2020
Khái niệm giáo dục, huấn luyện và đồng hành trong tiến trình đào tạo ơn gọi linh mục và thánh hiến
Khái niệm giáo dục, huấn luyện và đồng hành
Khái niệm giáo dục, huấn luyện và đồng hành trong tiến trình đào tạo ơn gọi linh mục và thánh hiến
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
WGPHT – Đào tạo ơn gọi linh mục và thánh hiến là một tiến trình mang tính năng động, tiệm tiến và sư phạm. Tiến trình này phải được thực hiện qua các giai đoạn giáo dục, huấn luyện và đồng hành. Giáo dục, huấn luyện và đồng hành là ba khái niệm nền tảng quan trọng của một tiến trình huấn luyện. Đào tạo phải có giai đoạn giáo dục và giai đoạn huấn luyện kết hợp với sự đồng hành. Để hiểu rõ về tiến trình năng động này, chúng ta tìm hiểu ba khái niệm nền tảng này.
- Giáo dục (Education)
Theo nguyên từ, giáo dục trong tiếng Latinh – educere – có nghĩa là dẫn ra, phân biệt ra, làm cho rõ. Theo nghĩa đó, giáo dục là “đào bới,” “lôi ra,” hoặc đưa ra sự thật con người của mình lên bình diện ý thức, sự thật mà ta ý thức hay không ý thức. Giáo dục là giúp một người nhận biết chính mình, ý thức về sự thật chính mình, khám phá những tiềm năng và nhược điểm, đồng thời giúp người thụ huấn phát huy các tiềm năng con người một cách tối đa và tự thể hiện mình một cách đầy đủ.
Giáo dục phải đụng chạm tới toàn bộ con người của người thụ huấn. Theo Tông huấn về Đời Sống Thánh Hiến, việc giáo dục “phải quan tâm đến toàn thể con người, tức là mọi khía cạnh trong nhân cách, hành vi và ý hướng của người thụ huấn.”[1]
Nếu một nền giáo dục chỉ nhấn mạnh hay chỉ tập trung vào việc huấn luyện các kỹ năng và cung cấp kiến thức, hoặc chỉ chú trọng giáo dục phần bên ngoài con người thụ huấn, thì nền giáo dục đó có nguy cơ bị giảm thiểu, thiếu tính toàn vẹn và không mang lại sự biến đổi bên trong con người của người thụ huấn. Công cuộc đào tạo linh mục – tu sỹ không phải là đào tạo các ‘công chức’ hay các ‘chuyên viên’ cho Giáo Hội, mà là đào tạo những “con người của Thiên Chúa và của Giáo Hội.”
Giáo dục phải là một quá trình giúp người thụ huấn biến đổi toàn bộ con người mình: Từ hành vi, thái độ, tình cảm, động lực thúc đẩy và cả chiều sâu thẳm của lòng họ. Theo tiến trình này, giáo dục là giúp người thụ huấn khám phá và nhận thức một cách chính xác các hành vi, cử chỉ, lời nói, sở thích, tập quán, thói quen, thái độ sống, lối phản ứng trước một hoàn cảnh, trước một sự kiện. Những hành vi và thái độ sống này có phù hợp với các giá trị và lý tưởng tu trì không?
Không dừng lại ở bên ngoài và hài lòng với những gì thay đổi ở bên ngoài, người thụ huấn phải được giáo dục từ bên trong là chính con tim của mình, nghĩa là họ được giúp đỡ để nhận biết tình cảm và cảm xúc sâu xa bên trong, kể cả những cảm xúc mà mình không ý thức. Giáo dục là giúp họ nhận ra trong họ những tình cảm “hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục” có phù hợp với đời tu không, từ đó giúp họ thay đổi, trưởng thành về tình cảm và cảm xúc của mình.
Sâu hơn nữa, người thụ huấn cũng phải được giáo dục cả về động lực thúc đẩy. Việc giáo dục không dừng ở chỗ hướng dẫn họ “làm gì” mà còn phải giáo dục họ nhận thức được “tại sao tôi làm,” “động lực nào thúc đẩy tôi hành động?” Từ việc nhận biết các động lực thúc đẩy, người thụ huấn nhận ra những khuynh hướng đang lèo lái đời sống của họ: Khuynh hướng quy ngã, quy xã hội, cá nhân chủ nghĩa, lập dị, thích tiền hay quyền lực, gây hấn, hay quá khích, ấu trĩ hay nhu nhược… và cả sự mơ hồ trong chọn lựa căn bản.
Việc giáo dục phải quan tâm đến tất cả những yếu tố làm nên “con người thật” của ứng sinh. Theo ngôn ngữ chuyên môn, các nhà tâm lý giáo dục gọi đây là “cái tôi hiện tại – actual self” của ứng sinh. Do đó, việc huấn luyện phải can thiệp trực tiếp vào cái tôi hiện tại của người thụ huấn. Giáo dục là lôi ra ánh sáng những gì không phù hợp, những gì là “ấu trĩ” và thiếu trưởng thành của người thụ huấn.
Quả thế, đây là một quá trình trở về với chính bản thân, nhận biết mình, khám phá bản thân, chấp nhận chính mình và thay đổi chính mình. Tiến trình này được thực hiện trong khó khăn, dài thăm thẳm, tiệm tiến và rất năng động. Theo nghĩa này, công cuộc đào tạo không phải là một cuộc dạo chơi trong công viên mà là một hành trình đầy gian khó đi về Giêrusalem như hành trình của Đức Giêsu. Và đây là logic mầu nhiệm thập giá xảy ra trong việc huấn luyện: Phải qua đau khổ để tới Phục Sinh vinh quang. Giáo dục phải đi qua kinh nghiệm của ngày Thứ Sáu để tới ngày Chúa Nhật phục sinh. Nếu ai muốn bước vào quá trình siêu việt chính mình và hoàn thiện bản thân, có nghĩa người đó phải chấp nhận bị tổn thương, gột rửa và lột xác con người của mình. Chấp nhận thay đổi cấu trúc con người, động lực, tình cảm, lối suy nghĩ và cách hành động của mình để có thể tới một giai đoạn khác mà ta gọi đó là giai đoạn huấn luyện.
- Huấn luyện (Formation)
Giáo dục mà thôi thì chưa đủ. Cần có huấn luyện. Trong tiếng Latinh động từ formare có một ý nghĩa đặc biệt: “Đưa ra một khuôn mẫu, tạo một hình thức.” Theo đó, việc huấn luyện là đưa ra một gương mẫu rõ ràng mà người thụ huấn được mời gọi phải hướng tới và cưu mang trong lòng. Đó là một thể thức hay một lối sống mới mà họ chưa có, nhưng họ phải đạt tới một cách tiệm tiến và đó cũng là yếu tố làm nên căn tính mới nơi họ. Theo nghĩa này, huấn luyện không chỉ là năng động tự thể hiện (self-realization), mà còn là năng động tự siêu việt (self-transcendence) theo một khuôn mẫu hoặc một lý tưởng. Huấn luyện không chỉ dừng lại ở việc biết mình hay chiêm ngắm bản thân, mà còn phải hướng tới việc khám phá và hình thành cái tôi lý tưởng (ideal self) mới mẻ và đích thật của mình.
Chính vì thế, trong các tài liệu về đào tạo linh mục và tu sỹ,[2] Giáo Hội chọn mô hình Chúa Con làm khung quy chiếu cho dự phóng huấn luyện. Theo đó, Đức Giêsu Kitô là khuôn mẫu lý tưởng mà người thụ huấn luôn được mời gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Người.[3]
Nói cách khác, việc huấn luyện là một tiến trình xây dựng nơi người thụ huấn con người mới trong Đức Kitô, hình thành nơi họ cách sống mới, thái độ mới, lối suy nghĩ mới, tâm tình và ước muốn của chính Đức Kitô. Vì thế, việc huấn luyện không được hiểu như là một sự bắt chước bên ngoài, nhưng là sự trở nên giống từ bên trong, là “mặc lấy những tâm tình của Chúa Kitô như Người đã biểu lộ với Chúa Cha.”[4]
Nếu nói quá trình giáo dục là chết đi con người cũ, thì quá trình huấn luyện là phục sinh con người mới trong Đức Kitô. Nếu trong cuộc đời Đức Giêsu, Mầu Nhiệm Tử Nạn gắn liền với Mầu Nhiệm Phục Sinh, thì trong quá trình huấn luyện đau khổ và vinh quang cũng rất gắn bó với nhau. Phải chấp nhận thay đổi, tự hủy, chết đi thì mới phục sinh con người mới, con người nhân đức và thần khí.
