rửa tại sông Gio-đan và chịu cám dỗ trong sa mạc, Người về Na-da-rét. Ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường, người ta trao cho Người sách ngôn sứ I-sai-a, mở sách ra Người gặp đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Đặc biệt, Đức Giê-su mặc khải cho chúng ta Ngôi Vị Chúa Thánh Thần (Ga 14,16.26). Sau khi sống lại và trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su tiếp tục hiện diện và hoạt động trong môi trường nhân loại để thực thi chương trình của Thiên Chúa qua việc thánh hóa nhân loại.
Ý định của Thiên Chúa là tất cả mọi người trở nên thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4). Thánh Phao-lô mời gọi các Ki-tô hữu sống đời thánh thiện bằng cách thực thi những việc tốt lành và lánh xa những điều nguy hại, gây tổn thương hoặc đánh mất sự thánh thiện (Ep 5,1-14). Còn thánh Phê-rô khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15-16). Như vậy, trong nhãn quan của thánh Phê-rô và Phao-lô, hiểu biết về sự thánh thiện và thực thi đời sống thánh thiện đi đôi với nhau trong ơn gọi của các Ki-tô hữu.
Đời sống thánh thiện không dành riêng cho cá nhân hay cho cộng đoàn đặc biệt nào trong Giáo Hội. Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II (1962-1965) dành một chương về chủ đề thánh thiện (LG 39-42). Công Đồng nhấn mạnh đến sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa được Đức Giê-su diễn tả và Người trở nên mẫu gương cho con người trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Công Đồng nhấn mạnh tầm quan trọng của thánh thiện theo ‘đấng bậc mình’ và minh định: “Mọi Ki-tô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (LG 11). Tất cả mọi người được mời gọi không ngừng hoán cải để ngày càng trở nên thánh thiện hơn.
Quả thật, sự thánh thiện của con người là ‘sự thánh thiện hoán cải’. Điều này có nghĩa là con người không ngừng trở về với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là đặc điểm chung nhất của các thánh trong lịch sử Giáo Hội. Các ngài không phải là những người ‘sinh ra là thánh thiện’, nhưng là những người không ngừng hoán cải để nhận diện căn tính của mình cách rõ ràng hơn và luôn qui hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất. Con người trở nên thánh thiện nhờ đời sống hòa hợp giữa ‘tâm hồn không ngừng hoán cải’ và ‘ân sủng nhưng không’ của Thiên Chúa. Nói cách khác, con người trở nên thánh thiện khi chân thành đáp lại ân sủng của Thiên Chúa bằng trái tim không ngừng hoán cải của mình.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người” (Dt 12,10). Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết người thánh thiện không phải là người không bao giờ bị cám dỗ, người không có tội hay người không bao giờ phạm tội. Người thánh thiện là người luôn ý thức rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh và mình không thể tự làm cho mình trở nên thánh thiện được. Người thánh thiện là người nhận thức rằng mình không ngừng trở về, tìm hiểu, trả lời, thay đổi và tiến tới trong tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Người thánh thiện chính là người hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa và để Người sử dụng mình như khí cụ thuận tay Người.
Sự thánh thiện được thể hiện trong các tương quan của đời sống cá nhân, đời sống cộng đoàn, cũng như tương quan với Thiên Chúa và toàn thể thế giới thụ tạo. Các thánh trong lịch sử Giáo Hội khi đang sống trên trần gian không ai nghĩ rằng mình là ‘một vị thánh’. Các ngài không ‘soi gương ngắm sự thánh thiện của mình’, nhưng luôn hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh với tinh thần đơn sơ, phó thác. Các ngài luôn nhận thấy bản thân mình bất xứng, khiếm khuyết và nhiều khi ‘đêm tối bao phủ tâm hồn’. Thánh Tê-rê-xa A-vi-la, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Tê-rê-xa Can-cút-ta là những vị thánh điển hình. Các ngài luôn cảm thấy đời sống mình ‘bất tương hợp’ với danh hiệu và ơn gọi Ki-tô hữu, đặc biệt, ‘bất tương hợp’ với sự thánh thiện và tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng có kinh nghiệm tương tự như vậy. Khi được hỏi: “Ngài là ai?” Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã trả lời: “Tôi là người tội lỗi.”
Với một số người, sự thánh thiện nên ‘dành riêng cho địa hạt tôn giáo’. Tuy nhiên, trong thực tế, sự thánh thiện cần được sống và diễn tả trong bất cứ môi trường nào của thực thể có tên gọi là ‘con người’. Chẳng hạn, để góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống mà Giáo Hội hằng khuyến khích, cổ vũ, tất cả mọi người được mời gọi ý thức hơn về đời sống thánh thiện của mình. Tương tự như vậy, trong bối cảnh hôm nay, ‘phát triển con người toàn diện’ trở thành khẩu hiệu chung của gia đình nhân loại. Chúng ta có thể khẳng định rằng bao lâu con người chưa ý thức được tầm quan trọng của đời sống thánh thiện, bấy lâu con người còn xa vời mục tiêu đó. Dưới nhãn quan của một số người, phát triển con người toàn diện được thực hiện chủ yếu dựa trên nồng độ tri thức, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Lịch sử nhân loại minh chứng rằng tri thức con người và những sản phẩm của nó có thể đem lại những hoa trái nhất định chứ không phải là yếu tố then chốt cho sự phát triển con người toàn diện.
Người ta kể lại rằng trong đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945), có một viên tướng nói: “Nếu tôi có được mười người như Phan-xi-cô Át-xi-di, tôi có thể chinh phục cả thế giới này”. Chúng ta có thể nhận định: Với quãng đời binh nghiệp truân chuyên, viên tướng đó đã nghiệm ra sự thật rằng sức mạnh lý trí, ý chí và súng đạn không phải là giải pháp tối ưu để ‘bình thiên hạ’. Chỉ có sức mạnh thánh thiện, hy sinh, quên mình của những người như thánh Phan-xi-cô Át-xi-di mới có thể thực hiện được. Câu hỏi đặt ra là ‘vì sao vậy?’ Thưa, vì những người thánh thiện luôn ý thức rằng khi con người chỉ cậy dựa vào mình mà không màng quan tâm đến sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, cũng là khi con người đi đường tăm tối và những hành động của con người không đem lại hạnh phúc thực sự cho mình cũng như anh chị em đồng loại. Các thánh là những người xây dựng đời sống cá nhân, cộng đoàn và gia đình nhân loại bằng những giá trị của Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã loan báo và thực thi, chứ không chỉ bằng lý trí, ý chí và những gì thuộc thế gian này.
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng sự thánh thiện biến đổi con người, biến đổi xã hội, biến đổi thế giới thụ tạo. Đức Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa, đã hiện diện trên trần gian, đã sống trọn thân phận con người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15; 1 Pr 2,22). Theo lẽ thường, đã thánh thiện thì không phải chịu đau khổ (là hậu quả tội lỗi), tuy nhiên, Đức Giê-su, Đấng Thánh của Thiên Chúa đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, của toàn thể gia đình nhân loại để chúng ta được nên thánh. Nhờ Người, vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa thánh thiện và nhân loại tội lỗi được bắc cầu và tất cả mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi trên Chiếc Cầu này. Trong hành trình dương thế, Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục chương trình của Người.
Là Ki-tô hữu nghĩa là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su. Cuộc đời Ki-tô hữu chính là cuộc đời học hỏi và theo Đường Đức Giê-su, Đường Thánh Thiện. Tuy nhiên, trong khi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, chúng ta không tránh khỏi những chông gai, cạm bẫy của thế giới bóng đêm và bao hình thức bấp bênh, bất cập khác vì sự yếu đuối của chính mình. Tự bản thân, chúng ta không thể nào vững vàng, kiên định trên Đường Thánh Thiện, nhưng nhờ Chúa Thánh Thần dẫn dắt, chúng ta sẽ vượt qua tất cả những thách đố và chướng ngại. Bao lâu con mắt đức tin của chúng ta còn dõi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội đạt tới sự thánh thiện như lòng Người mong muốn.