Việc huấn luyện chỉ có hiệu quả thực sự khi có sự biến đổi nơi ứng sinh. Việc huấn luyện giúp ứng sinh nhận ra căn tính của mình nơi Chúa Kitô. Chân – thiện – mỹ của giá trị dần dần trở thành chân – thiện – mỹ của chủ thể. Tâm tình của Chúa Kitô ngày càng trở nên tâm tình của người thụ huấn. Huấn luyện là để cho Thiên Chúa uốn nắn thái độ, lời nói, ý nghĩ và ước muốn của mình mỗi ngày nên giống Chúa Kitô.
Chính việc huấn luyện này tác động trên trái tim, để họ say mê Thiên Chúa; tác động trên trí tuệ, để họ có thể chiêm ngắm và tìm kiếm Thiên Chúa và tác động trên ý chí, để họ biết khát khao như Thiên Chúa khao khát.
III. Đồng hành (accompagnement)
Từ thời Trung Cổ, hạn từ đồng hành trong tiếng Latinh là cum-panio, có nghĩa là “chung một tấm bánh.” Tự bản chất, đồng hành có nghĩa là chia sẻ. Vì thế, việc đồng hành với người thụ huấn muốn sống đời sống tu trì không chỉ là hướng dẫn họ trong đời sống tâm linh, dạy dỗ, hay thiết lập tương quan một chiều với họ, nhưng là cùng nhau thực hiện hay cử hành và chia sẻ kinh nghiệm đức tin. Đồng hành không chỉ có nghĩa là đi bên cạnh người khác trên một quãng đường nhất định, mà là cùng nhau bước đi trên đường, cùng nhau chia sẻ “của ăn đàng” là đức tin, kinh nghiệm về Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thánh Thần.
Theo nghĩa đó, toàn thể tiến trình huấn luyện không chỉ là truyền đạt hay chỉ cho biết con đường phải đi, mà là một kinh nghiệm dấn thân và “tuyên xưng” đức tin của nhà huấn luyện với người thụ huấn.
Lối đồng hành này là hình thức mà Chúa Giêsu đã thực hiện trên đường Emmaus và là hình tượng của mọi việc đồng hành trong đức tin. Chúa Giêsu gặp gỡ, cùng bước đi với họ, trò chuyện với họ, nói cho họ nghe những chuyện xảy ra và giải thích cho họ hiểu các sự kiện dưới ánh sáng Lời Chúa. Rồi sau đó, cùng với họ Người “bẻ bánh,” họ nhận ra Người, lòng họ bừng lên, mắt họ sáng ra và liền quay trở về Giêrusalem để loan báo cho mọi người biết Chúa đã sống lại (Cf. Lc 24, 13-35).
Người đồng hành không phải là người quyết định ơn gọi của người thụ huấn, cũng không phải là người nắm giữ mọi “bí mật” về tương lai của ứng sinh. Người đồng hành đóng vai trò của Gioan Tẩy Giả, người đưa môn đệ mình tới gặp Chúa, giới thiệu họ với Chúa, rồi từ từ rút vào bóng tối, để “Người lớn lên, còn tôi nhỏ lại” (Ga, 3,30).
Tuy nhiên, việc đồng hành tiên vàn là phương thức hành động của Chúa Thánh Thần, “vị khách dễ thương của linh hồn,” người bạn đường thần linh của chúng ta và là nhà điêu khắc nội tâm, Đấng uốn nắn khuôn mặt mỗi người theo hình ảnh Chúa Kitô một cách vô cùng sáng tạo.
Do đó, điều cơ bản là người thụ huấn phải cảm nhận Chúa Thánh Thần như là bạn trung tín của mình, như là Đấng sẽ giúp họ am hiểu toàn vẹn và sự khôn ngoan của trái tim, như một người dẫn đường đăm đăm nhìn về Chúa Giêsu và những kẻ được kêu gọi, để làm cho họ trở thành chứng nhân của Chúa Giêsu.
Một khi người thụ huấn nhận biết và cảm nghiệm Chúa Thánh Thần như là “bạn đường,” họ sẵn sàng đón nhận những người đồng hành mà không đòi hỏi người đồng hành phải hoàn hảo; họ dễ dàng đón nhận những phương tiện, điều kiện và cả những giới hạn nhân loại của người đồng hành. Hễ ai tin cậy Chúa Thánh Thần thì cũng tin cậy những trung gian của Người. Hễ ai biết phó mình trong tay Chúa Thánh Thần thì không lo sợ khi chia sẻ lịch sử đời mình với người đồng hành trong sự cởi mở, tin tưởng và phó thác.
Kết luận
Theo đường hướng mà chúng ta vừa suy nghĩ, nếu giáo dục có nghĩa là đào bới sự thật của chủ thể, huấn luyện là hình thành con người mới của chủ thể, thì đồng hành là quy tụ của chủ thể. Người thụ huấn được mời gọi hướng tất cả cơ cấu nội tâm, con tim, lý trí và ý chí lại với nhau để đáp lại tiếng gọi của Chúa Thánh Thần. Có thể ví quá trình huấn luyện bằng một hình ảnh bình dị hơn của nhà nông làm ruộng, thì giáo dục được ví như là vun xới đất đai, huấn luyện là gieo hạt giống tốt vào lòng đất, còn đồng hành là sự chăm sóc, vun tưới, bón phân cho cây lớn lên, trổ bông và kết trái.
Tài liệu tham khảo
- A. Cencini, I Sentimenti del Figlio. Il cammino formativo nella vocazione presbiterale e consolata, EDH, Bologna 2005.
2. Pontificia Opera per le Vocazioni Ecclesiastiche, Nuove vocazione per una nuova Europa. Documento finale del Congresso sulle Vocazioni al Sacerdozio e alla vita Consecrata in Europa, Roma 5-10 Maggio 1997.
3. Giovanni Paolo II, Apostolic Esortazione Apostolica Vita ConsecrataMarch 25, 1996.
4. Giovanni Paolo II, Apostolic Esortazione Apostolica Pastores dabo vobis, December 25, 1992.
[1] Vita consecrata, 65
[2] Vita consecrata, op. cit.
[3] Pastores dabo vobis, số 3 tt.
[4] Vita consecrata, op. cit.
2020
Làm gì khi tình yêu tan vỡ?
Làm gì khi tình yêu tan vỡ?
Nếu được hỏi “cái gì là tuyệt vời nhất trên đời này”, có lẽ ta sẽ trả lời rằng đó là “tình yêu”. Tình yêu là một huyền nhiệm vô cùng cao sâu đến chẳng ai có thể giải thích được ngọn nguồn về nó. Có người còn cho rằng tình yêu không phải là cái được đem ra để phân tích, nhưng chỉ nên được cảm nghiệm mà thôi.
Khi đã yêu, lý trí nhường chỗ cho trái tim vì lý lẽ của lý trí không thắng được lý lẽ của con tim vào thời điểm ấy. Một tình yêu chân thật thì có đủ sức làm biến đổi một con người, có thể làm người ấy từ xấu thành đẹp, từ hung dữ nên hiền lành, từ yếu đuối nên mạnh mẽ. Tình yêu chính là chiếc cầu đưa người ta từ trái đất lên thiên cung, là ngọn đèn xóa tan cái màn đêm cô đơn buồn tủi, là nắng ấm dọi vào những giá lạnh thê lương. Chẳng có loài nào không thích mình được yêu. Chẳng có ai không muốn cho tình yêu của mình được trọn vẹn. Nhưng, lỡ như tình yêu ấy không thành, thì sao?
Ta gọi đó là “con tim tan vỡ”. Có một nỗi đau nào đấy cứ nhói nhói ở lồng ngực, nơi con tim nhỏ bé của ta cư ngụ. Ta nghe như có mũi tên xuyên qua, làm con tim ấy muốn vỡ ra nhiều mảnh. Một nỗi đau làm ảnh hưởng đến có toàn bộ con người. Một khi con tim bị một tình yêu không thành làm tổn thương, mọi thứ trong cuộc sống như đảo lộn. Ta chẳng có đủ sự tỉnh táo để làm việc, chẳng có chẳng có tâm trí để học tập hay nghỉ ngơi, chẳng có, hay thậm chí chẳng còn thấy ý nghĩa của cuộc sống. Có vẻ như động cơ để người ta sống là kiếm tìm một tình yêu, nên khi tình yêu không còn nữa, người ta cũng muốn mình chết đi, tiêu tan đi, không còn hiện diện nữa. Cánh hoa không còn đẹp nữa, khung trời xanh cũng trở nên u ám sầu buồn, thức ăn ngon cũng trở nên nhạt nhẽo vô vị, giọt cà phê hay khói thuốc lá chất chứa đầy những mối tâm tư. Thất bại trong tình yêu, chia cắt trong tình yêu, đích thực để lại trong ta một nỗi mất mát và trống trơn đau đớn khôn cùng. Vào giây phút này, điều duy nhất mà ta cảm thấy chỉ là một nỗi buồn. Nhưng liệu đó có là cái kết cho cuộc sống của ta?