Hoa trái của sự thánh thiện gia tăng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa. Hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta sống liên đới với anh chị em chúng ta. Hoa trái của sự thánh thiện tăng thêm sức mạnh để chúng ta có thể đương đầu với muôn thách đố trong cuộc sống. Đặc biệt, hoa trái của sự thánh thiện cho chúng ta sức mạnh để chống lại muôn hình thức cám dỗ của các thế lực sự dữ đang hoành hành trong thế giới thụ tạo. Tắt một lời, hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta thực thi thánh ý Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói và hành động.
Chúng ta thường xem sự thánh thiện như là một ‘thực tại tĩnh’ hay ‘thực tại thường hằng bất biến’ nơi người nào đó. Thực ra, sự thánh thiện không thể hoàn thành tại một thời điểm nào đó trong đời sống chúng ta, trong lịch sử nhân loại hay trong lịch sử thế giới thụ tạo. Sự thánh thiện luôn là một hướng đi, một lộ trình, một dự án dang dở. Do đó, bao lâu con người còn hiện diện trên dương gian, bấy lâu con người còn phải không ngừng cố gắng sống đời thánh thiện. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng không ai thánh thiện đến mức không cần phải biến đổi, bởi vì, tất cả mọi người đều sống trong môi trường ô nhiễm vì Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này vẫn tiếp diễn cho đến tận thế.
Người thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi và ngược lại. Biên giới giữa người thánh thiện và người tội lỗi mỏng manh như làn sương khói vậy. Tên trộm hoán cải trong biến cố Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá là ví dụ điển hình (Lc 23,39-43). Chúng ta có thể noi gương tên trộm về tinh thần hoán cải, chứ không phải là quá khứ trộm cắp. Đời sống của tên trộm không thể được xem là ‘mô hình chuẩn’ cho đời sống chúng ta, bởi vì, tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa là tương quan tình yêu và tình yêu luôn ở thì hiện tại. Không có tình yêu đích thật nào lại vắng bóng sự thánh thiện. Do đó, chúng ta không thể sống trong tình trạng tội lỗi và ăn năn hối cải vào phút chót như tên trộm để được tham dự sự sống, hạnh phúc và bình an vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa mà không phải đau khổ, hy sinh, quên mình trong hành trình trần thế. Thông thường, cây nghiêng bên nào thì ngả bên đó. Đích đến của người sống đời thánh thiện và người sống đời tội lỗi khác nhau (Mt 25,31-46). Hơn nữa, trong Nhà Thiên Chúa có nhiều chỗ ở (Ga 14,2).
Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng ‘khoảng cách’ từ người thánh thiện đến người tội lỗi là ‘khoảng cách gần’, còn từ người tội lỗi đến người thánh thiện là ‘khoảng cách xa’. Bởi vì, sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế dễ bị tổn thương. Để có được sự thánh thiện, con người phải hy sinh, quên mình và cố gắng không ngừng, cho đến khi ‘nhắm mắt xuôi tay’. Chúng ta có thể dùng hình ảnh chiếc cầu để minh họa cho người đang sống thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi. Để có chiếc cầu, người ta phải dày công vất vả hàng năm mới có thể hoàn thành được. Tuy nhiên, để phá chiếc cầu, người ta chỉ cần ít thuốc nổ là nó sẽ bị sập tan tành trong giây lát.
Chúng ta là những người tội lỗi, yếu đuối và giới hạn trăm chiều. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân và thánh hóa những người khác nữa. Nếu chúng ta không cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa bản thân hay không ý thức và cố gắng để ngày càng được biến đổi hơn, làm sao chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa người khác được? Sẽ ngượng ngùng và giả hình biết bao khi chúng ta nói về Thiên Chúa, về Đức Giê-su, về Đường Thánh Thiện của Người mà chúng ta lại đắm chìm trong những tư tưởng, lời nói và hành động không chút âm hưởng hay hơi hướng nào của sự thánh thiện.
Sự thánh thiện không chỉ là chủ đề để chúng ta suy tư, học hỏi mà còn là ‘đường đi’ của chúng ta, là ‘lối sống’ của chúng ta và là ‘hành động’ của chúng ta trong hành trình trần thế này. Đời sống của người thánh thiện không phải là đời sống tách biệt khỏi những gì mà chúng ta gán nhãn ‘trần tục’, ‘sự đời’ hay ‘ngoại lai’ nhưng là đời sống phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của thế giới thụ tạo. Đường thánh thiện luôn là ‘đường hai chiều’. Đời sống của người thánh thiện là đời sống kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện. Đồng thời, đời sống của người thánh thiện là đời sống liên đới với anh chị em mình để không ngừng biến đổi bản thân và môi trường sống sao cho môi trường đó ngày càng được thánh hóa, hầu tất cả mọi người sống xứng hợp hơn với phẩm giá của mình.
Chúng ta trở lại với khái niệm chung ‘thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa’ để so sánh với sự thánh thiện theo mặc khải Ki-tô Giáo. Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho chúng ta nhận thức rằng thánh thiện cần thiết cho ‘môi trường phàm tục’. Bởi vì, Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với nhân loại, đến với ‘môi trường phàm tục’. Chúng ta ý thức rằng nơi sự sống sung mãn cũng chính là nơi của sự thánh thiện tuyệt đối và nơi sự chết được hiểu là nơi vắng bóng sự thánh thiện. Thế mà, Đức Giê-su đã tới vực thẳm sự chết. Người đến chia sẻ sự thánh thiện của Người để con người được chung hưởng sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Sống đời Ki-tô hữu không gì khác hơn là sống đời thánh thiện theo khuôn mẫu Đức Giê-su. Chúng ta có thể nhận định rằng ‘người ngoại thánh thiện’ thì hơn ‘Ki-tô hữu tội lỗi’. Đối với các tôn giáo ngoài Ki-tô Giáo, chẳng hạn như Ấn Giáo, Phật Giáo, Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: “Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó” (NA 2). Điều này không có nghĩa rằng các tôn giáo đều như nhau, cũng không có nghĩa rằng các tôn giáo là khác nhau. Sự nhìn nhận những điều tốt lành, thánh thiện nơi các tôn giáo không giảm thiểu sự cần thiết để loan báo Đức Giê-su là Đấng cứu độ duy nhất và Tin Mừng của Người dành cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện đến với gia đình nhân loại và người thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục là dấu chỉ hay khí cụ của Người trong việc thánh hóa muôn dân (LG 1).
Như đã được đề cập ở trên, sự thánh thiện Ki-tô Giáo không chỉ được diễn tả trong các tương quan nội tại của đời sống cá nhân, tương quan với tha nhân, tương quan với Thiên Chúa mà còn được diễn tả trong tương quan với môi trường thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa rằng các tín hữu được mời gọi sống đời thánh thiện trong việc chăm sóc, quản lý và bảo vệ muôn vật muôn loài. Ai yêu mến Thiên Chúa, người đó cũng yêu mến những gì được Thiên Chúa dựng nên. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Người [Thiên Chúa] cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,9-10). Sự thánh thiện Ki-tô Giáo mời gọi các tín hữu ‘mắt hướng về trời, chân tiến bước trên đất’. Điều này có nghĩa là sự thánh thiện không chỉ giới hạn trong việc tôn giáo hay văn hóa, xã hội mà còn lan tỏa đến muôn vật muôn loài. Chúng ta được mời gọi quan tâm và góp phần biến đổi môi trường thế giới thụ tạo bằng chính đời sống của mình.
Đức Giê-su nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, tuy nhiên, Người không nói rằng ‘anh em hãy nên hoàn thiện như tôi đây là Đấng hoàn thiện’. Trong hành trình dương thế, Người không bao giờ qui hướng về mình, nhưng luôn qui hướng về Thiên Chúa Cha. Đức Giê-su cho chúng ta biết sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế luôn là sự thánh thiện có hướng, sự thánh thiện tiếp tục trên đường về với Quê Hương Vĩnh Cửu. Là Thiên Chúa trong thân phận con người, Đức Giê-su trở nên Đường Thánh Thiện cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.
Từ những điểm trình bày trên đây, chúng ta có thể khái quát rằng sự thánh thiện thuộc về Thiên Chúa, Người là Đấng Thánh, là Nguồn Gốc và Đích Đến của các hình thức thánh thiện. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với thế giới thụ tạo. Người vừa diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa, vừa diễn tả sự thánh thiện của con người. Đặc biệt, sự thánh thiện của Người được diễn tả trong ba năm loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời, tuy nhiên, trong Chúa Thánh Thần, Người vẫn luôn hiện diện trong gia đình nhân loại. Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục Đường Thánh Thiện của Người bằng việc chia sẻ Lời Chúa, cử hành các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và thực thi bác ái. Tất cả mọi người được mời gọi suy niệm, học hỏi và thực hành Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế của mình.