Khi yêu, ta luôn mong tình yêu của mình được đi đến sự trọn vẹn. Nhưng mong ước là một chuyện, thực tế có đáp ứng mong ước ấy của ta hay không lại là chuyện khác. Tự cổ chí kim, đã có không ít những mối tình đẹp như mơ, vậy mà có được cái kết tốt đẹp đâu! Người ta đổ lỗi cho ông Trời đã nhẫn tâm chia cắt đôi lứa, trách ông đã tạo nên những nghịch cảnh khiến hai người không thể mãi chung đôi, đã nỡ cắt đi sợi chỉ uyên ương đang từ từ kết nối. Ông Trời vẫn cứ im lặng, không nói gì, để mặc cho người ta tha hồ oán hờn trách móc. Biết đâu tình yêu của ta là một tình yêu lệch đường, đi vào vùng cấm nào đó. Biết đâu tình yêu của ta không được xã hội chấp nhận. Biết đâu tình yêu của ta đi ngược lại với thuần phong mỹ tục… Tình yêu thì không có lỗi. Yêu một người thì không phải là tội, vì yêu là cứ yêu thôi, đâu ai có thể bắt mình yêu hay không yêu một người nào đó được. Yêu là tiếng nói của con tim, chứ không phải của lý trí. Thế nhưng, con người chúng ta không phải là hòn đảo đơn độc giữa đại dương nhân thế này. Ta có mối tương quan chằng chịt với những con người khác. Nếu tình yêu của chúng ta không đi vào con đường chung, ta không còn cách nào khác, ngoài việc chịu đau, cắt đứt đi tình yêu ấy. Thà có một cái kết đau, còn hơn là đau hoài mà không bao giờ kết.
Nếu ta phải chia ly vì hai người chọn hai con đường khác nhau thì việc ta nhớ đến lý do mình chia tay sẽ là một trợ lực rất nhiều giúp ta vượt qua được nỗi đau này. Chia tay là cách tốt nhất để hai người giải thoát cho nhau. Chia tay để trả lại cho mỗi người vùng trời riêng của mình. Chia tay vì hướng đến điều tốt đẹp của cả hai. Nỗi đau sẽ từ từ được hàn gắn nhờ niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp sẽ dành cho cả hai.
Nếu hai người vẫn còn yêu nhau tha thiết, không thể sống cuộc sống này mà thiếu nhau và tình yêu ấy chẳng gặp ngăn trở gì nhưng chỉ vì những giận hờn, trách cứ vu vơ mà “trái tim tan vỡ” thì hãy chữa lành nó bằng cách chạy thật nhanh đến bên người mình yêu, nói thật nhiều lời ngọt ngào, ôm người ấy thật chặt và quyết tâm giữ người ấy đến cùng. Tình yêu cũng hệt như chiếc bình pha lê. Đẹp đấy, nhưng dễ vỡ vô cùng. Nó cần được nâng niu và chiều chuộng, cần được trân quý và yêu thương. Khi đã yêu, hãy gạt bỏ hết cái tôi, hãy luôn tỏ ra mình có lý. Một chút mềm và một chút nhẹ mới giúp giữ trọn vẹn tình yêu.
Nói chuyện lý lẽ với một người đang thất tình dường như là một điều vô ích. Khi ta thất tình, chung quanh họ chỉ còn một nỗi u buồn mà thôi. Tuy nhiên, dù nỗi đau có thể làm chúng ta suy sụp, nó không thể và không nên là cái cắt đứt hết mọi nguồn lực và lý tưởng của ta. Nếu Trời đã không muốn tình yêu của ta nên trọn là vì Ngài muốn dành cho ta một tình yêu khác trọn vẹn hơn. Nếu Trời muốn chúng ta chia ly, chắc là vì Ngài muốn dẫn chúng ta đến một cuộc hội ngộ khác sâu sắc hơn. Hãy cố gắng vượt qua nỗi buồn phiền vì còn có biết bao người đang cần đến ta, và bao nhiêu việc khác đang chờ ta hoàn tất. Tình yêu nam nữ đâu phải là cái duy nhất ta có trên đời. Ta còn có cha mẹ, anh chị em, bạn bè với bao nhiêu tình thương và trách nhiệm khác. Nếu vì chuyện tình yêu của riêng mình mà ta lãnh quên bổn phận với họ, ta thật là người ích kỷ. Nếu chỉ vì một tình yêu không có đoạn kết mà ta cứ buồn phiền, thất vọng, lơ là đạo nghĩa và đánh mất tương lai, ta thật là con người yếu đuối và vô dụng quá chừng.
Để không phải dẫn đến một cái kết đau, có đôi khi ta cần phải tỉnh thức và cảnh giác thật nhiều trước khi đi sâu vào một tương quan nào đấy. Đừng để cảm xúc và những thú vui mau qua che mờ đôi mắt. Đừng để cái tôi cao ngạo làm hại bản thân. Hãy biết làm chủ mình trước những lời mời mọc và ngọt ngào của cám dỗ. Nếu nhận thấy mình và người ấy không có một tương lai tốt đẹp, đừng dấn thân vào quá sâu, để rồi tự mình làm hại mình, tự mình chuốc họa vào thân.
Khi tình yêu tan vỡ, đó là khi con tim của ta tan vỡ, khi mà mọi kỳ vọng và ảo tưởng của ta không còn. Nhưng đó cũng là lúc ta học cách đứng lên, dùng nghị lực để chữa lành con tim mình. Và cùng với một niềm hy vọng vào tương lai, ta tập đứng lên để làm lại cuộc đời, đi tìm một tình yêu mới mà Tạo Hóa dành sẵn cho ta.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
2020
Nghệ thuật giáo dục con cái
Giáo dục là nghệ thuật dẫn đưa và thúc đẩy tiềm năng của cá nhân. Người làm công tác giáo dục tương tự công việc của một người hộ sinh, nghĩa là giúp trẻ sinh ra và có cuộc sống tự lập. Vì là một nghệ thuật, thế nên giáo dục không giống kiểu công thức có sẵn như mì ăn liền và có giá trị cho mọi trường hợp được.
Trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục con cái là hướng dẫn từng bước để chúng sống tự lập. Cha mẹ không chỉ dạy dỗ, hướng dẫn, đồng hành với con cái, mà còn phải giúp chúng biết chịu trách nhiệm về những nhu cầu cá nhân và biết tự giáo dục.
- Vai trò của các mô hình giáo dục tính tự lập
Cách thức giáo dục con cái –có thể tạo thuận lợi hoặc cản trở sự tự lập – sẽ đưa đến những kết quả khác nhau trong tiến trình phát triển và hạnh phúc của chúng.
Có rất nhiều cách để mô tả hành vi của cha mẹ đối với con cái. Ở đây chúng ta nói đến hai khía cạnh quan trọng trong cách hành xử của cha mẹ:
– Những đòi hỏi của cha mẹ (demandingness): đó là những điều mà cha mẹ yêu cầu con cái phải cư xử đúng mực và sống có trách nhiệm tương ứng với lứa tuổi của chúng, những quy tắc chính đáng phải tuân thủ trong đời sống hằng ngày về các sinh hoạt, giờ giấc, ăn uống, ngủ nghỉ, học tập, sống đạo.
– Những đáp ứng của cha mẹ (responsiveness): đó là những hỗ trợ, nâng đỡ về mặt tinh thần lẫn vật chất của cha mẹ trước những đòi hỏi chính đáng của con cái.
Từ hai khía cạnh trên trong cách giáo dục của cha mẹ, chúng ta có bốn mô hình giáo dục sau:
- Uy tín: cả hai khía cạnh đều ở mức cao
Cha mẹ có uy tín vừa đầy tình thương nhưng cũng rất cương nghị. Họ xác định những chuẩn mực tương xứng với lứa tuổi của con cái và buộc chúng phải nghiêm túc tuân thủ. Họ giúp con cái phát triển sự tự lập và tự quyết nhưng họ vẫn đảm đương trách nhiệm cuối cùng về hành vi của con cái. Cha mẹ cùng giải quyết với con cái những khó khăn, trao đổi và giải thích cho chúng những vấn đề liên quan đến kỷ luật. Cha mẹ thiết lập những kỷ cương cần tuân thủ, nhưng không phải là những luật lệ cứng ngắc, mà phải uyển chuyển và hướng đến việc thảo luận, đối thoại cách cởi mở và chân thành. Ngoài ra, các quy tắc phải được giải thích và thực thi trong bầu không khí của sự gắn kết, yêu thương và công bằng. Tình thân gia đình, sự nâng đỡ, khích lệ về tinh thần lẫn việc chu cấp những đòi hỏi thiết yếu và chính đáng của con cái sẽ giúp chúng biết tự chủ và sống có trách nhiệm.
- Độc đoán: cha mẹ đòi hỏi con cái nhiều (khía cạnh thứ nhất ở mức cao), nhưng lại không quan tâm và đáp ứng đúng mức những nhu cầu chính đáng của chúng (khía cạnh thứ hai ở mức thấp).
Cha mẹ độc đoán thường chỉ đưa ra mệnh lệnh và kỷ luật phải tuân thủ. Họ không thích trao đổi, thảo luận bởi vì họ cho rằng con cái cần chấp nhận vô điều kiện các chuẩn mực bất biến của họ. Những bậc cha mẹ theo phương cách giáo dục này không khuyến khích mà lại giới hạn tính tự lập của con cái. Trong các gia đình độc tài, nơi mà các quy tắc được thực thi một cách cứng nhắc, và rất hiếm khi có sự giải thích hay điều chỉnh, dễ xảy ra những khó khăn, nhất là trong giai đoạn con cái đến tuổi vị thành niên. Cha mẹ độc đoán nghĩ rằng việc con cái không lệ thuộc vào họ là dấu hiệu sự nổi loạn và thiếu tôn trọng người lớn, và họ sẽ tìm cách ngăn cản tính độc lập của chúng. Thay vì khuyến khích sự tự lập, cha mẹ độc tài vô tình có thể giữ sự phụ thuộc của con, không cho phép chúng học cách tự đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm về việc mình làm. Trong trường hợp con cái ở ngoài tầm kiểm soát của cha mẹ kèm với việc thiếu tình thương của cha mẹ, trẻ ở tuổi vị thành niên có thể công khai nổi loạn chống lại cha mẹ hòng khẳng định sự độc lập của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, các cuộc nổi loạn không phải là dấu hiệu của sự độc lập thực sự về mặt tình cảm, mà chỉ là một cuộc dấu chỉ cho thấy sự thất vọng của tuổi vị thành niên trước sự cứng nhắc quá mức và thiếu hiểu biết của cha mẹ.
- Nhu nhược và nuông chiều: ngược với mô hình thứ hai, nghĩa là cha mẹ ít đưa ra những đòi hỏi (khía cạnh thứ nhất ở mức thấp), nhưng bày tỏ tình thương và sự nuông chiều thái quá (khía cạnh thứ hai ở mức cao)
Cha mẹ theo mô hình này biểu lộ sự nhân nhượng và thụ động đối với vấn đề kỷ luật. Họ chỉ đòi hỏi con cái vài thứ lặt vặt và cho chúng tự do hành động như chúng muốn. Họ nghĩ rằng sự kiểm soát là một trở ngại cho việc tự do hành động, và như thế sẽ cản trở sự phát triển lành mạnh của con cái nói chung. Thay vì lưu tâm đến hành vi của con cái, họ lại xem mình như nguồn tài nguyên mà con cái có thể khai thác tùy thích.
- Dửng dưng: cả hai khía cạnh đều ở mức thấp
Cha mẹ thờ ơ với bổn phận nhằm giảm bớt thời gian và công sức cho những tương tác với con cái; trong những trường hợp cực đoan, họ bỏ bê chúng. Cha mẹ biết rất ít về đời sống và các hoạt động của con mình, ít quan tâm đến những trải nghiệm của chúng ở trường và với bạn bè, ít khi nói chuyện với chúng và hiếm khi để tâm đến các quan điểm của chúng khi chúng phải quyết định điều gì đó. Những bậc cha mẹ theo mô hình này thường quy hướng mọi sự về mình, và tổ chức gia đình trước hết chỉ cho nhu cầu và lợi ích bản thân.
Trong những gia đình theo mô hình thứ ba và thứ tư nảy sinh những vấn đề khác biệt so với các gia đình độc tài (mô hình thứ hai). Mô hình ba và bốn cho thấy cha mẹ không hướng dẫn đúng mức con cái khiến chúng không có được những chuẩn mực cho hành vi.
Bốn mô hình giáo dục nêu trên đưa đến các kết quả khác nhau về sự phát triển tâm lý của trẻ. Con cái có bố mẹ theo mô hình uy tín dễ thích ứng về mặt tâm lý xã hội, sống có trách nhiệm, tự tin, thích nghi, sáng tạo, ham thích học hỏi, có kỹ năng xã hội tốt hơn và thành công hơn ở trường học so với các bạn đồng trang lứa mà được giáo dục theo các mô hình khác. Ngoài ra các trẻ này thường cảm thấy hạnh phúc, có đời sống tâm lý ổn định, và chúng cảm thấy hài lòng với những mối quan hệ trong gia đình.
Trẻ có cha mẹ độc đoán thường sống phụ thuộc, thụ động, ít thích ứng về mặt xã hội, kém tự tin và ít ham thích học hỏi.
Còn các em có bố mẹ nuông chiều thì kém trưởng thành, sống thiếu trách nhiệm, thích sống tuân thủ hơn là giữ các vị trí lãnh đạo.
Con cái của cha mẹ dửng dưng thường bốc đồng và nhiều khả năng sau này chúng sẽ tham gia vào các hành vi nguy cơ (tình dục bừa bãi, rượu chè, ma túy, phạm pháp).
- Tại sao mô hình uy tín có tính ưu việt?
Trước hết, mô hình này mang lại cho trẻ một sự cân bằng tối ưu giữa kiểm soát và được phép, mang lại cho chúng tính độc lập, cung cấp cho chúng cơ hội để phát triển khả năng tự quyết và đồng thời cung cấp các tiêu chuẩn, giới hạn rạch ròi và những hướng dẫn khi chúng cần đến. Chúng có được sự tự lập theo kiểu tiệm tiến, và điều này giúp chúng tự tin và tự quyết. Mô hình này cũng thúc đẩy sự phát triển các kỹ năng và tăng cường khả năng đề kháng những ảnh hưởng tiêu cực, bao gồm những căng thẳng và những ảnh hưởng xấu của bạn bè.
Kế đến, các bậc cha mẹ theo mô hình này đối thoại nhiều với con cái, thế nên chúng phát triển tốt về mặt trí tuệ là cơ sở của sự trưởng thành về tâm lý xã hội. Các cuộc thảo luận trong gia đình, việc giải thích các quyết định, quy tắc và kỳ vọng từ phía người lớn giúp trẻ hiểu được hệ thống xã hội và quan hệ xã hội.
Thứ ba, vì mô hình uy tín dựa trên mối quan hệ yêu thương, cho nên con cái sẽ gắn bó với cha mẹ và lưu tâm đến những bận tâm của cha mẹ. Điều này tạo điều kiện cho những ảnh hưởng tốt của cha mẹ trên con cái về những giá trị cũng như cách ứng xử.
Cha mẹ uy tín có trách nhiệm đối với con cái, biết cách hướng dẫn và đồng hành với chúng. Họ rất nhạy cảm với nhu cầu của con cái, nhưng họ cũng tính đến khả năng của họ trong việc giải quyết những nhu cầu chính đáng của con cái. Họ khuyến khích con cái trao đổi về những đòi hỏi của chúng. Họ thảo luận với chúng về những lối hành xử trong những tình huống khác nhau. Họ cũng đánh giá cao và khuyến khích sự phát triển của một ý chí tự chủ của con cái, đưa ra những quy tắc về trách nhiệm tương xứng với từng lứa tuổi, và hướng chúng đến việc tự rèn luyện kỷ luật bản thân.
Tóm lại, trong lãnh vực giáo dục nói chung, mô hình uy tín thích hợp hơn các mô hình khác. Mô hình này giúp con cái và người thụ huấn nói chung phát triển tư duy phê phán, sự tự tin, tự chủ, và cảm thấy hạnh phúc. Mô hình này cho phép người ta có được cách hành xử trưởng thành và đúng mực trong những tình huống khác nhau của cuộc sống.
Lm. Giuse Đặng Chí Lĩnh
SÁCH THAM KHẢO
CICOGNANI E. – B. ZANI, Genitori e adolescenti, Roma, Carocci, 2003.
MAIOLO G., L’occhio del genitore. L’attenzione ai bisogni psicologici dei figli, Trento, Erickson, 2000.
MAIOLO G., Adolescenze spinose. Come comunicare senza fare (e farsi) del male, Trento, Erickson, 2002.
PALMONARI A., Gli adolescenti, Bologna, il Mulino, 2001.
RENAUD H. – J. P. GAGNÉ, Essere genitore. Avviamento alla professione, Milano, San Paolo, 2003.
2020
Một chia sẻ về đồng hành thiêng liêng với giới trẻ
- TRÊN ĐƯỜNG VỀ EMMAUS (Lc 24,13-35)
Con đường từ Giêrusalem về Emmaus dài khoảng 11 cây số. Hai môn đệ của Chúa Giêsu đang trên đường về nhà của họ. Vì cái chết đau đớn và nhục nhã của Thầy trên thập giá, họ mất niềm tin, mất hy vọng, trái tim họ trở nên nguội lạnh. Qua trình thuật của Luca, chúng ta có thể học nơi Đức Giêsu cách đến với tha nhân, đồng hành với họ, để loan báo Tin Mừng cho họ.