2020
Giáo lý viên, bạn là ai
Giáo lý viên, bạn là ai
Sáng ngày 26-7-2020 vừa qua, 650 giáo lý viên (GLV) giáo phận Long Xuyên đã hành hương về nhà thờ chính tòa Long Xuyên, trung tâm của giáo phận nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập giáo phận và mừng kính thánh bổn mạng Á thánh An rê Phú Yên tử đạo.
Giáo Lý Viên Gp Long Xuyên hành hương mừng 60 năm thành lập giáo phận 26-7-2020
Dịp này, ĐGM giáo phận đã nhắn nhủ các GLV cần quan tâm một số hoạt động thiết yếu như tích cực tham gia các khóa huấn luyện và thường huấn dành cho GLV; nhiệt tình tham gia, hiệp thông, đồng trách nhiệm với hàng giáo sĩ và tu sĩ để thi hành tác vụ rao giảng của Hội thánh tại địa phương; can đảm dấn thân trong vai trò tông đồ giáo dân, để trở thành muối, men và ánh sáng.
Được biết giáo phận Long Xuyên hiện có 1541 GLV tham gia dạy giáo lý tại 147 giáo xứ, giáo họ. Đây quả thực là một lực lượng đông đảo và hùng hậu. Qua buổi gặp gỡ này ta thấy ưu tư của các đấng bề trên là chất lượng của việc dạy giáo lý. Trong số các anh chị em tham gia dạy giáo lý, bên cạnh nhiều người là giáo viên, sẵn vốn hiểu biết về sư phạm và khả năng truyền đạt tốt, thì vẫn có rất nhiều anh chị em chỉ giảng dạy bằng nhiệt tình. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, GLV cần hoàn thiện chính mình, cần học hỏi Kinh Thánh và giáo lý. Chúng ta chỉ có thể cho người khác cái chúng ta có. Cần có hiểu biết về sư phạm giáo lý, tiến tới có kỹ năng truyền đạt, thành thạo vv… [1]
Thiết nghĩ, đây là dịp thuận tiện để chúng ta thoáng suy nghĩ về bản chất, ơn gọi, nhiệm vụ và vai trò của người GLV đang phục vụ trong Hội thánh hiện nay.
1- Giáo lý viên và khái niệm về giáo lý
Trước hết, ta tìm hiểu khái niệm cơ bản về giáo lý là gì.
Theo LM Nguyễn Văn Tuyên, trong cuốn “Sư phạm giáo lý” thì Giáo lý (hay Huấn giáo) là trình bày Lời Thiên Chúa một cách đơn giản, cụ thể, sống động, để giúp tín hữu hiểu và sống đức tin.
Xét về nội dung thì thần học và giáo lý là một. Nhưng xét về phương pháp, thần học và giáo lý khác nhau.
– Thần học trình bày chân lý đức tin theo hệ thống dùng từ ngữ trừu tượng, thiên về ý niệm, và áp dụng phương pháp diễn dịch.
– Giáo lý trình bày Tin Mừng theo nhu cầu và khả năng tâm lý của người nghe, dùng hình ảnh và ngôn ngữ cụ thể, hướng về đời sống, và theo phương pháp qui nạp.
Do đó, giáo lý phải theo đường lối riêng, không thể trở thành một thứ thần học giản lược, thâu gọn, cô động. [2]
Xuất phát từ định nghĩa trên, ta tìm hiểu về nguồn mạch của giáo lý là gì.
Giáo lý trình bày lời Thiên Chúa, nhưng phải tìm Lời Thiên Chúa ở đâu? Lời Thiên Chúa được chứa đựng trong 4 nguồn mạch đức tin:
– Thánh Kinh: Cựu ước (46 cuốn) và Tân ước (27 cuốn).
– Thánh Truyền: một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong các giáo huấn của các giáo phụ.
– Phụng vụ: những gì Giáo hội sống trong phụng vụ thì cũng thuộc lãnh vực đức tin.
– Đời sống của Giáo hội: Giáo huấn của Đức Giáo Hoàng, của các Công đồng, của các Giám mục đoàn, lòng tin của toàn thể dân Chúa cũng là một phần trong kho tàng đức tin của Giáo hội.
Đó là những kho tàng chứa đựng Lời Thiên Chúa và là nguồn mạch của đức tin, giáo lý tổng hợp, tóm lược và trình bày nội dung đó. [3]
2- Giáo lý viên nhận thức về chính mình
Từ điển Công giáo đã định nghĩa GLV như sau:
Giáo lý là học thuyết của tôn giáo; Viên là người. Giáo lý viên là người dạy giáo lý. Giáo lý viên là người cộng tác với mục tử trong việc truyền giáo và huấn giáo: phổ thông, dự tòng, hôn nhân vv.
Theo Giáo Luật, giáo lý viên phải được đào tạo và huấn luyện theo từng cấp. Giáo lý viên không những am tường về giáo lý mà còn là nhà giáo dục, gương mẫu trong đời sống nhân bản và đạo đức, để lời nói, việc làm luôn củng cố và phát triển đức tin của mình và của tha nhân (x. GL. 780; 785).
Các thành phần Dân Chúa trong giáo xứ (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân – nhất là giáo lý viên) nếu không ngăn trở chính đáng, thì nên sẵn sàng giúp cha xứ trong việc dạy giáo lý (x. GL 776). [4]
Trong khi đó, tài liệu huấn luyện GLV đã trình bầy như sau: [5]
Giáo lý viên là người thi hành một sứ mệnh chính thức, quan trọng và siêu nhiên, được Chúa Kitô ủy thác qua Giáo Hội. Vì vậy các Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đều là những giáo lý viên có trách nhiệm thi hành sứ vụ này.
Giáo lý viên không phải chỉ là người dạy, nhưng trước hết phải là một chứng nhân (DGL 9.66), một chứng nhân tình yêu. GLV không phải chỉ là người truyền đạt những kiến thức về Thiên Chúa, nhưng phải là người truyền thông một kinh nghiệm gặp gỡ với Thiên Chúa. Nói cách khác giáo lý viên là người luôn tìm cách khám phá ra tình yêu Chúa trong cuộc đời mình cũng như khám phá ra điều gì Chúa đang chờ đợi nơi mình, để nhờ đó dễ dàng giúp người khác tìm gặp và yêu mến Chúa.
Trong một xã hội đa tôn giáo và văn hóa, giáo lý viên thường gặp khó khăn là phải đối diện với những tư tưởng, những niềm tin khác biệt, và có cả những chống đối bên trong và ngoài Giáo Hội. Nhưng với cái nhìn đức tin, việc dạy giáo lý mang đến một niềm vui lớn lao : đó là niềm vui được cộng tác với Giáo Hội trong việc đem Chúa đến với các tâm hồn ; niềm vui được góp phần nhỏ bé của mình trong việc đổi mới lòng con người và niềm vui được đổi mới chính bản thân mình trong đức tin.
3- Giáo lý viên và sứ mệnh trong Hội thánh
Trong cuốn “Sư phạm giáo lý”, LM Nguyễn Văn Tuyên cũng đã đề cập đến hai sứ mệnh chính yếu của người GLV. Tác giả viết như sau:
3.1: GLV thi hành một sứ mệnh chính thức trong Giáo hội. Công việc ủy thác cho GLV bên ngoài có vẻ tối tăm, tầm thường, nhưng thực ra là một công cuộc cơ bản, thiết yếu để xây dựng và mở rộng Nước Thiên Chúa. Những việc quan trọng thường được chuẩn bị một cách âm thầm GLV phải tin vào sứ mệnh của mình.
3.2: Đây là một sứ mệnh có tính chất siêu nhiên:
– Siêu nhiên từ nguồn gốc: Là chính sứ mệnh mà Chúa Cha đã trao cho Chúa Giê-su, Chúa Giê-su trao lại cho Giáo hội, và Giáo hội đã ủy thác lại cho GLV qua Giám mục và Cha sở, “Cũng như Chúa Cha sai Ta thế nào, Ta cũng sai các con như vậy” (Ga 20, 21).
– Siêu nhiên trong chủ đích: Sứ mệnh này này nhằm sinh Chúa Giê-su Ki-tô và làm cho Ngài lớn lên trong các tâm hồn. Đó chính là sứ mệnh làm mẹ trong đời sống siêu nhiên của Giáo hội mà GLV được tham dự. [6]
4- Giáo lý viên và những vai trò, phẩm chất cần có
Chúng ta đều biết rằng, căn cứ vai trò, nhiệm vụ quy định trong Hội thánh thì GLV chẳng những là thầy dạy giáo lý, mà còn là nhà giáo dục đức tin, là chứng nhân tình yêu và Tin Mừng Đức Ki-tô, là nhà truyền giáo nữa. Để thực thi những vai trò này một cách hiệu quả thì GLV cần hội đủ những đức tính và phẩm chất căn bản như có đức tin vững mạnh, có lòng mến dồi dào, có lòng đạo đức nhiệt tình, có lòng quảng đại, biết hy sinh, khiêm tốn, hiền hòa, nhạy bén cộng với sự thành thạo những kỹ năng cần thiết như kỹ năng sư phạm, kỹ năng truyền thông, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng sinh hoạt nhóm vv.
Ở đây, ta chỉ bàn qua một số phẩm chất chính yếu liên quan đến vai trò của GLV, đó là thầy dạy, người giáo dục đức tin, chứng nhân Tin Mừng và nhà truyền giáo.
4.1: GLV là thầy dạy.
Có thể nói, GLV trước hết là người thầy đứng lớp dạy giáo lý cho học viên. Người thầy có thể là linh mục, tu sĩ nam nữ hay tín hữu giáo dân. Người thầy thì phải là nhà mô phạm, là mẫu gương cho học viên.
Vì là người thầy tức là người truyền đạt kiến thức cho học viên, chúng ta không thể không thông hiểu những gì mình dạy. Người ta chỉ có thể cho những gì mình có. Do đó, GLV cần nắm vững được nội dung giáo lý, tức là toàn bộ Tin Mừng, mà trung tâm là mầu nhiệm và công cuộc cứu rỗi của Chúa Ki-tô. Do vậy, GLV cần được đào tạo và bồi dưỡng liên tục về chính nội dung giáo lý. Đây là một cuộc đầu tư và là món nợ mà các linh mục phải trả sóng phẳng với cộng sự viên của mình. [7]
Mặt khác, vì là nhà giáo, chúng ta cũng phải hội đủ những kiến thức về tâm lý và sư phạm nữa. Thực vậy, muốn Lời Thiên Chúa đạt hiệu năng tối đa, ta còn cần chú trọng đến nhu cầu tâm lý, khả năng tiếp nhận, lối cảm nghĩ của người nghe Lời Thiên Chúa. GLV phải hiểu tâm lý người nghe để tìm đường lối cụ thể và thích hợp nhất làm cho Lời Thiên Chúa trở nên linh động, thấm sâu vào lòng người. [8]
Bên cạnh đó, nên lưu ý điều này là dù chúng ta có tài giỏi đến mấy đi nữa nhưng con người và đời sống của chúng ta chưa là gương sáng thì lời dạy của chúng ta không mang lại hiệu quả gì. Người ta thường nói, “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo” (hay “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”).
Chẳng hạn khi chúng ta yêu cầu học viên đúng giờ thì chúng ta cũng phải nghiêm túc trong giờ giấc. Khi chúng ta khuyên học viên ngay thẳng thật thà thì chúng ta không được sống và cư xử giả dối, lươn lẹo. Khi chúng ta muốn các học viên phải đối xử tử tế với nhau thì chúng ta cũng phải tỏ ra có thiện cảm và yêu mến các học viên, không phân biệt đối xử, không thù ghét và gây bất hòa chia rẽ. Khi chúng ta khuyến khích học viên siêng năng học tập, rèn luyện kiến thức, nâng cao kỹ năng học tập, thì chúng ta phải tích cực trau dồi những điều ấy làm sao để hướng dẫn và giúp học viên càng ngày càng tiến bộ hơn.
Thực vậy, GLV là người thầy của các em không chỉ trong việc giáo dục đức tin mà cũng là thầy trong phương diện nhân bản nữa. Khi tập cho các em các đức tính nhân bản như trung thực, dũng cảm, trách nhiệm, cao thượng, nhân hậu, dấn thân… thiết nghĩ, bản thân người GLV nêu gương sống và thực hành các đức tính này ngay trong những buổi lên lớp của mình qua việc chuyên cần, đúng giờ, soạn bài nghiêm túc, chuẩn bị lên lớp cách cẩn thận, có trách nhiệm trong giờ học (giờ dạy). Và quan trọng hơn hết là người GLV bày tỏ cho các em thấy được tâm tình tin kính (với Thiên Chúa) của mình qua cử chỉ, cung cách, sự trang nghiêm khi cầu nguyện, khi đọc Lời Chúa, khi đi đứng trong nhà thờ vv. [9]
4.2: GLV là người giáo dục đức tin.
Chúng biết rằng, GLV không chỉ đóng khung trong vai trò thầy dạy kiến thức mà thôi, nhưng hơn nữa còn là nhà giáo dục đức tin nữa. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Muốn truyền đạt đức tin cho học viên thì chính bản thân chúng ta phải là người có đức tin sống động và thiết thực.
Quả vậy, GLV phải có một đức tin sống động. Bởi vì chỉ ai có kinh nghiệm bản thân về Thiên Chúa, mới có thể đưa anh em mình đến với Thiên Chúa. Một kiến thức chuyên môn của viên kỹ sư không nhất thiết phải ăn khớp với hạnh kiểm của ông. Nhưng trái lại, một GLV không thể truyền đạt giáo lý, nếu không sống chính điều mình truyền dạy, bởi vì giáo lý không phải là một kiến thức suông, mà là một SỨC SỐNG. Lời Chúa mà chúng ta truyền dạy không phải là văn tự chết trong sách, nhưng được thấm nhập vào cuộc đời của người giảng, và nhờ ơn thánh, trở nên sống động để đến với người nghe. Trước khi là thầy dạy, GLV phải là chứng nhân đã. Vì thế, chúng ta phải luôn cầu xin Chúa gia tăng đức tin cho mình qua việc cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và nỗ lực sống điều mình tuyên xưng. [10]
4.3: GLV là chứng nhân Tin Mừng.
Như trên đã nói [5], GLV không phải chỉ là người dạy, nhưng trước hết phải là một chứng nhân (DGL 9.66), một chứng nhân tình yêu cứu độ. GLV không phải chỉ là người truyền đạt những kiến thức về Thiên Chúa, nhưng phải là người truyền thông một kinh nghiệm gặp gỡ với Thiên Chúa. Nói cách khác GLV là người luôn tìm cách khám phá ra tình yêu Chúa trong cuộc đời mình cũng như khám phá ra điều gì Chúa đang chờ đợi nơi mình, để nhờ đó dễ dàng giúp người khác tìm gặp và yêu mến Chúa.
Muốn làm chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Ki-tô thì chúng ta phải sống Tin Mừng trước đã.
Sống Tin Mừng là đón nhận Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh vào trong đời mình. Như thánh Phao-lô đã xác tín, “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Khi có Chúa trong đời mình, chúng ta an tâm, vui mừng vì đã được ơn tha thứ, được ơn bình an, được hưởng những hoa quả của Thần Khí, được hạnh phúc làm con cái Thiên Chúa. Lúc đó Chúa chính là sự sống của ta, và nhờ đó ta có thể chia sẻ sự sống ấy cho tha nhân.
Sống Tin Mừng là chúng ta hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào tình thương và sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, đó là sự chọn lựa ưu tiên hàng đầu trong đời sống đức tin của mình.
Sống Tin Mừng là chúng ta biết chú tâm lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Đối với người Ki-tô hữu chân chính, thì việc lắng nghe Lời Chúa luôn kèm theo việc thi hành Lời Chúa. Không thực hành Lời Chúa thì tất cả chỉ là ảo tưởng, là xây nhà trên cát. Thậm chí không thể nói là đã hiểu Lời Chúa, vì như thánh Grê-gô-ri-ô Cả đã viết, “Người ta chỉ thực sự hiểu Lời khi bắt đầu đem ra thực hành”. GLV luôn là người quan tâm giúp học viên tích cực đọc, suy niệm và thực thi Lời Chúa.