- Chúa Giêsu đến đúng lúc và trở thành bạn đồng hành (c. 15)
Ngài đến đúng lúc, không sớm hơn, không muộn hơn. Đến đúng lúc họ đang bỏ cuộc, quay quắt, ray rứt về chuyện đã qua. Đến đúng lúc là điều quan trọng, vì sớm quá thì chưa chín, muộn quá thì chuyện đã hỏng. Ngài “tiến đến gần và cùng đi với họ.” Để nâng đỡ một người, cần khiêm tốn đi chung với họ, trở nên bạn của họ. Đến gần và đi chung để gây thiện cảm, để không làm họ sợ. Để đồng hành, cần điều chỉnh tốc độ: đi nhanh với người đi nhanh, đi chậm với người đi chậm.
- Chúa Giêsu gợi chuyện (cc. 17-19)
Ngài không cắt đứt, nhưng muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của hai người: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Đức Giêsu giả vờ không biết khi Ngài hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (c. 17). Ngài là người đi bước trước, mở lời trước. Nỗi buồn có thể làm người ta khép lại, vậy đừng chờ họ đến với mình. Đức Giêsu nhận được một câu trả lời lạnh nhạt, có chút mỉa mai: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Nhưng Ngài không vội nản lòng, và khiêm tốn tiếp tục gợi chuyện: “Chuyện gì vậy?” (c.19). Ngài làm như không biết để hai ông có cơ hội bày tỏ nỗi đau của mình.
- Chúa Giêsu lắng nghe (cc. 19-24)
Ngài lắng nghe nỗi đau của hai ông. Thầy Giêsu của họ là một ngôn sứ đầy uy quyền của Thiên Chúa, vậy mà Thầy lại bị đóng đinh như một người bị Thiên Chúa nguyền rủa. Đây là điều các ông không thể nào hiểu nổi, khiến các ông rơi vào thất vọng: “Trước đây chúng tôi vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu chuộc Ítraen”(c. 21). Hai ông còn kể chuyện các phụ nữ trong nhóm của họ ra thăm mộ. Nhưng xem ra họ không tin vào những điều các bà này nói (cc. 22- 23). Mất hy vọng vào Thiên Chúa, mất niềm tin vào con người. Hai môn đệ đã bày tỏ nỗi lòng cho một người ngoài cuộc, một người lạ tình cờ gặp trên đường.
Thầy Giêsu không ngắt lời họ. Ngài thinh lặng lắng nghe để họ cởi mở nói cho hết. Cởi mở là bước cần thiết để họ lấy lại niềm tin và hy vọng.
- Chúa Giêsu giải thích, soi sáng bằng Kinh Thánh (cc. 25-27)
Sau khi đã lắng nghe, “bấy giờ” Đức Giêsu mới vén mở cho hai ông thấy ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ mà Thầy các ông phải chịu. Nhờ lắng nghe hai ông tâm sự, Đức Giêsu biết được đâu là mấu chốt của vấn đề, đâu là nút thắt cần phải gỡ. Và Ngài đã trả lời vào chính vấn đề hiện nay của họ. Họ bị sốc trước cuộc Thương Khó của Thầy mình, nên Ngài cho họ thấy đau khổ là nhịp cầu Đức Kitô phải đi qua để vào vinh quang (c. 28). Đây không phải là một tai họa do con người hay do Thiên Chúa chúc dữ. Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh để giúp các ông hiểu rằng con đường Thầy các ông đi nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Sau này, các ông nhớ lại giây phút ấy: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và cắt nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta, trái tim chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (c. 32). Như thế, Đức Giêsu chẳng những soi sáng cho trí tuệ để hiểu, Ngài còn làm ấm lại trái tim đã ra nguội lạnh của hai người. Tình yêu đã trở lại.
- Chúa Giêsu đồng bàn với hai môn đệ (cc. 28-31)
Đức Giêsu giả vờ muốn đi xa hơn để họ có tự do mời Ngài. Thật vậy, họ đã bắt đầu thấy thích người khách lạ này nên nài ép Ngài ở lại với họ, và mời Ngài dùng bữa. Chính lúc Ngài bẻ bánh, thì mắt họ nhận ra Ngài. Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmaus cũng là kinh nghiệm của chúng ta. Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì thật ra Ngài đang ở bên. Lúc ta nhận ra Ngài ở bên, thì Ngài lại biến mất. Nhưng chính lúc Ngài biến mất, ta lại thấy Ngài ở gần bên. Ngài đến lúc ta không ngờ. Ngài đi mà ta không giữ lại được. Ngài ở lại với ta, ngay cả khi ta không thấy Ngài nữa. Cuối cùng, hai môn đệ đã lấy lại được niềm tin, yêu, và hy vọng đã mất.
Khi suy niệm đoạn Tin Mừng nổi tiếng trên đây, chúng ta đã thấy đôi nét của công việc Đồng Hành Thiêng Liêng, đặc biệt với giới trẻ. Chúa Giêsu phục sinh đã đồng hành, cùng đi với hai môn đệ theo nghĩa đen, trên con đường từ Giêrusalem về Emmaus. Đây đúng là một đồng hành thiêng liêng, vì vấn đề được trao đổi có tính thiêng liêng. Hầu chắc hai môn đệ cũng là người trẻ. Chúa Giêsu là mẫu mực cho những nhà đồng hành. Các vị đồng hành có thể học tập được nhiều điều nơi Ngài. Tập đến với tha nhân và cùng đi với họ như một người bạn, tập gợi chuyện cho họ nói, tập lắng nghe, tập soi sáng vấn đề bằng Lời Chúa, và cùng chia sẻ bữa ăn với họ.
Hôm nay vẫn có nhiều bạn trẻ đang lê gót về Emmaus. Họ đang buồn và đang cần những người đồng hành.
- ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG LÀ GÌ?
Đồng hành thiêng liêng (spiritual accompaniment) là một lối nói mới thay cho lối nói được dùng trước đây: linh hướng (spiritual direction). Lối nói mới này cũng phản ánh một cái nhìn mới. Khi nói đến linh hướng, người ta dễ nghĩ đến chuyện một vị linh hướng hướng dẫn một người thụ hướng trong đàng thiêng liêng. Khi linh hướng, vị linh hướng thường được coi là người “thay mặt Thiên Chúa dẫn dắt một tập thể hay cá nhân ngang qua sự chỉ đạo một chiều, mà ít để ý đến tác động của Thánh Thần nơi tâm hồn người thụ hướng hay khả năng của người ấy trực tiếp mở ra với Thánh Thần”[1] Còn trong đồng hành thiêng liêng, vị đồng hành cũng giúp đỡ một người khác, nhưng là giúp người đó nhận ra hoạt động của Thiên Chúa trong đời người ấy. Như thế có thể nói, vai trò của vị đồng hành thu hẹp hơn vì có nhân vật thứ ba hiện diện, đó là Chúa Thánh Thần. Đây mới là nhân vật chính. Đây mới là “Thầy dạy đích thực và tối thượng” mà cả vị đồng hành lẫn người được đồng hành đều phải lắng nghe và vâng phục trên con đường cùng nhau tìm kiếm Ý Thiên Chúa[2]. Đời con người là một cuộc hành trình dài, Thiên Chúa vẫn ngỏ lời với từng người cách riêng tư kín đáo trong mọi thời điểm và biến cố. Người đồng hành giúp tôi nhận ra và đáp lại tiếng Chúa nói riêng với lòng tôi, cũng như giúp tôi thực thi những đòi hỏi của Chúa.
III. HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG
Trong Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng (2013), Đức Thánh Cha Phanxicô viết về đồng hành như sau: “Trong thế giới chúng ta, các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể làm cho hương thơm của một Đức Kitô gần gũi và cái nhìn thân mật của Ngài trở nên hiện thực. Hội Thánh sẽ phải khai tâm mọi người – linh mục, tu sĩ và giáo dân – trong “nghệ thuật đồng hành” này. Nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác” (169).
Như thế theo Đức Thánh Cha, vị đồng hành thiêng liêng là những mục tử có chức thánh và những người làm công tác mục vụ, các tu sĩ và giáo dân. Theo ngài, nét đầu tiên và quan trọng của vị đồng hành thiêng liêng là sự gần gũi của người đó với Đức Kitô. Vì nếu không gần gũi với Đức Kitô thì vị đồng hành cũng không thể làm người khác gần gũi với Đức Kitô được. Vị ấy phải gần đến mức hương thơm của Đức Kitô thấm vào mình và hồn nhiên tỏa hương thơm ấy đến nỗi người được đồng hành cũng cảm được. Vị đồng hành phải có kinh nghiệm bắt gặp được cái nhìn thân mật của Đức Kitô trong cầu nguyện, rồi được ghi dấu sâu đậm và được biến đổi bởi cái nhìn ấy, để rồi qua cái nhìn của vị đồng hành, người khác bắt gặp được cái nhìn thân mật của chính Đức Kitô.
Tuy nhiên, có một đời sống thân thiết và thiết thân với Đức Kitô cũng chưa đủ. Đức Thánh Cha còn coi đồng hành là một nghệ thuật cần được trau dồi, tập luyện, “nghệ thuật đồng hành.” Vị đồng hành cần có hiểu biết về tâm lý đầy đủ để nắm được tiến trình phát triển và trưởng thành của người trẻ. Lắm khi vị đồng hành cũng phải nhìn nhận giới hạn của mình trước một trường hợp khá nghiêm trọng, để giới thiệu người bạn trẻ đó cho một vị khác có chuyên môn hơn về tâm lý trị liệu. Ngay cả vị đồng hành cũng cần được đồng hành và được linh hướng. Vị đồng hành nào mà không ý thức được Thánh Thần đang làm việc trong đời mình, thì cũng chẳng có khả năng giúp các bạn trẻ nhận ra hoạt động của Thánh Thần trong đời họ. “Không phải cứ linh mục hay tu sĩ là có thể đồng hành hay linh hướng một cách phù hợp được. Ai muốn làm đồng hành hay linh hướng, cần được huấn luyện chuyên nghiệp và đào luyện liên tục.”[3] Vị đồng hành cần biết mình, biết khả năng và giới hạn của mình, nhờ đó dễ giúp bạn trẻ tiến bước trên hành trình đức tin của họ.
- ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG KHI NÀO?
Khi nghĩ đến linh hướng, người ta thường nghĩ đến chuyện vị linh hướng ngồi với người thụ hướng, trong một chiếc phòng ấm cúng, đôi khi có một ngọn nến cháy lung linh trên bàn. Đồng hành thiêng liêng với người trẻ không nhất thiết phải theo hình thức đó. Đức Giêsu đã đồng hành trong thực tế với hai môn đệ Emmaus, khi đi chung với họ mấy cây số. Thánh Luca nhấn mạnh chuyện Ngài gặp họ “dọc đường” (Lc 24,32.35). Trong hình thức đơn sơ nhất, đồng hành có thể diễn ra bất cứ nơi nào, lúc nào thuận tiện, khi nào có cuộc gặp gỡ bề sâu giữa vị đồng hành và người bạn trẻ. Có khi chỉ qua ít phút trao đổi cũng đủ làm cho vấn đề được soi sáng. Dĩ nhiên một cuộc gặp gỡ có thể kéo dài lâu giờ, và đôi khi cần có nhiều lần gặp gỡ mới mong thấy được ý Chúa. Thường cuộc gặp gỡ diễn ra giữa hai người, vị đồng hành và người bạn trẻ. Nhưng cũng có khi vị đồng hành phải giúp đỡ cho cả một nhóm, có cùng mối quan tâm thiêng liêng, có cùng mục tiêu phụng sự Chúa và Giáo Hội. Đồng hành cho một nhóm bạn trẻ là giúp nhóm ấy có tương quan thân thiết với Chúa Giêsu, trưởng thành trong ba nhân đức tin cậy mến, và trở nên những người có khả năng làm chứng cho Chúa trong môi trường mình đang sống.
- LẮNG NGHE TRONG ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG
Như ta thấy trong trình thuật Emmaus, trước khi Đức Giêsu gỡ rối cho hai môn đệ, Ngài đã chăm chú lắng nghe họ, không ngắt lời. Lắng nghe là phần không thể thiếu trong đồng hành thiêng liêng.
Đức Thánh Cha đã trình bày về lắng nghe như sau: “Chúng ta cần phát triển nghệ thuật lắng nghe, chứ không chỉ là nghe suông. Khi giao tiếp, lắng nghe là mở lòng để có được sự gần gũi mà thiếu nó thì không thể có sự gặp gỡ thiêng liêng. Lắng nghe giúp chúng ta tìm ra cử chỉ và lời nói thích hợp để chứng tỏ chúng ta không chỉ là những khách qua đường. Chỉ khi có thái độ lắng nghe với lòng tôn trọng và cảm thông, chúng ta mới có thể bước vào con đường tăng trưởng đích thực và đánh thức một khát vọng về lý tưởng Kitô giáo: ước muốn đáp lại trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và làm cho những gì Ngài đã gieo trong cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả.” (Niềm Vui Tin Mừng, 171). Như thế Đức Thánh Cha đã coi lắng nghe là một nghệ thuật. Để nắm được nghệ thuật này, ngài đòi vị đồng hành phải mở lòng, chứ không chỉ mở tai. Mở lòng để có thể nghe được những điều mà tai không nghe được, những điều nằm phía sau hay phía dưới điều người kia nói. Ngài còn cho thấy hai thái độ cần có khi lắng nghe, đó là lòng tôn trọng và cảm thông. Tôn trọng vì biết những gì mình đang nghe là những điều thánh thiêng, thấy Thiên Chúa đang chạm vào chỗ sâu thẳm của lòng người, chờ mong người ấy mở ra và đáp lại. Đức Thánh Cha đã diễn tả thái độ tôn trọng như sau: “chúng ta cần biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác” (Niềm Vui Tin Mừng 169). Thông cảm vì biết con người có những giới hạn về nhiều mặt, mỗi người có những giới hạn riêng, nên không vội vã xét đoán hay kết án. Vì hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, vị đồng hành phải đặt mình vào trong hoàn cảnh của người đối diện, để thực sự hiểu hết được câu chuyện đời người ấy. Bây giờ người ta dùng lối nói “lắng nghe thấu cảm” (empathetic listening) để diễn tả lối lắng nghe này.
Có người chia ra ba loại lắng nghe.
- LOẠI LẮNG NGHE THỨ NHẤT là chú tâm vào những gì giới trẻ nói để tìm ra những vấn đề của họ, những nhu cầu của họ, những mối bận tâm của họ.Có những bạn trẻ mất đức tin vì không ai gỡ cho mình một khúc mắc đã có từ lâu. Đức tin vẫn cần sự ưng thuận của trí khôn nữa.
Lắng nghe là cách thức để khám phá những câu hỏi của người trẻ, mà chúng ta có thể trả lời với giáo huấn của Giáo Hội. Theo tôi, loại lắng nghe thứ nhất này không phải là không quan trọng, thậm chí đây là điều thường xảy ra. Nhiều người trẻ đến với vị đồng hành mà họ tin tưởng vì họ đang gặp vấn đề mà tự họ không giải quyết được. Có những vấn đề về đức tin, thí dụ về cách cầu nguyện, về bùa ngải, về một người bị quỷ ám, về làm sao biết được ý Chúa, đặc biệt trong việc chọn lựa ơn gọi. Có những vấn đề về luân lý, thí dụ như vấn đề quan hệ trước hôn nhân, thủ dâm, đồng tính… Cũng có cả những vấn đề có vẻ đời thường, thí dụ như chọn người bạn đời, chọn việc làm, giải quyết vấn đề trong gia đình… Người đồng hành được nghe những điều làm người trẻ nặng lòng. Có thể là một vấn đề rất khó giải quyết, những cũng có thể là một vấn đề quá đơn sơ và dễ dàng. Trong loại lắng nghe thứ nhất này, người bạn trẻ có vẻ thụ động để lắng nghe lời giải đáp từ người đồng hành. Họ sẽ sung sướng khi thấy vấn đề của mình được giải quyết ổn thỏa, nhận được ánh sáng để hiểu rõ hơn, hay thấy lương tâm thanh thản hơn trước chuyện đã qua. Cũng phải cho thấy giáo huấn của Chúa Giêsu hay của Giáo hội không phải là một áp đặt vô lý trên tự do con người, nhưng nhằm bảo vệ cho con người khỏi những trói buộc của tội lỗi.