Sống Tin Mừng là khi chúng ta luôn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Đồng thời cũng lan tỏa niềm vui và bình an ấy đến với mọi người. Chúng ta thực sự trở thành tin vui, tin mừng cho tha nhân. Bởi vì sức hút nơi người tông đồ là niềm vui có Chúa. ĐTC Phan-xi-cô nhân ngày Thế giới Truyền giáo, đã thổ lộ tâm tình của mình với các nhà truyền giáo như sau: “Chúng ta đừng để mình bị tước mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em” (Sứ điệp truyền giáo năm 2014).
Sống Tin Mừng đòi hỏi chúng ta tích cực thi hành lòng mến Ki-tô giáo. Đó là cách chúng ta làm chứng tá Tin Mừng Đức Ki-tô và là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất. Muốn trở nên người tông đồ thực thụ vì chan chứa niềm vui, người được sai đi loan báo Tin Mừng phải gặp gỡ thân tình với Đức Kitô, cảm nghiệm được ơn gọi và sứ vụ cao quý của mình, và phải yêu mến những người mà mình có cơ hội tiếp xúc, dạy dỗ.
4.4: GLV là nhà truyền giáo.
Do sứ vụ đặc thù của mình, GLV cũng còn được gọi là nhà truyền giáo nữa. Khi dạy giáo lý, đó là chúng ta đang truyền giáo.
Trong Lời Chủ Chăn với chủ đề “GLV anh chị em là ai?”, thuộc bản tin Liên Lạc GP Phan Thiết, số 7-2011, Đức cố GM Giuse Vũ Duy Thống đã chia sẻ như sau:
Trong Giáo Hội xét như sứ vụ, GLV là nhà truyền giáo.
Theo lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, ngày xưa các thừa sai đến đâu thì việc đầu tiên các ngài làm là giảng dạy giáo lý và kêu gọi sám hối rồi cử hành nghi thức rửa tội, khiến từ đó việc truyền giáo cũng đồng nghĩa với việc giảng dạy giáo lý, để hôm nay ta có quyền nói: giảng dạy giáo lý một cách nào đó cũng là hoạt động truyền giáo.
Hoạt động truyền giáo và hoạt động huấn giáo có thể được hình dung như hai bước chân trước sau của cùng một nhịp đi. Có người phân biệt cách chí lý rằng: truyền giáo là nhằm rửa tội những người biết sám hối; còn huấn giáo là nhằm sám hối những người đã rửa tội rồi. Có người khác lại chia sẻ cách đơn giản hơn: truyền giáo ban đầu là dùng giáo lý đem Chúa đến cho người ta; còn tái truyền giáo là dùng giáo lý đem người ta trở về với Chúa. Cả hai cách phát biểu đều hay và đẹp, nhưng điều muốn ghi nhận ở đây là mối tương quan không thể tách rời giữa truyền giáo và huấn giáo.
Truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội. Không phải vì có Giáo Hội nên mới có sứ vụ truyền giáo, mà ngược lại, vì đã có sứ vụ truyền giáo nên mới có Giáo Hội để tổ chức thi hành. Vì Giáo Hội là truyền giáo, mà truyền giáo và huấn giáo bước song hành, nên tham gia công tác huấn giáo, giảng dạy giáo lý cũng là cộng tác vào công cuộc truyền giáo tại giáo xứ, cho có thêm người biết Chúa, biết tin nhận Chúa và biết sống đẹp lòng Chúa hơn.
Vâng, trong Giáo Hội sứ vụ, anh chị em GLV là những nhà truyền giáo đấy. Vậy anh chị em hãy luôn ghi nhớ khía cạnh sứ vụ này của Giáo Hội, để công tác huấn giáo của anh chị em được chu đáo và nâng cao, không chỉ bằng giáo án khúc chiết mà còn bằng chứng tá đức tin hằng ngày nữa. Giáo lý không chỉ được giảng dạy bằng lời nhưng còn bằng chính đời sống gương mẫu của GLV. [11]
5- Giáo lý viên và nhu cầu về đào tạo
Việc đào tạo, huấn luyện GLV luôn là mối bận tâm lớn của các đấng bậc trong Hội thánh. Nhiều người nhận định rằng tình trạng GLV hiện nay vừa mỏng về số lượng lại vừa đuối về chất lượng. Đó là một thực tế đáng ta suy nghĩ.
Chúng ta thử nêu vài ý kiến tham khảo sau:
– Thư chung của các Giám Mục năm 2011 viết như sau: “Cùng với việc học hỏi Lời Chúa, việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Giáo Hội, nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng. Đại Hội Dân Chúa mong mỏi sớm có được những nguyên tắc, đường hướng và chương trình chung, cũng như một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam. Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chương trình thường huấn cũng như đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên”. [12]
– Tại Đại Hội Dân Chúa VN năm 2010, GLV Tổng Giáo phận Saigon cũng đã có bài tham luận trong đó bày tỏ ước vọng liên hệ tới việc huấn luyện GLV như sau: “Trong thời gian vừa qua, số lượng GLV trẻ gia tăng đáng kể nhưng còn thiếu kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa, thiếu kiến thức và trải nghiệm cuộc sống. Chúng con đề nghị Giáo Hội tích cực quan tâm đến việc đào tạo lực lượng GLV chuyên sâu ở mọi lứa tuổi: người trẻ, người trung niên và cả người lớn tuổi”. Bài Tham luận còn đi xa hơn nữa về vấn đề cơ cấu huấn luyện GLV khi phát biểu: “Cuối cùng, chúng con đề nghị mau chóng có một sự thống nhất về cấu trúc, chương trình và những chuẩn mực của các lớp Giáo Lý nói riêng và các hoạt động mục vụ giáo lý nói chung, để tránh sự khác biệt khi áp dụng giữa các giáo xứ như hiện nay”. [12]
– Trong bài viết có tựa đề “Chân dung giáo lý viên hôm nay” [13], các tác giả đã tổng hợp và đưa ra một số nhận định rất cụ thể và chi tiết, xin được trích dẫn vài đoạn, như sau:
Về tình hình GLV hiện nay: Thiếu giáo lý viên được huấn luyện đúng mức. Trong khi lực lượng tu sĩ tham gia giảng dạy giáo lý – mà đa số là nữ tu – thường được huấn luyện về giáo lý cũng như sư phạm, thì không phải mọi GLV khác đều được huấn luyện đầy đủ để thi hành công tác này.
Điều đáng suy nghĩ là hình như chưa có giáo phận nào ở Việt Nam có được một trường hay trung tâm huấn luyện GLV chính danh. Bù đắp lại có chăng là đây đó có được những khóa huấn luyện mà nội dung chương trình, thời hạn đào tạo cũng rất đa dạng tùy nơi, tùy thời và tùy hoàn cảnh.
Riêng ở Tổng Giáo phận Saigon, từ khoảng năm năm trở lại đây, Tòa TGM đã liên tiếp tổ chức các khóa huấn luyện GLV dành cho các giáo xứ trong TGp, mà ứng viên được chọn trong những người trẻ tình nguyện từ các giáo xứ, với chương trình huấn luyện gồm có ba cấp cơ bản và những khóa chuyên sâu nhằm thỏa mãn nhu cầu dạy giáo lý cho nhiều lọai đối tượng khác nhau. Mỗi khóa có cả ngàn người được huấn luyện. Các Giáo phận khác cũng càng ngày càng có những nỗ lực tương tự. Khi chưa tổ chức được một cách quy mô cho cả Giáo phận, thì cũng có những khóa do từng hạt hay từng liên xứ tổ chức, nhưng không phải nơi nào cũng có điều kiện tổ chức.