Để có thể trả lời những vấn đề làm người trẻ bận tâm, những vấn đề thuộc đủ mọi lãnh vực, có tính thiêng liêng nhiều hay ít, vị đồng hành phải là người có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt: về thần học, Kinh Thánh, về truyền thống linh đạo trong Giáo Hội, về tâm lý… Đức tin của bạn trẻ có thể bị rơi vào khủng hoảng chỉ vì không thấy Thiên Chúa là đấng toàn năng trước sự dữ đang xảy ra. Thiên Chúa cũng bị coi là Thiên Chúa vô cảm, không biết yêu thương, khi người trẻ hay gia đình của họ gặp nhiều thử thách quá sức chịu đựng. Như thế người đồng hành phải cho họ thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tôn trọng tự do con người, một Thiên Chúa chấp nhận cỏ lùng mọc chung với lúa tốt, một Thiên Chúa cho phép Xatan ảnh hưởng trên con người (SGLCG 760). Thập giá của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là sự dữ lớn nhất mà Thiên Chúa cho phép xảy ra, để trao ban ơn cứu độ của Ngài qua cái chết thảm khốc của người Con Một. Nơi đây, tưởng như Thiên Chúa chịu thua lòng độc ác của loài người tội lỗi, tưởng như tử thần có khả năng nuốt chửng Đấng ban sự sống, Đấng là Sự Sống. Nơi đây tưởng như Thiên Chúa vắng mặt, thinh lặng hay khoanh tay. Nhưng chính qua thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho thấy một Tình Yêu lớn lao (Ga 3,16), tình yêu mạnh hơn cái chết, khi cho Đức Giêsu được phục sinh. Mầu nhiệm thập giá giải quyết được nhiều khúc mắc trong đời sống đức tin của người trẻ. Hiểu biết về Kinh Thánh cũng cần cho vị đồng hành, vì thi thoảng có những câu lời Chúa đặt vấn đề cho bạn trẻ khiến họ bối rối. Vị đồng hành không cần phải có chuyên môn Kinh Thánh, nhưng phải có đủ khả năng để cho thấy câu lời Chúa đó nằm trong bối cảnh nào, được viết theo thể văn nào, nên thực sự nó mang ý nghĩa gì và phải áp dụng ra sao. Thí dụ như lời khuyên đưa má ra sau khi bị tát, hay phải yêu kẻ thù…
Hơn nữa, vị đồng hành còn phải thông thạo những vấn đề mà giới trẻ ngày nay đang đối diện, những điều làm họ say mê, và những điều bị họ coi là không hợp thời, những cám dỗ đang lôi kéo họ, và những lý do khiến họ rời xa Chúa và Giáo Hội. Những hiểu biết rành rẽ về người trẻ của vị đồng hành sẽ giúp cho cuộc đối thoại dễ dàng hơn. Không thể đồng hành với người trẻ nếu không biết khá rõ về vấn đề đồng tính, ngừa thai, phá thai, thủ dâm, phim sex, oral sex hay quan hệ trước hôn nhân; về hậu quả của chúng và về lý do tại sao Giáo Hội cấm đoán chúng.
- LOẠI LẮNG NGHE THỨ HAI là nghe xem người trẻ nghĩ gì về Giáo Hội để biết Giáo Hội phải thay đổi như thế nào.
Có những người trẻ muốn được đồng hành để giải quyết những vấn đề của mình, nhưng cũng có một số ít người trẻ thao thức về sứ mạng của Giáo Hội. Họ thấy Giáo Hội có những bất toàn hay bất cập, chậm chạp trong việc đối diện và giải quyết những vấn đề cấp bách. Họ biết Giáo Hội có những vị lãnh đạo bất xứng, những lạm dụng về tiền bạc hay thân xác, những chia rẽ và bè phái, những quan liêu trong cách phục vụ, những chạy đua về tiếng tăm, vật chất, hưởng thụ… Không nên coi những người này là thành phần nổi loạn, chống đối Giáo Hội. Trái lại, vị đồng hành có thể nhận ra họ là những người mang nặng mối ưu tư về Giáo hội và nóng lòng muốn đóng góp phần của mình. Chấp nhận đối thoại thẳng thắn và tích cực lắng nghe, vị đồng hành có thể tìm thấy một người trẻ tích cực cộng tác với mình trên con đường canh tân bộ mặt Giáo Hội hay giúp Giáo Hội ứng phó với một tình huống khó khăn chưa từng thấy. Khiêm tốn lắng nghe một bạn trẻ, dù ý kiến người đó còn non nớt, nông cạn hay phiến diện, vị đồng hành cho thấy thái độ của Giáo Hội: đón nhận đóng góp của bất cứ ai có thiện chí với lòng biết ơn. Tinh thần sáng tạo của người trẻ, nhất là người trẻ trí thức, sẽ giúp cho Giáo Hội giữ được vẻ tươi mới, hợp thời, và khiến Giáo Hội hấp dẫn những người trẻ khác.
- LOẠI LẮNG NGHE THỨ BAmà Thầy Alois, tu viện trưởng cộng đoàn Taizé ở Pháp đang thực hành, rất gần với điều chúng ta đã nói đến trên đây về đồng hành thiêng liêng.
Tu viện Taizé ở Burgundy nổi tiếng vì thu hút những người trẻ, kể cả những người không bao giờ đi nhà thờ. Thầy Alois giải thích rằng những người làm việc ở Taizé là những người biết lắng nghe người trẻ để khám phá ra nơi Thánh Linh đang hoạt động trong cuộc đời họ, ngay cả trong cuộc đời những người không coi mình là tín hữu. Công việc của những người lắng nghe này là không áp đặt ý tưởng của họ lên giới trẻ, mà là giúp các bạn trẻ thấy sự hiện diện của Thánh Thần trong cuộc đời họ. Thầy Alois xác tín rằng nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì nơi nào có tình yêu và lòng trắc ẩn, nơi nào có khát khao công lý và sự hòa giải, thì Thiên Chúa hiện diện ở đó, ngay cả trong những người chưa được rửa tội. Alois tin rằng những người trẻ đã tràn đầy Thánh Thần rồi. Họ chỉ cần chúng ta giúp đỡ để nhận ra điều đó thôi.
Lối đồng hành trên đây của Taizé nhấn mạnh đến việc vị đồng hành không hướng dẫn người trẻ đi tìm ý Chúa ở ngoài cuộc đời của họ, nhưng hướng dẫn họ tìm ý Chúa trong cuộc đời của họ. Không quay ra, nhưng quay vào trong lòng mình. Điều này giả thiết là Thánh Thần đã hiện diện và hoạt động trong cuộc đời mỗi bạn trẻ, bất chấp họ là ai, họ có phải là kitô hữu không, hay có phải là kitô hữu ngoan đạo hay không. Đồng hành là giúp họ nhận ra sự hiện diện và hoạt động ấy, dù còn mờ nhạt và kín đáo. Khi người trẻ khám phá ra điều đó, họ sẽ ngỡ ngàng và reo vui, vì bấy lâu họ tưởng đời họ là mảnh đất bỏ hoang, cằn cỗi, không người canh tác. Họ ngây ngất khi vị đồng hành cho thấy Thánh Thần hay Thiên Chúa đã có mặt cả trong lúc họ cô độc hay tự cô lập mình, đã tế nhị nâng đỡ họ cả trong lúc họ tưởng mình phải một mình chèo chống. Giúp bạn trẻ nhìn lại đời mình, thấy đời mình dưới một ánh sáng mới, thấy Thánh Thần luôn đồng hành với mình: đó là việc của người đồng hành. Để làm được việc đó, vị đồng hành cần có nhiều kinh nghiệm thiêng liêng, có khi là kinh nghiệm của chính cuộc đời mình. Như Simôn và người môn đệ Chúa yêu ra thăm mộ, dù ngôi mộ tối tăm u ám, họ vẫn nhìn thấy tấm khăn che đầu được xếp gọn gàng và được để sang một bên. Chỉ cần một chi tiết nhỏ trong cuộc đời đầy vấp ngã của người bạn trẻ, cũng đủ làm sáng lên tất cả những gì tưởng như là đổ vỡ hoàn toàn. Vị đồng hành phải là người nhận ra cái biến cố tưởng như vô nghĩa đó, cái may mắn tình cờ đó, cái cố gắng nhỏ nhoi đó của tình yêu khi lòng đã muốn buông xuôi, đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa, từ đó giúp bạn trẻ thấy chẳng có gì phải thất vọng hay tuyệt vọng. Cơ hội để làm lại vẫn còn. Niềm tin không bị mất…
Nhà văn Antoine de Saint-Exupéry có viết: “Đừng đi trước tôi, tôi không đi theo đâu. Đừng đi sau tôi, tôi không dẫn đường đâu. Hãy đi bên tôi và là bạn của tôi.” Vị đồng hành thật là một người bạn, bạn đường của người bạn trẻ, dù vẫn là người thầy.
- MỤC ĐÍCH CỦA ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG
Nếu vị đồng hành chấp nhận dành thì giờ để đồng hành với bạn trẻ, và nếu người bạn trẻ cũng có ý muốn gặp gỡ vị đồng hành, hẳn cả hai đều hướng đến một mục tiêu nào đó. Dù cuộc gặp gỡ như thế nào đi nữa, mục tiêu vẫn là làm sao khám phá ra ý Chúa cho cuộc đời người bạn trẻ và giúp họ hạnh phúc sống theo ý Chúa. Mỗi bạn trẻ có một hoàn cảnh riêng, một ơn gọi riêng từ Thiên Chúa. Chỉ khi chọn đúng điều Chúa muốn, người đó mới được hạnh phúc thật sự. Nếu tôi phải đồng hành với một bạn trẻ đồng tính, làm sao tôi giúp bạn ấy đón nhận khuynh hướng tính dục của mình? Làm sao tôi giúp bạn ấy cắt đứt với những tương quan không phù hợp trước đây? Và hơn nữa, làm sao tôi cho thấy bạn ấy hoàn toàn có khả năng là một người Công giáo tốt lành, hạnh phúc và triển nở ngay khi bạn ấy vẫn là người đồng tính.
Vị đồng hành là người bạn đường có nhiệm vụ đi chung và giúp người bạn trẻ nhận ra những dấu hiệu cho thấy ý Chúa. Vị đồng hành không áp đặt ý của mình lên người bạn trẻ, nhưng tôn trọng những suy nghĩ và tình cảm của người bạn này. Như thế vị đồng hành cần có thái độ “bình tâm” (indifference) như lối nói của thánh I-nha-xi-ô trong Linh Thao. Bình tâm ở đây không phải là bình tĩnh hay lãnh đạm lạnh lùng, mà là thái độ khiêm tốn của người đang tìm kiếm chứ chưa tìm thấy. Chính vì thế bình tâm là tạm thời không nghiêng hơn về chọn lựa nào cả. Một trong những nguy hiểm của vị đồng hành là vội vã cho rằng mình đã thấy hướng đi cho người bạn trẻ rồi, không cần phải tìm kiếm thêm nữa. Như thế vị đồng hành quên rằng mình vẫn đang trong hành trình cùng tìm kiếm với người bạn trẻ này. Đồng hành là lắng nghe những chuyển động âm thầm của Thánh Linh đang tác động nơi tâm hồn người bạn trẻ. Có khi người đồng hành đành phải bỏ đi ý nghĩ của mình sau khi lắng nghe người trẻ, đơn giản là vì, qua cuộc trò chuyện, họ cảm nhận tác động của Thánh Linh lôi cuốn mãnh liệt một người trẻ bước theo con đường rất riêng tư, ít người đi.
Vị đồng hành và người bạn trẻ cùng nhau tìm ý Chúa. Người bạn trẻ kể cho vị đồng hành nghe những biến cố đã và đang xảy ra trong đời mình, cũng như những chuyển động nội tâm của mình, nói theo kiểu của Linh Thao là những “an ủi” hay “sầu khổ”. Vị đồng hành lắng nghe, cảm thông, và cùng với người bạn trẻ “phân định” xem đâu là tác động của Thiên Chúa hay Ác thần. Vị đồng hành phải là người có kinh nghiệm về phân định (discernment), thậm chí nhạy bén trong việc nhận ra cả chuyện quỷ dữ giả dạng thần lành, lôi kéo người ta đi theo con đường của nó, trông có vẻ rộng và tốt, nhưng cuối cùng lại dẫn đến diệt vong (Mt 7,13-14). Để có kinh nghiệm về phân định, vị đồng hành cần nắm vững các nguyên tắc, nhưng cũng cần trải qua những kinh nghiệm thương đau nơi chính bản thân mình. Thánh I-nha-xi-ô chỉ đưa ra những nguyên tắc để phân định xem đâu là tác động của Chúa, đâu là cám dỗ của quỷ, sau khi chính Ngài đã có nhiều kinh nghiệm cá nhân về việc bị ma quỷ đánh lừa, được kể trong sách Tự Thuật.[4]
Đồng hành thiêng liêng là một tiến trình huấn luyện cần thiết giúp người trẻ trưởng thành trong đời sống kitô. Người trẻ bước vào đời, sống đức tin của mình với bao câu hỏi và thắc mắc mà tự mình không sao trả lời được, với bao cám dỗ và vấp ngã thấy khó tự mình đứng lên. Có được một người đồng hành với mình, hiểu mình, gần gũi mình như một người bạn, giỏi hơn mình như một người thầy: đây thật là một ơn phúc. Việc đồng hành trước hết giúp người trẻ giữ vững đức tin giữa những sóng gió của lạc thuyết, sau nữa làm đức tin ấy mạnh mẽ và phát triển đến tột cùng. Nếu vị đồng hành là một người say mê Giêsu và có đời sống gương mẫu, thì chắc chắn người trẻ ấy sẽ trưởng thành trong ơn gọi kitô và có khả năng làm chứng về đức tin của mình trong mọi môi trường sống. Nhờ quen quay vào trong để nhận ra con người nội tâm, quen có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa một cách cá vị, và nhờ quen với việc phân định để tìm ý Chúa, người bạn trẻ sau này có thể đứng vững và dễ dàng tìm thấy cách thức mình phải sống đức tin trong hoàn cảnh riêng của mình, dù khó khăn đến đâu.
Vị đồng hành là một người bạn gần gũi và hiểu được những sâu kín của lòng người bạn trẻ, nên có thể nảy sinh tình cảm giữa hai người. Không phải ai cũng bắt chước được tình bạn linh hướng giữa thánh Phanxicô và thánh nữ Clara, hay thánh Têrêsa và thánh Gioan Thánh Giá. Chính vì thế vị đồng hành cần giữ khoảng cách và thường xuyên xét mình để nhận ra những thay đổi nơi tình cảm của mình, và có thể cả nơi tình cảm nơi người bạn trẻ. Cha De Guibert, S.J. khuyên: “Nếu vì tình cảm mà vị linh hướng cảm thấy ngại tiếp tục đồng hành, thì hãy tìm cơ hội để chuyển đương sự đến một vị linh hướng khác.” Bầu khí của cuộc gặp gỡ giữa vị đồng hành và người bạn trẻ phải là bầu khí thiêng liêng, đáng tin cậy, và an toàn.
KẾT: Đồng hành với giới trẻ là việc mục vụ quan trọng. Để có một thế hệ kitô hữu trẻ trung, trưởng thành, năng động, không thể nào không có bóng dáng của những vị đồng hành đứng phía sau. Nhu cầu có những vị đồng hành cho giới trẻ là nhu cầu có thực và khẩn trương, nếu không chúng ta sẽ chỉ lôi kéo được một lớp trẻ đông đảo, với những sinh hoạt vui vẻ ồn ào bên ngoài, nhưng lại thiếu sự sâu lắng bên trong để tĩnh lặng mà gặp Đấng Vô Hình. Mặt khác, có được một vị đồng hành tốt lại không phải là chuyện dễ dàng. Đồng hành là một ơn gọi, một “nghệ thuật” như lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói. Cần phải “khai tâm”, phải tốn công huấn luyện các vị đồng hành. Các linh mục, tu sĩ là những người dễ có được nền huấn luyện cần thiết để trở nên một vị đồng hành: đời sống thiêng liêng, nhân bản; kiến thức thần học, Kinh Thánh, tâm lý và cả kinh nghiệm trong việc sống với giới trẻ, biết sử dụng ngôn ngữ của họ. Giáo dân cũng có thể đồng hành với người trẻ, miễn là hội đủ những điều kiện cần thiết. Dù là ai đi nữa, vị đồng hành cũng phải là người kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa, nhạy bén với tác động nhỏ của Thánh Linh, có phán đoán chín chắn và quân bình, có sự khiêm tốn dễ thương để hạ mình tiếp xúc với người trẻ, dám dành thời giờ để lắng nghe chuyện tưởng như không quan trọng.
Làm thế nào để duy trì sức sống của Giáo Hội? Cần thế hệ trẻ. Nếu chúng ta để giới trẻ bơ vơ, nếu họ không thấy ai đáng tin để họ có thể tâm sự và đặt câu hỏi, mong một câu trả lời, nếu họ không thấy ai coi họ là quý và dám dành giờ ngồi bên họ… thì tương lai của Giáo Hội sẽ là những nhà thờ vắng bóng người trẻ, xa lạ với đức tin và lạnh lùng với giáo sĩ. Chỉ mong Giáo Hội Việt Nam, nhờ ơn Chúa nhà thờ và hội đoàn vẫn còn thu hút người trẻ, biết nắm lấy cơ hội đang có, để đồng hành với người trẻ hôm nay.
WHĐ (17.8.2020)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 118 (tháng 5 & 6 năm 2020)
[1] Trương Thanh Tùng, “Việc Phân Định của Vị Linh Hướng trong Đồng Hành và Trợ Giúp Phân Định,” trong Phân Định Thiêng Liêng, Tạp chí Linh Đạo I-Nhã (nxb Đồng Nai, 2019) 279.
[2] Ibid., 281.
[3] Một tài liệu chưa xuất bản của Julio Giulietti, S.J. “Ai dám dạy dỗ, thì không bao giờ tránh học hỏi” (Quicumque audet docere, numquam desistat discere).
[4] Trong bài này tôi không đi sâu vào vấn đề “phân định”. Muốn nghiên cứu thêm, xin đọc cuốn Phân Định Thiêng Liêng do Tạp Chí Linh Đạo I-Nhã ấn hành, nhà xuất bản Đồng Nai, 2020.