Tại một số giáo xứ, đặc biệt tại các giáo xứ lớn có đông giáo dân, cha xứ có thể tự huấn luyện GLV cho nhu cầu mục vụ của giáo xứ mình. Nhưng cũng có nhiều giáo xứ không làm được điều này. Có nhiều khi cha xứ chỉ việc chọn lựa dăm ba giáo dân có uy tín trong giáo xứ, không có một sự chuẩn bị đặc biệt nào khác, để phụ giúp ngài trong việc này khi có nhu cầu. Giáo xứ nào may mắn có được những giáo lý viên vốn là cựu chủng sinh hay cựu tu sĩ có đầy đủ khả năng cho công việc và vẫn còn nhiệt tình tham gia giảng dạy thì trách vụ của mục tử nơi đó được nhẹ bớt rất nhiều. Ngoài ra, cũng có những giáo dân tuy không qua những khóa đào tạo chính quy nào, nhưng đã theo học những lớp Thần học cơ bản, những lớp Kinh Thánh vv… hoặc tự trau dồi bằng những sách giáo lý và tài liệu của Giáo hội, sẵn sàng chia sẻ công việc này với cha xứ khi có yêu cầu.
Bởi lý do nhiều nơi, nhiều lúc, thiếu sự huấn luyện đúng mức, nên không ít GLV chưa làm đúng chức năng của mình, mới chỉ làm công việc truyền thụ kiến thức về đạo Chúa, chuẩn bị một cách máy móc cho thụ nhân chịu các bí tích, hơn là giáo dục đức tin. Việc dạy giáo lý nhiều khi chỉ quen với lối truyền thụ cổ điển, không có chỗ cho phản hồi, trao đổi, đối thọai, không dành thời gian cho học viên nêu câu hỏi hay đưa ra những thắc mắc, vì thế lớp học thiếu sinh động, học viên thiếu tích cực, nếu không muốn nói là hoàn toàn thụ động, không chịu động não, không có sự thấu hiểu, đón nhận cần thiết.
Việc dạy giáo lý thường chỉ thu vào thời gian trong lớp học, không chú ý đến việc thực hành, tức là tập thể hiện trong đời sống những điều đã được truyền đạt. Có khi GLV lại dạy rất tùy hứng, thiếu chuẩn bị, nhiều khi lại còn thiếu quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác, trình độ, não trạng, hoàn cảnh của các đối tượng, việc giảng dạy thiếu chiều sâu, nên không đạt được kết quả mong muốn, không giữ được kết quả lâu dài. Bởi tuy Tin Mừng đã được loan báo, nhưng chưa thực sự cảm nhận, người học chưa có xác tín, nên chưa thực sự biến đổi.
Xét cho cùng, điều quan trọng là cần có sự huấn luyện thích đáng: đó là điều Huấn Quyền luôn đòi buộc, vì “nếu không được đảm nhận bởi những người có đào tạo, mọi họat động tông đồ chắc chắn sẽ thất bại”. Để được như vậy, sự huấn luyện phải có tính “toàn diện”, nghĩa là bao gồm mọi chiều kích của nhân cách GLV, và “chuyên biệt”, nghĩa là phù hợp với các đặc tính của công việc mà mỗi giáo lý viên tùy trường hợp được giao phó. Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II đã khẳng định : “Ưu tiên cho chất lượng, nghĩa là ưu tiên cho việc huấn luyện căn bản thích hợp và việc cập nhật hóa luôn luôn. Để bảo đảm cho sứ vụ của Giáo Hội có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện giáo lý viên về các mặt: từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn” ./.
Aug. Trần Cao Khải
_____________
[1] http://giaophanlongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20200728151300
[2] LM Nguyễn Văn Tuyên – Sư phạm giáo lý – UB ĐKCG Tp.HCM bản in ronéo năm 1994 trang 9
[3] LM Nguyễn Văn Tuyên sđd trang 10
[4] Mục từ Giáo lý viên – Từ điển Công Giáo – UB GLĐT/ HĐGM VN – NXB TG 2019 trang 347
[5] http://giaophanvinhlong.net/Tai-Lieu-Huan-Luyen-Giao-Ly-Vien.html
[6] LM Nguyễn Văn Tuyên sđd trang 39
[7] LM Nguyễn Văn Tuyên sđd trang 40
[8] LM Nguyễn Văn Tuyên sđd trang 40
[9] http://www.gplongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20180731074106
[10] http://www.giaoly.org/vn/nhung-duc-tinh-can-thiet-cua-giao-ly-vien/
[11] http://bangiaolyphatdiem.com/giao-ly-vien-anh-chi-em-la-ai/
[13] http://www.giaoly.org/vn/chan-dung-giao-ly-vien-hom-nay/
2020
Nên thánh đối với các bệnh nhân
Thân phận con người là hữu hạn: “hữu sinh, hữu tử”, nghĩa là có sinh ắt phải có tử. Nhưng ngày sinh thì biết, ngày tử thì không. Chết ở đâu, khi nào và chết bằng cách nào chúng ta không hề hay biết. Chỉ biết rằng sinh ra trong cõi đời này, sống trong cõi tạm này và ngày nào đó ta sẽ phải buông bỏ tất cả, chấm dứt cuộc đời chóng qua. Đời người được ví như một chuyến đi, một hành trình có khởi đầu và kết thúc mà không ai thoát khỏi.
‘Sinh, Lão, Bệnh, Tử’ đã trở thành quy luật của một đời người và là định mệnh của con người. Nói đến bệnh, ai trong chúng ta lại không cảm nghiệm được sự đau đớn, khó chịu, buồn bực, âu lo, sợ hãi… có nhiều người đã chán nản, thất vọng, buông xuôi, hụt hẫng, khi được tin bản thân có bạo bệnh. Điều này không ai phủ nhận và chê cười, nhưng điều quan trọng là làm thế nào, dù đau buồn với căn bệnh nơi thân xác nhưng chúng ta vẫn phải giữ được trạng thái của mình mà sống bình an, phó thác; sống lạc quan và yêu đời, mới mong có thêm tuổi thọ.
Nên thánh đối với bệnh nhân là giúp họ nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong Thánh Kinh và đón nhận bệnh tật với cái nhìn đức tin. Quả vậy, nếu bệnh tật và tuổi tác là một thực trạng gắn liền với thân phận con người, và con người không sao thoát nổi, chỉ thì còn cách đón nhận nó và sống chung với nó. Người tin vào Chúa tìm được nơi Ngài nguồn trợ lực siêu nhiên để nhờ đó, những đau đớn thể xác được giảm bớt. Đức tin cũng hướng họ về cuộc sống vĩnh cửu, nơi không còn bệnh tật chết chóc và đau khổ. Giáo Hội yêu thương mọi con cái mình, trong số đó có các bệnh nhân. Giáo Hội cũng có nhiều hình thức giúp đỡ phục vụ người bệnh về tinh thần cũng như vật chất. Chủ đề “nên thánh đối với các bệnh nhân” cũng giúp các tín hữu là những người đang khỏe mạnh suy tư, cầu nguyện và thực thi bác ái đối với anh chị em đang gánh chịu nỗi đau thể xác và tinh thần do bệnh tật.
1- Bệnh tật như một tình trạng của đời sống
Trong tất cả mọi trường hợp, nói đến bệnh tật là nói đến một sự thay đổi về thể chất, một tình trạng trong đời sống, ảnh hưởng đến cá tính con người, các tương quan với bản thân, với người khác và thế giới. Trong thời gian đầu, người bệnh quan tâm đến cơ thể hay các bộ phận bị ảnh hưởng bởi bệnh tật, đến thân nhiệt, thuốc men, các kết quả xét nghiệm. Người bệnh tự quan sát mình, so sánh tình trạng hiện thời với các thành tích trong quá khứ và cảm thấy mình yếu kém: “mình không còn là mình”. Trước kia mình lãnh đạo, quyết định, hành động. Bây giờ mình phải chờ đợi quyết định và sự giúp đỡ của người khác. Với thời gian, người bệnh quen với bệnh tình của mình, với nếp sống và thế giới bị nhiều hạn chế do bệnh tật gây nên.
Thay đổi sâu sắc nhất thường xảy ra trong tương quan của người bệnh với người khác: người bệnh cảm thấy mình bị đối xử như một người yếu kém về tinh thần cũng như thể xác, một người sống bên lề những người khỏe mạnh, thậm chí như một người vô dụng. Được thân nhân bạn bè thăm hỏi động viên, nhưng người bệnh vẫn cảm thấy mình thuộc một thế giới khác. Bác sĩ, y tá quan tâm chăm sóc, nhưng họ cũng chỉ là những chuyên viên điều trị, tuy gần gũi nhưng vẫn xa cách. Người bệnh có thể tạo được những tương quan mới với người đồng cảnh ngộ: giữa người bệnh với nhau, người ta nghe nhau kể lể bệnh tình, và âm thầm động viên nhau.
Như vậy, bệnh tật không phải là một hiện tượng sinh học hay một hiện tượng xã hội. Bệnh tật chi phối toàn bộ con người tạo nên một tình trạng đời sống, một nếp sống ảnh hưởng sâu sắc đến cách suy nghĩ, phê phán, phản ứng và xử sự.
2- Phản ứng và thái độ
Ta có thể nói: có bao nhiêu người bệnh thì có bấy nhiêu phản ứng. Mỗi người phản ứng theo cách thế và thái độ của mình. Những phản ứng và thái độ này cũng có thể biến chuyển, thay đổi mau chóng, bất ngờ:
– Trong giai đoạn đầu, người bệnh thường tỏ ra mất tinh thần khi thấy sức khỏe suy sụp, tiêu hao. Bệnh tật gây hoảng sợ và phẫn nộ: tại sao lại tôi, chứ không phải người khác? Tôi đã làm gì để phải chịu một hình phạt bất công? Bạn bè ông Gióp trong Kinh Thánh Cựu ước cũng đã phản ứng như vậy.
– Từ phẫn nộ, người bệnh đâm ra sợ hãi: sợ đau, sợ mổ; sợ sống lệ thuộc vào người khác, sống xa người thân, sợ bị bỏ rơi, sợ cho tương lai, sợ chết, và đặc biệt sợ sự im lặng đồng lõa của những người thân cận.
– Trong một số trường hợp, đau đớn ở mức độ cao làm tê liệt sinh lực: người bệnh không còn biết đau, chỉ còn biết chịu đựng. Trong một số trường hợp khác, người bệnh trở thành sáng suốt hơn, có ý thức hơn, gồng mình chịu đựng đau khổ như một hình phạt bất công. Người bệnh nổi loạn chống đau khổ, chống người thân, bạn bè, thậm chí chống lại cả Thiên Chúa.
Trong những trường hợp này, người Kitô hữu cầu nguyện để vượt qua cơn cám dỗ. Trong tâm trạng cô đơn, không nơi nương tựa, người bệnh ý thức sâu sắc hơn thân phận con người mong manh hữu hạn. Không còn bị chi phối bởi các lo lắng trần tục, người bệnh chỉ còn nghĩ đến “điều cần thiết duy nhất” trong bối cảnh phù vân của cuộc đời. Người bệnh trở thành trầm lặng hơn, bình tĩnh hơn, có chiều sâu hơn. Được nuôi dưỡng bởi Đức tin, người bệnh đi từ thế giới chóng qua để vươn tới thế giới vĩnh cửu. Khi không còn tìm được nguồn trợ lực nơi trần gian, người bệnh kêu cầu và cậy trông vào Thiên Chúa. Một lúc nào đó, họ nhận ra rằng, sự đau khổ, nếu được chấp nhận, sẽ trở thành một sức mạnh có khả năng vươn lên, một môi trường có khả năng cứu độ và thánh hóa.
3- Ý nghĩa của đau khổ bệnh tật dưới cái nhìn Đức tin Kitô giáo
Con Thiên Chúa làm người đã không xóa bỏ bệnh tật và đau khổ khỏi kinh nghiệm nhân loại, nhưng chính Ngài đã đảm nhận chúng, đã biến đổi và mang lại cho chúng một chiều kích mới. Đức Giê-su khẳng định: sự chết không phải là tiếng nói sau cùng. Chết không phải là hết, mà là tái sinh biến đổi. Chính Chúa Giêsu đã đón nhận cái chết. Người sánh ví cái chết của Người như hạt giống gieo trong lòng đất, bị mục nát để nẩy mầm, sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu là con đường và chúng ta có thể bước theo Người để gặp gỡ Chúa Cha, nhờ sức mạnh và ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần. Như Chúa Cha đã ban Con Một vì yêu thương, và Chúa Con đã hiến mạng sống mình cũng vì yêu thương, nên chúng ta cũng có thể yêu thương tha nhân như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, bằng việc hiến mình cho anh chị em chúng ta.
– Người bệnh nhìn lên Đấng Chí Tôn
Thánh Kinh dạy chúng ta ý nghĩa cuộc đời này là cõi tạm để bước vào đời sống vĩnh hằng:
“Đời chúng con tàn tạ, kiếp sống thoảng qua, một tiếng thở dài. Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90,9-10). Thánh vịnh 90 dạy cho ta biết, cuộc đời mai sau mới là chốn để chúng ta hướng đến và đi tới. Vì thế, bệnh là cơ hội để chúng ta đến gần sự chết và qua cái chết để mỗi người bước vào ngưỡng cửa của đời sống vĩnh hằng. Cái chết không là ngõ cụt hay tận cùng, nhưng là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Chúa Kitô và cùng với Ngài trong cõi Thiên Quốc.
Khi ý thức cuộc đời này là cõi tạm, con người sống tỉnh thức và khôn ngoan với năm tháng Chúa ban mà hướng về đời sống vĩnh cửu mai sau. Khi đặt niềm tin vào Thiên Chúa, thì dù bệnh tật hay khổ đau chúng ta vẫn được Thần Khí hướng dẫn, ban sức mạnh để vác lấy thập giá khổ đau. Qua thập giá chúng ta sẽ nhận ra được sự khôn ngoan đích thực của Thiên Chúa nơi phận người. Vì thế, chúng ta luôn xác tín vào Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu: “Xin dạy chúng con biết đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv. 90,12).
– Thiên Chúa nhìn xuống người bệnh
Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người và ở giữa chúng ta. Ngài đến với nhân loại để chia sẻ phận người và cứu độ chúng ta. Ngài không chỉ đến với tội nhân nhưng Ngài đến với những con người khổ đau và bệnh tật. Chính Ngài đã trở nên, như Vị Lương y để chữa lành và ban lại sự sống cho những người ốm đau bệnh tật.
Rất nhiều dẫn chứng trong Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giê-su chữa lành bệnh nhân cả thể xác cũng như tâm hồn: Câu chuyện Chúa cho anh Lazaro đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11.1-45); Câu chuyện người đàn bà bị băng huyết (Mc 5, 25-43); Những phép lạ Chúa làm luôn đòi hỏi đức tin nơi người đang ao ước được chữa lành. Với người đàn bà bị băng huyết, Chúa nói: “lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
4- Nên thánh đối với bệnh nhân
Nên thánh là ơn gọi chung của mọi tín hữu. Đối với các bệnh nhân, nên thánh là xác tín vào Chúa và nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong cái nhìn Đức tin, để rồi lạc quan chuẩn bị cho cuộc lên đường cuối cùng của cuộc đời.
– Không đồng hóa bệnh tật với tội lỗi:
Bệnh tật là dấu chỉ một sự suy yếu của thể xác và như thế không phải là hậu quả do phạm tội hoặc chống đối Thiên Chúa. Đức Kitô đã chống lại quan niệm thông thường của người Do Thái thời đó, đồng hóa bệnh tật và tai họa với tội lỗi của các nạn nhân: “Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ có tội nặng hơn những người ở Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: “không phải thế đâu” (Lc 13,4). Các môn đệ hỏi Đức Giêsu về người mù từ thuở mới sinh: “Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta”? Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội, nhưng những chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Đối với Đức Kitô, đau khổ không phải là hình phạt phát sinh từ tội lỗi cá nhân, mặc dù có một liên quan chặt chẽ giữa đau khổ và tội lỗi. Thật vậy, tội lỗi đã tạo nơi con người sự chống đối Thiên Chúa, và vì thế, đã gây nên một sự xáo trộn trong thế giới được tạo dựng mà đau khổ và bệnh tật là những hậu quả và biểu hiện. Vì thế, khi chữa lành các vết thương người bệnh, Đức Kitô cứu chuộc con người toàn diện, nhất là cứu chuộc con người khỏi tội lỗi.
– Vai trò ngôn sứ của người bệnh
Sự đau khổ của Đức Kitô biến đổi sự đau khổ của người bệnh: giữa những người mạnh khỏe, người bệnh sống như một chứng nhân, như một ngôn sứ không ngừng nói lên rằng con người sinh ra cho đời sống vĩnh cửu, từ những đau khổ và bất hạnh của đời này. Thật vậy, đại đa số những người sống ở đời này thường tỏ ra quá gắn bó với đời sống trần gian và không ý thức được rằng sự gắn bó này chỉ dẫn đến diệt vong. Họ tin có Thiên Chúa – một Thiên Chúa mà họ có thể kêu cầu trong trường hợp khẩn cấp – nhưng họ hy vọng sẽ không bao giờ phải sử đụng đến Thiên Chúa. Trên lý thuyết, họ tin rằng hạnh phúc là ở nơi Thiên Chúa, nhưng bao lâu họ còn tìm được hạnh phúc nơi khác, họ không cần đến Thiên Chúa.
Bệnh tật cũng nhắc ta tìm lại được tinh thần mà ta phải có khi sống ở trần gian: tiền tài, vật chất và trái đất này không phải là Thiên Chúa ta thờ, và kho báu đích thực ta phải tìm kiếm chính là Đức Kitô. Và đây là điều mà ta có thể gọi là vai trò ngôn sứ của người bệnh, Thiên Chúa dùng họ để nói với người khỏe mạnh rằng đời sống trần gian chỉ là đời tạm và mọi người đang trên con đường đi tới đất hứa để được an nghỉ trong bình an của Thiên Chúa. Người bệnh sống trong sự phó thác vào Thiên Chúa là con người sống trong sự thật.
– Hướng về đời sau
Bệnh tật nhắc ta rằng hạnh phúc con người quả thật mỏng manh và ta mang trong người một sự “thiếu thốn” mà cuối cùng ta sẽ khám phá ra. Ngày mà ta phải đối diện với Thiên Chúa, ta chỉ có thể tiến dâng Người một cái gì nhỏ nhoi mà ta còn giữ lại được. Ý thức sự mong manh của thân phận con người, chúng ta phải gắn bó và vươn tới cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu loan báo Nước Trời như quê hương đích thực của chúng ta. Ai cũng phải trải qua sự chết để khởi đầu cuộc sống mới. Chính Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Người bảo đảm với chúng ta: những ai cũng chết với Người, thì cũng được sống lại với Người. Tin vào đời sau sẽ giúp chúng ta có nghị lực để chống chọi với bệnh tật, đồng thời luôn lạc quan tâm trí, thanh thản cõi lòng và sẵn sàng đón nhận những đau đớn do bệnh tật gây nên.
5- Bí tích Xức dầu bệnh nhân
Thánh Giacôbê đã viết: “Ai trong anh em đau yếu, hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân Chúa” (Gc 5,14).
Trước đây, người ta quan niệm việc lãnh nhận Bí tích Xức dầu như một thủ tục trước khi chết. Vì vậy, có nhiều người sợ hãi bí tích này, coi đó là một điều xui xẻo. Trước cải cách Phụng vụ của Công đồng Vatican II, Bí tích này được gọi là Bí tích xức dầu sau hết. Ngày nay, chúng ta gọi là Bí tích xức dầu Bệnh nhân. Bí tích Xức Dầu bệnh nhân ban ơn nâng đỡ bệnh nhân và người già yếu về phần hồn cũng như phần xác. Bằng việc đặt tay, xức dầu thánh và lời cầu nguyện của linh mục, Hội Thánh phó thác các bệnh nhân cho Chúa Kitô đau khổ và vinh hiển để Người an ủi và cứu độ họ. Khi cử hành Bí tích xức dầu bệnh nhân, Giáo Hội nhấn mạnh tới ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ngài vừa tha thứ tội lỗi, vừa chữa lành những bệnh tật đau đớn phần xác. Bí tích này còn ban cho bệnh nhân sức mạnh thiêng liêng để chống lại những cám dỗ trong những giây phút cuối cùng, trước khi kết thúc hành trình trần thế để về nhà Cha trên trời.
– Những ơn ban do Bí tích Xức Dầu bệnh nhân:
* Ân sủng trợ giúp đặc biệt của Chúa Thánh Thần để thêm tin tưởng, bình an và phó thác trong tay Chúa.
* Kết hợp với Đức Kitô chịu khổ nạn để sinh ơn cứu độ.
* Ơn tha thứ mọi tội lỗi đã phạm và mọi hình phạt do tội (qua việc lãnh ơn Toàn Xá).
* Ơn sức mạnh để chuẩn bị cho cuộc ra đi lần cuối, giúp họ an tâm trong cuộc chiến đấu cuối cùng trước khi về Nhà Cha.
Cũng như Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể hợp thành “ba bí tích khai tâm Kitô giáo”, thì Giải Tội, Xức Dầu bệnh nhân và Thánh Thể hợp thành “các bí tích chuẩn bị về Quê trời” hay là “các bí tích hoàn tất cuộc lữ hành trần thế”.
5- Trách nhiệm của những người khỏe mạnh và của cộng đoàn
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng cần lòng tin của chúng ta để chữa lành cho thế giới. Lòng tin ấy được thể hiện bằng những hành động cụ thể như: an ủi, cảm thông, giúp đỡ, động viên, sẻ chia. Lòng tin ấy chính là một thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Mỗi người chúng ta liên đới với những người đau khổ, những bệnh nhân của những căn bệnh hiểm nghèo. Người Kitô hữu luôn lấy đức tin để nhìn vào những đau khổ của mình và tha nhân hiệp với đau khổ của Đức Kitô trên Thánh Giá.
– Cảm thông: Chúng ta phải đồng cảm với những người đau khổ, tức là thực sự sống với những mất mát đau thương của họ, từ đó sẽ dễ dàng yêu thương và kiên trì giúp đỡ họ.
– Giúp đỡ: Lúc bệnh ai cũng có cảm giác đau khổ, cô đơn, buồn tủi và sức lực yếu đi. Lúc ấy họ muốn buông xuôi và sợ hãi trước cái chết, nếu biết cái chết gần kề với căn bệnh hiểm nghèo. Vì thế, họ cần nhiều bàn tay nâng đỡ, ủi an và yêu thương. Họ cần lòng nhân ái và sự bao dung của người mạnh khỏe. Họ cần lời động viên khích lệ của y bác sĩ và người thân hơn là cho họ món quà vật chất.
– Yêu thương: Yêu thương là cốt lõi của Tin Mừng, nhất là với người bệnh. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có được đôi mắt nhân từ, trái tim thương cảm, vòng tay rộng mở của Chúa để nhạy bén với những nhu cầu, nỗi đau, thất vọng, mệt mỏi của bệnh nhân. Từ đó, chúng ta thông hiệp khổ đau và bệnh tật của người khác vào trong lời cầu nguyện với lòng tin được chữa lành qua sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ Maria và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Kết luận: Chúa Giêsu mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28). Hãy đến với Chúa để được Người ban ơn trợ giúp, nhờ đó, người bệnh sẽ được Chúa chữa lành thể xác và tinh thần, hoặc nếu không được chữa lành thể xác vì con người phải chết, thì ít ra cũng được thanh thản tâm hồn, phó thác và lạc quan trong những giây phút cuối đời. Chúa Giêsu cũng đồng hóa với người đau khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi quên lãng. Người khẳng định: những ai giúp đỡ người bệnh tật, tù đày, trần truồng là giúp đỡ chính Chúa (x. Mt chương 25). Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 này, chúng ta đều nhận ra sự trân quý của cuộc sống. Sức khoẻ là quà tặng quý giá Thượng đế ban cho con người. Dịch bệnh cũng là cơ hội để chúng ta nhận ra sự mong manh mỏng dòn của kiếp người. Những nghĩa cử quảng đại bác ái chia sẻ đã làm ấm lên tình người và tình đồng loại. Đại họa viêm phổi Vũ Hán chắc chắn sẽ qua đi, và chúng ta hy vọng tình liên đới chia sẻ sẽ còn đọng lại mãi và không ngừng được nhân lên. Xin cho các bệnh nhân được vững tin vào Chúa, và xin cho mọi người cùng nhau thực hiện đức bác ái yêu thương, giúp xoa dịu nỗi đau của người bệnh, giúp họ tìm thấy sự nồng ấm yêu thương của tình Chúa tình người.
Hà Nội, tháng 7-2020
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên