2020
Gia đình cầu nguyện
Gia đình cầu nguyện
„Một gia đình cầu nguyện là một gia đình tồn tại. Một gia đình không bỏ cầu nguyện là một gia đình luôn luôn hạnh phúc“ (ĐGH Gioan Phaolo II)
Gia đình là tổ ấm thân thương nhất, là nơi chúng ta tìm về để được an ủi, nâng đỡ khi thất vọng, chán nản,
Gia đình là nơi những món ăn đơn sơ trở thành mỹ vị, là nơi tiền bạc không quý bằng tình yêu, là nơi nối kết các thành viên trong gia đình để trao cho nhau niềm hạnh phúc.
Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình vững chắc thì xã hội thăng tiến. Gia đình lung lay thì xã hội thoái hóa. Vì thế chúng ta hãy trân trọng tạo dựng gia đình thành một tổ ấm đẹp nhất trong cuộc đời chúng ta.
Gia đình yêu thương
Yêu thương con cái, cho chúng đồ chơi đắt tiền, quần áo hàng hiệu, ăn thức ăn ngon… mà vợ chồng bất hòa, cãi nhau hoài thì chỉ là phỉnh gạt con cái mà thôi. Chúng không thể quên được những cãi vã bất hòa của cha mẹ. Đừng để chúng bị tổn thương vì những tự ái của vợ chồng, vì cái tôi của mình.
* Đời sống gia đình luôn ảnh hưởng sâu đậm trên con cái suốt đời. Chúng chỉ tự hào, hãnh diện về tình thương yêu và sự hy sinh của cha mẹ mà thôi. vì thế tình thương yêu chan hòa trong gia đình rất quan trọng và cần thiết
* Hãy tạo dựng một gia đình thương yêu, cha mẹ yêu thương nhau, yêu thương con cái.
*Hướng dẫn con cái yêu thương bà con họ hàng, tạo điều kiện thăm viếng nhau luôn để giữ tình thân gia tộc.
*Dạy con cái biết kính yêu, tôn trọng cội nguồn, tổ tiên, ông bà (cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ tiên)
*Dạy con biết đạo nghĩa và nhân đức của Chúa Giêsu.
Gia đình kỷ Luật:
* Hãy tự có kỷ luật từ chính mình.
* Yêu chồng (vợ) là tự mình phải biết trở nên một người lý tưởng cho vợ (chồng) mình. Tại sao mình chỉ muốn vợ hay chồng mình phải là người lý tưởng của mình mà mình không tự huấn để trở nên người lý tưởng cho người khác.
* Hướng dẫn con cái từng chút một về mọi khía cạnh một cách nghiêm nghị mà mềm dẻo và đầy tình thương.
* Hướng dẫn và chăm sóc tình cảm của con cái với sự giàu có tình thương chan hòa.
* Hướng dẫn con cái biết quý trọng hạnh phúc hơn tiền tài danh vọng.
* Hướng dẫn con cái quý trọng giá trị tinh thần hơn giá trị vật chất.
* Hướng dẫn con cái biết quý trọng thân xác và kỷ luật.
* Hãy kiên nhẫn và mềm mỏng với đứa con ngang bướng, có đứa không bình thường, có đứa chậm lụt v.v…
* Hãy chăm học hỏi từ những người khôn ngoan và những người chuyên môn về tâm lý gia đình
Gia đình cầu nguyện
* Cả gia đình nên cầu nguyện chung trước bàn thờ để củng cố đức tin, trở nên nhân đức.
* Để trở nên tuyệt vời cho nhau và yêu nhau hơn và biết tha thứ cho nhau.
* Để tỉnh thức trước mọi hoàn cảnh và bình tĩnh, bình tâm giải quyết mọi việc.
* Để biết thông cảm và chịu đựng nhau, can đảm chấp nhận những sóng gió xảy đến.
* Để xin Chúa giúp cho mình thắng được tính nóng nảy, chì chiết, dằn vặt, cằn nhằn v.v…
* Để biết hàn gắn những vết nứt nho nhỏ vừa mới xảy ra giữa vợ chồng (vì nếu không hàn gắn ngay thì theo thời gian vết nứt càng lớn dần thì sẽ dẫn đến đổ vỡ).
* Để nhìn nhận những thiếu sót của cá nhân khi sự khác biệt giáo dục của hai gia đình và nhất là khi ai cũng có thể tự lực cánh sinh, không cần dựa vào ai nữa.
Hạnh phúc của con cái là thấy cha mẹ thương yêu nhau, chúng sẽ sung sướng bơi lội thỏa thích trong tình yêu thương nồng nàn của gia đình. Mục đích cuộc sống của chúng ta là làm vinh danh Thiên Chúa và nên hữu ích cho mọi người.
Đức cha Athanasius Schneider thuộc Giáo Phận Karaganda, Kazakistan khuyên: “Tôi muốn đưa ra lời mời gọi – đặc biệt các bạn trẻ và các gia đình trẻ – Xin mọi người hãy vun trồng Đức Tin Công Giáo ngay trong gia đình. Hỡi các cha mẹ trẻ, xin quý vị hãy cầu nguyện chung với con cái – Hãy dạy con cái biết cầu nguyện – Hãy nêu cao gương sáng cho con cái bằng chính cuộc sống đạo đức của quý vị – Hãy truyền thông Đức Tin Công Giáo tuyệt đẹp cho con cái quý vị“
„Tôi nhận Đức Tin Công Giáo qua giòng sữa của mẹ tôi cho tôi bú. Thật là một Hồng Ân trọng đại. Tôi nhớ rất rõ trong thời thơ ấu, lúc ấy hoàn toàn vắng bóng Linh Mục Công Giáo, đều đặn mỗi buổi tối cha mẹ tôi quy tụ 4 đứa con lại và cầu nguyện chung. Chúng tôi quỳ gối trong phòng cùng đọc kinh. Chúa nhật thì giờ đọc kinh chung trở thành buổi cử hành Phụng Vụ Lời Chúa thay cho Thánh lễ“.
Ước mong tất cả những gia đình Công Giáo luôn sống hạnh phúc trong tình thương yêu của Thiên Chúa để làm thăng tiến xã hội và thăng hoa Giáo Hội. EN
2020
Bốn cụm từ về Chúa Giêsu mà bạn không bao giờ nên nói với con mình
Bốn cụm từ về Chúa Giêsu mà bạn không bao giờ nên nói với con mình
Chúng ta nói những từ ấy mà không suy nghĩ, nhưng đôi khi những gì chúng ta nói có thể đẩy con chúng ta dần dần xa Chúa.
Như cô bé Anna nói trong cuốn sách Mister God, This Is Anna, (Thưa Ông Chúa, cháu là Anna đây) chúng ta có thể đặt Chúa vào những chiếc hộp nhỏ. Chúng ta thường giới thiệu cho trẻ em về một vị Chúa “hữu ích”, chẳng hạn như một người phát thưởng, một người làm phép lạ, một người giải thích được mọi chuyện, hoặc thậm chí là một ông ba bị (ông kẹ). Những cụm từ như vậy có thể ảnh hưởng đến con cái chúng ta mãi mãi. Dưới đây là một vài ví dụ về các câu cần tránh sử dụng.
- Tránh thường gọi Chúa Giêsu là “bé nhỏ”
Thực ra không sai khi nói về “Chúa Giêsu bé nhỏ” vì Chúa Giêsu đã được làm người và trước tiên, một cách tự nhiên, là một đứa trẻ nhỏ. Tuy nhiên, không phải là một ý kiến hay khi thường gọi Ngài như vậy bởi vì đối với đứa trẻ, Chúa Giêsu sẽ chỉ là “Chúa Giêsu bé nhỏ”, Hài nhi Giêsu trong cảnh Chúa giáng sinh, hoặc ngôi nhà ở Nazareth. Ngài sẽ trở thành “Chúa Giêsu bé nhỏ cho trẻ em”, bị bỏ lại trong bảo tàng của những món đồ chơi trẻ con và ký ức tuổi thơ. “Chúng ta không học được bất cứ điều gì trong thời thơ ấu mà sau này khi lớn lên chúng ta phải quên nó đi.”
- “Chúa Giêsu không yêu con khi con hành động như vậy”
Nên cấm tuyệt đối công thức này vì nó hoàn toàn sai sự thật. Chúa Giêsu yêu thương vô hạn mỗi người chúng ta, ngay cả khi chúng ta là tội nhân tồi tệ nhất. Một đứa trẻ nghe điều này sẽ lớn lên với nỗi sợ hãi mất đi tình yêu thương của Thiên Chúa và sẽ tin chắc rằng tình yêu này mình phải tự kiếm lấy, rằng Thiên Chúa không yêu thương tội nhân. Những gì cha mẹ nói trong những năm đầu tiên có tác động đến mức đứa trẻ, khi trưởng thành, sẽ được ghi dấu bằng hình ảnh rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta chỉ khi chúng ta cư xử đúng mực.
Tương tự, chúng ta đừng bao giờ nói: “Tôi không thích những cô bé nói dối (hoặc tôi không thích những cậu bé luôn kêu la và thét lác),” như một cách nói ngắn gọn rằng chúng ta không thích việc chúng nói dối. Nhưng điều mà đứa trẻ hiểu lại là chúng ta không thích chúng khi chúng nói dối. Điều này có vẻ chỉ là một điều gì đó nho nhỏ xét theo một cách hiểu nào đó, nhưng giáo dục được tạo nên từ những điều nhỏ nhặt, và trong trường hợp này, chúng ta phải nhớ rằng cách chúng ta yêu thương con cái, cách chúng ta cho chúng thấy tình yêu của mình, sẽ giúp chúng nhận thức và sống tình yêu của Thiên Chúa.
- “Chúa đang phạt con”
Mặc dù đúng là đau khổ là hậu quả của tội lỗi, nhưng việc coi đau khổ hoặc thất bại là hình phạt trực tiếp của một tội cụ thể là sai lầm và nguy hiểm. Hãy nhớ cách Chúa Giêsu trả lời các môn đệ của Ngài, khi họ hỏi Ngài về một người mù: “Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” (Gioan 9: 2-3). Nếu, khi một đứa trẻ bị tổn thương khi không vâng lời, nó nghe nói rằng đó là hình phạt từ Thiên Chúa, nó sẽ nghĩ rằng đau khổ là việc luôn luôn “đích đáng” và ngược lại, nó nghĩ rằng hạnh phúc hoặc ý tưởng mà nó có về hạnh phúc (sức khỏe, may mắn, không có đau khổ, vui sướng) luôn là một dấu hiệu của lối sống đẹp lòng Thiên Chúa.
- “Chúa Giêsu không vui, con làm tổn thương Ngài”
Không rõ ràng: câu nói này vừa đúng lại vừa sai cùng một lúc. Claire, với vẻ ngoài của một đứa trẻ 10 tuổi, nhận xét: “Chúa Giêsu không thể buồn vì ngài hạnh phúc mãi mãi trên Thiên đàng!” Hợp lý. Tuy nhiên, chúng ta có thể chỉ ra cho Claire thấy rằng chính tội lỗi của cháu ấy, tội lỗi cháu phạm hôm nay, đã đóng đinh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã phải chịu đựng trước tất cả tội lỗi của mọi người trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngay cả đó chỉ là tội lỗi của cháu mà thôi, thì Chúa Giêsu vẫn sẽ ban mạng sống của Ngài. Vì vậy, nói rằng tội lỗi của chúng ta làm cho Chúa Giêsu đau khổ là không sai. Nhưng chúng ta phải cảnh giác: những gì quan trọng không phải là những gì chúng ta định nói, mà là những gì đứa trẻ nhận thức và hiểu được. Đứa trẻ có thể nghĩ rằng hạnh phúc của Chúa Giêsu phụ thuộc vào đứa trẻ, vào hành vi tốt hay xấu của đứa trẻ đó, điều này là sai. Trong thực tế, không phải hạnh phúc của Chúa Giêsu bị phá hủy bởi tội lỗi mà là hạnh phúc của tội nhân bị hủy hoại. Tương tự như vậy, phẩm chất của tình yêu thương của Chúa Giêsu dành cho chúng ta không phụ thuộc vào sự đáp lại của chúng ta. Thiên Chúa yêu chúng ta một cách tự do, hoàn toàn và vô điều kiện. Đó là tình yêu thương mà chúng ta cần phải rao truyền, lặp đi lặp lại, cho con cái của chúng ta.
2020
Việc linh hướng trong chương trình đào tạo các ứng sinh linh mục ở Chủng viện
- Dẫn nhập: Giáo hội và việc đào tạo cho tác vụ linh mục
Kiểu nói “linh hướng”, nhất là kiểu nói “cha linh hướng / linh giám”, có thể gây ra những hiểu lầm, nên cần được giải thích ngay từ đầu bài viết này. Trong rất nhiều chủng viện, cha linh giám là người chịu trách nhiệm việc đào tạo thiêng liêng, qua việc giảng dạy và cùng lúc đồng hành thiêng liêng với một số chủng sinh (các chủng sinh còn lại được đồng hành bởi các linh mục khác được bổ nhiệm làm việc này). Việc linh hướng vì thế có thể được hiểu theo nghĩa rộng này. Còn ở đây, chúng ta sẽ hiểu việc linh hướng theo nghĩa hẹp, tức là việc đồng hành cá nhân thuộc phạm vi tòa trong. Vì vậy, đây là một việc rất chuyên biệt, đòi hỏi sự liên tục và đều đặn trong suốt thời gian đào tạo.
Mục tiêu căn bản của việc đào tạo ứng sinh linh mục là nhằm giúp các chủng sinh chuẩn bị cho đời sống tương lai qua việc đào tạo nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ cách thích hợp, dựa theo những quy chuẩn đã được đặt ra trong các bản “Ratio” khác nhau của Giáo hội toàn cầu và địa phương. Nhưng bên trong việc đào tạo đó, cần có một sự phân định thiêng liêng nhằm lượng giá khả năng phù hợp của ứng sinh, trước khi giới thiệu lên Đức giám mục để chịu chức. Vì chính Đức giám mục là người, xét cho đến cùng và do trách nhiệm giám mục, chuẩn nhận việc đào tạo ở chủng viện dành cho các ứng sinh của giáo phận mình và quyết định gọi họ vào linh mục đoàn giáo phận hay không. Đức giám mục làm việc này dựa trên sự giới thiệu của Hội đồng chủng viện, mà Hội đồng này, trong một số trường hợp, có thể đưa ra một nhận định tiêu cực nếu họ xét thấy một ứng sinh không hội đủ những yếu tố cần thiết.
Hội đồng này đưa ra nhận định và trình bày với Đức giám mục theo tòa ngoài, dựa trên sự hiểu biết về chủng sinh qua dòng thời gian, và thẩm định khả năng của chủng sinh theo các chiều kích khác nhau của việc đào tạo. Đó là một nhiệm vụ tinh tế, được ủy thác cho các linh mục được xem là có khả năng phán đoán, có kinh nghiệm thiêng liêng và mang tâm thức mục vụ. Nó đòi hỏi một thái độ chia sẻ thật sự đời sống của chủng sinh, một sự cảm thông với những khát vọng của họ, và một cuộc đối thoại huynh đệ chân thành. Đây đích thật là một công việc của Giáo hội, vì chức tư tế của hàng linh mục là nhân danh Chúa Ki-tô mà phục vụ chức tư tế của các tín hữu, nhằm giúp họ tăng trưởng trong đức tin, đức cậy và đức mến. Chính vì vậy mà toàn thể Giáo hội tham gia vào quá trình đào tạo và chọn gọi các ứng sinh lên chức linh mục: Đức giám mục dĩ nhiên là người có thẩm quyền sau cùng, Hội đồng chủng viện được Đức giám mục bổ nhiệm, và sau nữa là tất cả những ai mà Giáo hội tham vấn, gồm linh mục, phó tế, nam nữ tu sĩ, giáo dân, là những người quen biết các ứng sinh và có thể đưa ra ý kiến đánh giá.
Chức tư tế của hàng linh mục là một hồng ân mà Giáo hội nhận được từ Chúa Ki-tô nhằm phục vụ con người, vì thế, chỉ được trao ban cho những ai có khả năng phù hợp theo cái nhìn của Giáo hội để thi hành sứ vụ này. Do đó, cần có một sự phân định dài lâu nhằm xác minh và thử thách các khả năng này. Cả Giáo hội và ứng sinh đều dấn thân vào quá trình này, mỗi bên theo cách thức và vai trò của mình: Giáo hội với tư cách là người chịu trách nhiệm chọn gọi và phong chức linh mục, ứng sinh với tư cách là người trao hiến cách tự do cho Giáo hội để phục vụ. Cả hai đều chỉ có một mục đích: lợi ích của các cộng đoàn tín hữu và của tất cả những ai mà các linh mục tương lai gặp gỡ và thi hành sứ vụ. Đó chính là nền tảng sự tin tưởng mà Giáo hội và ứng sinh dành cho nhau trong suốt những năm tháng đào tạo trước khi chịu chức. Ứng sinh đặt niềm tin vào Giáo hội vì biết Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong Giáo hội, và bởi chính trong Giáo hội và vì Giáo hội mà các linh mục hiến mình phục vụ con người; còn Giáo hội tin tưởng ở các ứng sinh vì biết rằng Chúa Thánh Thần cũng đang hoạt động nơi họ, khiến họ trao ban chính mình với tất cả sự chân thành, không che giấu.
- Niềm tin vào Giáo hội là người mời gọi và sự dấn thân cá nhân cách tự do
Trong viễn tượng này, trở thành linh mục không thể được xem là việc thi hành một ước vọng cá nhân. Các linh mục dấn thân phục vụ Giáo hội qua việc loan báo Tin mừng, và họ nhận sứ vụ này từ Giáo hội. Họ liên kết mật thiết với Giáo hội, không thể tách rời. Họ là thừa tác viên của Giáo hội. Họ nói và hành động nhân danh Giáo hội. Đời sống của một linh mục sẽ ra sao nếu thiếu đi niềm xác tín mà chúng ta đang nói tới đây? Dĩ nhiên đời sống này phải bắt đầu ngay từ thời gian đào tạo. Nó là tiền đề của sự cộng tác mà họ sẽ thể hiện sau này với giám mục của mình, với linh mục đoàn mà họ làm việc chung, và với giáo dân mà họ thi hành tác vụ. Để nhận định dễ dàng hơn, điều cần thiết là các ứng sinh phải bộc lộ con người mình để những người có trách nhiệm đào tạo có thể đánh giá một cách ý thức và đầy đủ về những khả năng thích hợp của ứng sinh đối với sứ vụ linh mục. Nếu họ che giấu những nết xấu trong tính cách của mình hoặc những tình tiết nghiêm trọng của lịch sử bản thân vì sợ không được làm linh mục, thì họ có nguy cơ sống đời linh mục như một cuộc chinh phục cá nhân, chứ không như một hồng ân Chúa ban qua tay Giáo hội.
Một thái độ như vậy, nếu có, là một hình thái phủ định, thường là một cách vô thức, về chính bản tính chức tư tế của hàng linh mục.
Đó là thái độ xem chức linh mục như một giá phải trả, chứ không phải là một hồng ân, xem đó là việc thực hiện một dự án cá nhân, chứ không phải là việc đón nhận một lời mời gọi từ Chúa qua Giáo hội. Dĩ nhiên trong thực tế, mọi việc thường phức tạp hơn, mờ mịt hơn, và khó xác định. Vì thế, điều cốt yếu là giúp các ứng sinh linh mục đừng cư xử như thể là người làm chủ dự án của mình, nhưng là đón nhận dự án đó từ Chúa qua Giáo hội. Đây là một trong những mục tiêu chính yếu của việc đào tạo. Ta có thể nói rằng khi một ứng sinh linh mục chân thành tin tưởng đặt để ơn gọi của mình vào tay Giáo hội, thì người đó sẽ sẵn sàng thi hành sứ vụ của mình với một sự tự do thiêng liêng mang lại hoa trái dồi dào. Nhưng tin tưởng phó thác vào Giáo hội không đồng nghĩa với một thái độ hoàn toàn trơ ì, thụ động. Giáo hội cần sự dấn thân tích cực của các ứng sinh.
Trong phần lớn trường hợp, chính các ứng sinh tự mình đến với Giáo hội, do được thúc đẩy bởi một tiếng gọi nội tâm mà họ nghe được từ giữa cuộc sống Ki-tô hữu và muốn trải nghiệm tiếng gọi ấy, nên họ bày tỏ ước nguyện với Giáo hội. Còn trong một số trường hợp khác, chính Giáo hội, qua trung gian một linh mục hoặc các thành viên của cộng đoàn địa phương, khởi xướng một đề nghị trực tiếp với những bạn trẻ có đời sống Ki-tô hữu mạnh mẽ và xác tín; các ứng sinh lúc đó phải xem câu hỏi người ta đặt ra cho mình như là của chính mình vậy. Dù việc tiếp xúc giữa Giáo hội và ứng sinh có theo hình thức nào đi nữa, thì chính ứng sinh, hoặc là người chủ động bày tỏ ước nguyện của bản thân hoặc là người đón nhận lời mời gọi của Giáo hội, phải cho thấy sự dấn thân tích cực trong việc định hướng đời sống đang mở ra trước mắt mình. Được cụ thể hóa qua việc phong chức, ơn gọi linh mục thật ra là cuộc gặp gỡ giữa hai ước nguyện, thường là mãnh liệt như nhau: một là mong ước của Giáo hội, vì Giáo hội cần các linh mục và ký kết giao ước với những người mà Giáo hội quyết định chọn gọi; hai là ước vọng của ứng sinh, người dấn thân trọn vẹn vào một dự án mà mình xây dựng song cũng đồng thời giao phó nó trong tay Giáo hội.
- Linh hướng: yếu tố hàng đầu trong cơ chế đào tạo
Cần phải luôn nhớ lại cuộc gặp gỡ giữa hai ước nguyện trên đây và cuộc đối thoại kèm theo đó, nếu người ta muốn định vị đúng việc linh hướng trong toàn thể chương trình đào tạo linh mục. Cuộc đối thoại này được biểu tượng trong lời trao đổi diễn ra trong chính nghi thức truyền chức, giữa vị giám mục và người sắp lãnh nhận chức thánh. Đức giám mục hỏi ứng sinh có muốn được truyền chức và có chấp nhận những đòi hỏi của chức vụ sắp được giao phó cho mình hay không. Câu hỏi này rõ ràng không hoàn toàn mang tính hình thức. Câu trả lời cũng biểu lộ một ý chí tự do và xác quyết mạnh mẽ. “Thưa, con muốn”, lời đáp của người thụ phong có thể được hiểu thế này: “Con muốn với tất cả sức mạnh của ý chí, tận hiến chính mình như một quà tặng tự do tự nguyện”.
Qua cuộc đối thoại này, Giáo hội cho thấy tầm quan trọng của việc bày tỏ ước nguyện nơi các ứng sinh, và của sự tự do nơi họ nữa. Người ta chỉ có thể liều mình sống sứ vụ linh mục, nếu người ta dấn thân với tất cả sức lực và sự quảng đại do lòng khát khao của mình. Chính ở đây, việc linh hướng đóng vai trò quan trọng. Trong việc đào tạo, đây chính là nơi ưu tiên để xem xét và giáo dục ý hướng của các ứng sinh. Vì lý do đó, Giáo hội muốn làm sao để các chủng sinh có được các phương thế linh hướng nghiêm túc và đầy đủ. Các cha linh hướng được Đức giám mục bổ nhiệm, vì đây là một công việc chính thức, đòi hỏi kinh nghiệm và khả năng. Mặt khác, một trong những nhiệm vụ của cha giám đốc chủng viện là lo liệu làm sao để mỗi chủng sinh có một cha linh hướng, và đảm bảo cho việc lựa chọn linh hướng được hài hòa. Việc lựa chọn cha linh hướng được thực hiện qua trung gian cha giám đốc. Cha giám đốc cũng chính là người mà chủng sinh sẽ thưa chuyện khi muốn thay đổi cha linh hướng. Cha giám đốc phải lưu ý làm sao để việc thay đổi cha linh hướng không phải là một ý thích nhất thời, nhưng nếu ngài nhận thấy có sự thiếu tự do thật sự trong tương quan đôi bên, thì ngài sẽ tạo điều kiện thay đổi dễ dàng, luôn với ý hướng mang lại cho các chủng sinh những phương thế dấn thân cách tự do nhất.
Một điều rất may mắn và vẫn thường xảy ra là, trước khi bước vào giai đoạn đào tạo ở chủng viện, các chủng sinh đã có kinh nghiệm về việc linh hướng, vốn là động lực đưa họ đến ngưỡng cửa chủng viện. Vị linh hướng đã đồng hành với một chủng sinh ở giai đoạn tiền chủng viện này, dù từng có vai trò quan trọng thế nào đi nữa, thì giờ đây cũng phải biết xóa mình đi. Nếu ngài cứ tiếp tục gặp gỡ thường xuyên người thụ hướng cũ của mình, sẽ khiến họ khó tạo lập sự tin tưởng với cha linh hướng mới. Kiểu “linh hướng song đôi” như vậy luôn có hại, người ta không nói cùng một sự việc cho cả hai vị linh hướng, và ít nhiều có khuynh hướng chọn lọc những lời khuyên nhận được. Điều này không có nghĩa là các chủng sinh phải cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ, mà chỉ muốn nói rằng họ phải làm cho mối liên hệ đó tiến triển nhằm giúp cơ chế đào tạo đóng vai trò trọn vẹn hơn.
Như vậy, việc linh hướng không được tách rời khỏi cơ chế đào tạo, ngược lại, nó là thành phần không thể thiếu, tùy theo mức độ trong đó vai trò của cơ chế đào tạo là thiết lập cuộc đối thoại giữa điều mà chúng ta đã gọi là ước vọng của Giáo hội và của ứng sinh, cuộc đối thoại mang ý nghĩa và đạt tới đỉnh cao trong lời vấn đáp ngày lễ phong chức. Thật vậy, việc linh hướng nhằm giúp xem xét và tinh luyện động cơ, ý hướng của người chủng sinh, và nhờ đó giúp họ chuẩn bị cho cuộc đối thoại với Giáo hội. Một cuộc hội thảo cách đây mấy năm, có một bài tham luận về đề tài này mang tựa đề “Việc linh hướng hay sự phòng vệ của người thụ hướng”, như thể người thụ hướng có những lý do để tự bảo vệ mình trước một Giáo hội bị coi là tấn công hoặc đe dọa anh ta. Điều đó là đúng nếu như có một cuộc cạnh tranh giữa đôi bên. Chúng ta đã nhấn mạnh điều này: cả cơ chế đào tạo lẫn người linh mục tương lai đều phụ thuộc vào một thiện ích vượt cao hơn họ: đó là lợi ích của những người nam, người nữ mà người linh mục tương lai nhận lãnh trách nhiệm săn sóc mục vụ. Như vậy, hai bên cùng có chung “lợi ích”. Và sự phân định của mỗi bên được đặt trên một nền tảng chung, đó là thiện ích của Giáo hội. Chính vì vậy, các quyết định sau cùng của họ liên quan đến định hướng chức thánh thông thường phải phù hợp với nhau, vì Chúa Thánh Thần soi sáng cho cả hai, cả cơ chế đào tạo lẫn ứng sinh linh mục. Thế nhưng, việc phân định cũng là việc của con người, và có thể xảy ra là những cái nhìn khác nhau đưa đến những kết luận khác nhau. Đau lòng nhất là trường hợp một ứng sinh cứ khăng khăng theo định hướng của mình, trong khi Hội đồng chủng viện đề nghị người đó từ bỏ ý định tu trì. Từ đó cho thấy tầm quan trọng của việc trao đổi, đối thoại trong suốt quá trình đào tạo. Thật vậy, cha giám đốc chủng viện gặp gỡ mỗi chủng sinh cách đều đặn (kinh nghiệm cho thấy nhịp độ hai lần mỗi năm là tốt) để cho họ biết quá trình tiến triển của mình, theo cách thức mà Hội đồng chủng viện nhìn nhận theo tòa ngoài. Chính trong cuộc gặp gỡ này, cha giám đốc cho chủng sinh biết những điểm tích cực, đồng thời cả những nhận xét tiêu cực nhằm giúp chủng sinh sửa mình. Đôi khi, ngài phải cho chủng sinh biết những e ngại của Hội đồng chủng viện về tương lai của họ, nhằm hướng dẫn họ đặt ra những câu hỏi căn bản hơn nữa về định hướng của mình. Cuộc trao đổi giữa cha giám đốc và chủng sinh tất nhiên sẽ được lặp lại trong việc linh hướng. Cha linh hướng cần lưu tâm nhất đến việc chủng sinh đã hiểu như thế nào về ý kiến mà cha giám đốc đã nói, nhằm giúp họ suy nghĩ và tiến triển hơn trong sự phân định của bản thân.
- Người thụ hướng và cha linh hướng
Không phải cha linh hướng là người phân định, nhưng là chính chủng sinh. Chính chủng sinh là người cho ý kiến về định hướng đời mình, và là người quyết định tiến lên chức linh mục hay không. Người chủng sinh không cần phải đợi cha linh hướng chỉ bảo tương lai của mình. Cha linh hướng hiện diện ở đó là để giúp người chủng sinh phân định, và không làm thay. Chính người chủng sinh dấn thân vào cuộc, và cha linh hướng phải để cho anh được hoàn toàn tự do mà đưa ra một quyết định đầy trách nhiệm.
Một trong những cám dỗ của cha linh hướng, khi thấy người thụ hướng do dự, là tìm cách giải quyết mau chóng tình trạng lưỡng lự của họ, thay vì dùng thời gian để giúp họ định hình tính cách của mình rồi tự quyết định sự việc một cách trưởng thành. Như vậy, nói đúng hơn, không phải cha linh hướng đại diện cho cái được gọi là tòa trong (tức là nơi đưa ra nhận định), nhưng là chính bản thân chủng sinh; cha linh hướng giúp họ làm việc này: là xây dựng con người nhân bản và thiêng liêng của mình làm sao để có thể đưa ra một lựa chọn đúng đắn, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Điều này không có nghĩa là cha linh hướng giữ thái độ im lặng thụ động. Nếu ngài nhận thấy người thụ hướng đang lầm lẫn khi định hướng tiến đến chức linh mục, thì ngài phải cho anh biết điều đó. Trong trường hợp ngược lại, ngài có thể kín đáo cho biết rằng quyết định xin phong chức mà người thụ hướng đưa ra là phù hợp với quá trình phân định bấy lâu nay. Nhưng ngài phải tránh quyết định thay cho người thụ hướng, và đừng đi trước anh trong sự lựa chọn này.
- Tôn trọng tự do của ứng sinh và sự tin tưởng của họ đối với cha linh hướng
Bây giờ ta hãy trở lại với ý tưởng đã được đề xuất trên đây: trong việc đào tạo, linh hướng là nơi ưu tiên để xem xét và giáo dục ý hướng của các ứng sinh. Nơi ưu tiên có nghĩa không phải là nơi duy nhất, vì toàn bộ việc đào tạo góp phần vào đó. Tuy nhiên, chính trong khuôn khổ việc linh hướng mà người ta có thể nhìn lại và tóm kết cả cuộc đời mình; những tình tiết cuộc đời xem ra rời rạc giờ đây có thể gắn kết làm một; người ta có thể dệt nên tấm lưới đan kết các sự kiện với nhau, nhờ vào khoảng cách mà cuộc trao đổi với cha linh hướng mang lại; toàn bộ đời sống nhờ đó mặc lấy ý nghĩa, tìm thấy lối đi và định hướng, qua việc đặt mọi phần của cuộc sống vào đúng vị trí trong lịch sử bản thân.
Việc xếp đặt lại mọi sự này sẽ được làm tốt hơn nhiều nếu người chủng sinh chịu để cho ánh sáng chiếu soi cách trung thực trên những động lực, ý hướng sâu xa của mình, trên những góc mờ khuất nhất của con người mình, nhằm giúp nhận ra bản thân cách tốt hơn, và nhờ vậy cho phép cha linh hướng giúp mình cách hiệu quả nhất. Như vậy, trung thực về bản thân rõ ràng là một đòi buộc, nhưng cũng là một trong những điều kiện thiết yếu để tiến bộ về đàng thiêng liêng, để thật sự chấp nhận bản thân trước mặt Chúa, để đón nhận với sự biết ơn lòng thương xót của Chúa, để lượng giá chính xác các khả năng của mình theo cái nhìn của Chúa, và nhờ đó có đủ thành thật khi tự hiến để phục vụ Giáo hội.
Như thế, trong việc linh hướng, rõ ràng người khởi xướng không phải là cha linh hướng, mà phải là chủng sinh. Đã hẳn, cha linh hướng có thể thúc đẩy, khuyến khích, khuyên bảo, nhưng không làm thay người thụ hướng. Duy chỉ người thụ hướng có khả năng mở rộng cánh cửa tâm hồn, điều mà mọi truyền thống linh đạo đều xem là một điều kiện thiết yếu để tiến bộ về đàng thiêng liêng. Chỉ khởi đi từ việc rộng mở lương tâm này mà cha linh hướng mới có thể, bằng kinh nghiệm và sự cảm thông chân thành của mình, giúp người thụ hướng làm sáng tỏ hết sức có thể những gì còn tối tăm mờ mịt trong đời sống của họ, giúp họ nhận ra ý muốn của Chúa và đưa ra quyết định cần thiết qua việc phân định.
Điều này giả thiết người thụ hướng phải có một sự tin tưởng đặc biệt đối với cha linh hướng. Người ta không thể vén mở lương tâm và bày tỏ những động cơ sâu kín của lòng mình, nếu lo ngại trước những phản ứng của người nghe, hoặc cảm thấy không được thông hiểu, thậm chí bị xét đoán. Ít ra người thụ hướng cần được an tâm về sự kín đáo của cha linh hướng. Về vấn đề này, luật giữ bí mật phải được áp dụng. Đó là điều kiện cần thiết để người thụ hướng có thể thổ lộ với tất cả tự do. Đã xảy ra trường hợp luật này bị đặt vấn đề. Ví dụ trường hợp cha linh hướng biết được những sự kiện hoặc hoàn cảnh nào đó tự bản chất ngăn trở người thụ hướng tiến chức, ngài không có bổn phận phải nói ra sao? Trong trường hợp đó, cha linh hướng trước tiên có bổn phận phải thông báo cho người thụ hướng về trách nhiệm nặng nề họ phải chịu nếu tiếp tục tiến chức, mời họ nói ra ở tòa ngoài, yêu cầu họ đi gặp bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý nếu đó là những điều gây mất sự cân bằng tâm lý, tình cảm.
Trong một số trường hợp và nếu không có nguy cơ bị vu khống hay hiểu lầm, cha linh hướng thậm chí có thể ngừng việc đồng hành và đề nghị họ thay đổi cha linh hướng. Nhưng nếu các vị linh hướng được phép tiết lộ điều mình biết, ngay cả trong những điều kiện rất hợp lý, thì việc này sẽ làm tổn thương nghiêm trọng đến sự tin tưởng của các chủng sinh, không chỉ đối với các vị linh hướng mà còn với cả toàn bộ cơ chế đào tạo nữa; hơn thế, điều này có thể dẫn đến hậu quả tai hại: những ai cảm thấy lo lắng về tương lai của mình sẽ không còn cởi mở nữa, và như thế sẽ không được trợ giúp để suy nghĩ thấu đáo về hoàn cảnh của mình. Vậy các cha linh hướng không được can thiệp ở Hội đồng chủng viện khi liên hệ đến những người thụ hướng của mình, và thông thường trong đời sống hằng ngày, các ngài phải giữ một sự kín đáo lớn nhất về họ nữa.
Sự kín đáo này nhấn mạnh rằng việc linh hướng có mục tiêu hàng đầu là việc đào tạo con người bên trong, ở đó họ lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, ở đó, như các bậc thầy của Trường phái linh đạo Pháp thường nói, Chúa Giê-su Ki-tô được thành hình trong các tâm hồn, ở chốn sâu thẳm nhất này của con tim là nơi tinh luyện thái độ sẵn sàng với Chúa Thánh Thần và là nơi chuẩn bị lễ vật dâng lên Chúa Cha. Trong một chủng viện, hành trình chuẩn bị cho việc tiến đến chức thánh phải dựa trên nền tảng của việc đào sâu đời sống Ki-tô hữu. Người ta không thể được đào luyện tinh thần của chức tư tế linh mục mà không đồng thời tiến sâu hơn luôn mãi trong đời sống Ki-tô hữu. Không phải người ta hết làm người Ki-tô hữu khi trở thành linh mục, ngược lại, họ phải sống Phép Rửa của mình cách sâu xa hơn. Khi dấn thân phục vụ các Ki-tô hữu khác, các linh mục vẫn là anh em của họ, và sống các đòi hỏi của Tin mừng khi thi hành tác vụ. Về điểm này, còn có thể kể đến một tình huynh đệ đích thật giữa các nhà đào tạo với những người chuẩn bị tiến chức. Bên cạnh việc thực thi trách nhiệm đối với các tiến chức, trong đời sống thường ngày của mình, các nhà đào tạo cũng sống chung một tiếng gọi Tin mừng với họ. Điều đặc biệt quan trọng là việc các chủng sinh nhận thấy được rằng các nhà đào tạo của mình sống kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô, khi thi hành sứ vụ bên cạnh họ. Cũng quan trọng không kém là việc các người thụ hướng cảm thấy được rằng cha linh hướng nói với mình bằng một kinh nghiệm sâu xa, ngay cả khi ngài không hề tìm cách áp đặt kinh nghiệm đó, cũng như không muốn nhào nặn họ theo gương mẫu của mình.
Vậy chúng ta hiểu rằng việc linh hướng phải đề cập đến toàn bộ đời sống; trước hết, bởi vì không gì có thể ra ngoài Tin mừng Chúa Ki-tô; sau nữa, bởi vì khi muốn trở thành linh mục, người ta cần phải xem xét hết mọi chiều kích cuộc đời trước mặt Chúa. Có thể xảy ra trường hợp là các chủng sinh ngần ngại nói về một vài khía cạnh nào đó của đời mình, chẳng hạn về tiền bạc hay tính dục. Nhưng làm sao họ có thể cam kết sống đời độc thân mà không thể nói với một ai khác về những khó khăn, rắc rối của họ ở vấn đề này; không thể suy nghĩ cùng với cha linh hướng về cách thức sống đời tính dục của mình; và không thể đánh giá xem liệu mình có thể từ bỏ đời sống hôn nhân, gia đình để sống đời dâng hiến cách hạnh phúc mà không phải che giấu những khó khăn hay không? Đứng trước những thái độ im lặng như vậy, vai trò rất quan trọng của cha linh hướng là mời gọi các chủng sinh mạnh dạn nói về những chủ đề tế nhị mà họ thường ngần ngại đề cập. Chính đây là lúc mà mối liên hệ tốt đẹp giữa cha linh hướng và người thụ hướng sẽ có thể giúp làm cho cuộc đối thoại dễ dàng hơn. Tác giả: Lm. Bernard Pitaud, PSS
Chuyển ngữ: Lm. Nguyễn Hữu Đức, PSS
2020
Sống phụng vụ mùa Vọng và Giáng sinh
Giáo hội Công giáo sắp bắt đầu một năm phụng vụ mới.
Hằng năm, các tín hữu đều được nhắc nhở rằng Phụng vụ là một trong những hoạt động quan trọng nhất của Giáo hội, do cộng đoàn các thành viên của Giáo hội cử hành, để tưởng nhớ tới Đức Kitô và công cuộc Cứu độ Người đã thực hiện, nhờ đó hiện tại hoá giá trị cứu độ của các cử chỉ của Người vì sự thánh hoá của các tín hữu.
- NĂM PHỤNG VỤ
- Lịch sử và ý nghĩa năm phụng vụ
Công cuộc cứu độ của Thiên Chúa trải dài trong thời gian từ tạo thiên lập địa cho tới ngày cùng thế tận và trong phụng vụ của Giáo hội, được tưởng nhớ và cử hành trong chu kỳ hàng năm với những mùa, những ngày lễ đưa người tín hữu và cộng đoàn từng bước đi vào sự hiệp thông với hành động cứu độ này của Thiên Chúa, được thể hiện qua cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô: việc Người sinh ra (Giáng Sinh, cái chết và sự Phục sinh của Người và việc Người ban Thánh Thần (Hiện Xuống), việc Người sẽ đến như Người đã hứa.
Năm phụng vụ, khởi đầu với mùa Vọng gồm bốn chúa nhật, khởi đầu với chúa nhật cuối tháng mười một tới ngày 25/12, lễ Giáng sinh, và mùa Giáng sinh kéo dài từ lễ Giáng sinh tới hết ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, chấm dứt thời kỳ Chúa Giêsu sống đời sống ẩn dật tại Nazareth, mở đầu sứ vụ công khai của Người. Sau đó là mùa thường niên, giai đoạn một, từ sau lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa tới thứ Tư lễ Tro mở đầu mùa Chay chuẩn bị đại lễ Phục sinh, với tuần thánh, với ba ngày thánh tưởng nhớ một thực tại vô cùng đặc biệt : Đức Kitô vượt qua cái chết đến sự sống nhờ đó đem lại sự sống mới cho những ai tin vào Người. Mùa Phục sinh kéo dài từ lễ Phục sinh đến lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Sau lễ Hiện xuống là mùa thường niên, giai đoạn hai, kéo dài tới lễ Chúa Kitô Vua kết thúc năm phụng vụ. Năm phụng vụ kết thúc với viễn tượng về ngày Chúa quang lâm.
Phụng vụ cũng không quên gợi lại hình ảnh những con người đã làm rạng rỡ sự Thánh thiện của Thiên Chúa trong cuộc đời được cứu độ của các ngài với các ngày lễ kính các thánh được mừng vào những ngày nhất định trong năm.
Phụng vụ với những giờ kinh được đọc vào những khoảnh khắc khác nhau -sáng, trưa, chiều, tối- cũng đã muốn ghi dấu ấn của lịch sử cứu độ trên bước đi hàng ngày của thời gian.
Lịch phụng vụ đã được triển khai dần dần trong lịch sử. Việc tu chỉnh lần cuối cùng diễn ra vào năm 1969 tiếp nối công cuộc cải cách phụng vụ bắt đầu tại Công đồng Vatican II.
Các mùa và ngày lễ trong năm phụng vụ được cử hành với các mầu sắc khác nhau của lễ phục và trang trí gợi lại những tâm tình và bầu khí do ý nghĩa của việc cử hành gợi lên: mầu tím của mùa Vọng và mùa Chay; màu vàng của ngày Giáng sinh và Phục sinh, mầu trắng của những ngày lễ quan trọng khác trong năm, mầu xanh của mùa thường niên, mầu đỏ, mầu của tình yêu và tận hiến, của Đức Kitô và các thánh tử đạo, được sử dụng vào lễ các thánh tử đạo, chúa nhật lễ Lá, thứ Sáu thánh, lễ Trái Tim và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Một lần duy nhất trong năm chủ tế mang phẩm phục mầu hồng, đó là vào chúa nhật thứ ba mùa Vọng, chúa nhật “Laetare”, một thoáng niềm vui giữa màu Tím chờ đợi. Trước đây, còn sử dụng mầu đen, mầu của tang tóc, nhưng nay, mầu đen được thay thế bằng mầu tím, kể cả trong lễ tang. Niềm hy vọng sống lại vẫn chiếu sáng trong cả cái chết.
Như vậy, năm phụng vụ muốn mời gọi các tín hữu và cộng đoàn Giáo hội sống cuộc sống của mình trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa qua việc tưởng nhớ và cử hành tất cả các mầu nhiệm về Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, đã sống, đã chết và đã phục sinh và sẽ quang lâm hoàn tất công trình cứu độ của Người, khi Người là tất cả trong mọi sự.
- Ngày chủ nhật trong năm phụng vụ
Ngày chủ nhật là trung tâm của đời sống kitô hữu. Các nghị phụ Công đồng chung Vatican II khẳng định điều này, đặc biệt trong Hiến chế Phụng vụ thánh : “Theo Truyền thống Tông đồ, bắt nguồn từ chính ngày Chúa Kitô sống lại. Giáo Hội cử hành mầu nhiệm Vượt qua vào mỗi ngày thứ tám, ngày thật đáng gọi là Ngày của Chúa, hay Chúa Nhật. Trong ngày đó, các Kitô hữu phải họp nhau lại để cùng với việc lắng nghe Lời Chúa và tham dự Hiến Lễ Tạ ơn, họ kính nhờ cuộc Thương khó, sự Sống lại và cuộc tôn vinh của Chúa Giêsu, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng “đã tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động nhờ sự phục sinh từ trong cõi chết của Chúa Giêsu Kitô (1 Pr 1, 3). Vì thế, Chúa Nhật là ngày lễ rất đặc biệt phải được đề cao và in sâu vào lòng đạo đức của các tín hữu đến độ cũng trở thành ngày dành cho niềm vui và sự nghỉ ngơi. Các nghi thức cử hành khác, nếu không thật sự rất quan trọng, thì không được đặt ưu tiên hơn lễ Chúa Nhật, vì đây là nền tảng và cốt lõi của cả năm phụng vụ” (PV, số 106).
Năm 1998, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II phổ biến tông thư Dies Domini / Ngày của Chúa về việc hiến thánh Ngày của Chúa. Tông thư khẳng định ngày chủ nhật không chỉ là Ngày của Chúa, mà còn là Ngày của Đức Kitô / Dies Christi, ngày của công cuộc tạo dựng mới và của ân sủng của Đức Thánh Linh; Ngày của Giáo hội, ngày cộng đoàn kitô hữu họp lại với nhau; Ngày của con người, Dies Hominis, ngày của dân chúng, ngày mừng vui, nghỉ ngơi và của tình yêu thương.
Người kitô hữu hiện nay cảm thấy khó khăn trong việc giữ ngày chủ nhật. Có quá nhiều nhu cầu. Và càng ngày người ta càng bị lôi kéo làm việc ngày chủ nhật. Không phải vì phải làm việc cả bảy ngày trong một tuần lễ mà còn bởi việc phân công tại sở làm việc, một tuần có thể chỉ phải làm việc năm ngày, nhưng ngày làm việc có thể rơi vào ngày chủ nhật. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II viết : “Dù ở trong thời kỳ khó khăn như hiện nay của chúng ta, người kitô hữu vẫn phải luôn duy trì và trên mọi sự, phải sống tính chất ngày chúa nhật trong tất cả chiều sâu của ý nghĩa của nó…Chủ nhật của người Kitô hữu …vẫn là một yếu tố thiết yếu của căn tính Kitô giáo của chúng ta.
- Phụng vụ và Thánh Kinh
Cuộc cải cách phụng vụ của Công đồng chung Vatican II đã tạo cơ hội để tín hữu và cộng đoàn được tiếp xúc một cách rộng rãi hơn với Mạc khải của Chúa qua Thánh Kinh, đặc biệt là các sách Tin Mừng.
- MÙA VỌNG
- Ý nghĩa mùa Vọng
Năm phụng vụ bắt đầu với chúa nhật thứ nhất mùa Vọng, tức chúa nhất cuối cùng của tháng mười một, và kết thúc với lễ Giáng Sinh, 25/12.
Sách lễ Roma gọi mùa này là mùa Adventus. Từ latinh này có nghĩa là ‘đến’. Việc Chúa đến: Đến trong lịch sử, đến trong lòng tin và đến trong vinh quang ngày hoàn tất mọi sự.
Công giáo Việt Nam gọi đây là mùa Vọng. ‘Vọng’ có nghĩa là nhìn, hướng về nơi tâm trí đang tưởng nhớ, trông chờ. ‘Vọng’ nhấn mạnh vào thái độ, tâm tình của người kitô hữu, của Giáo Hội trước việc Chúa đến.
1.1. Chúa đến
Chúa đã đến vào một ngày giờ và tại một nơi nhất định trong lịch sử: Đức Giêsu, con Đức Maria, người Nazareth, sinh tại Bêlem vào « năm mười lăm hoàng đế Tibêriô chấp chính; Pontiô Philatô trấn nhiệm xứ Giuđê; Hêrôđê làm quận vương xứ Galilê và em là Philip làm quận vương vùng Iturê và Trakhônit, và Lysania làm quận vương xứ Abilênê ; dưới thời thượng tế Hanna và Caipha » (Luca 3, 1 và tt). Người là người thật như mọi con người khác, trừ tội lỗi, như thánh Phaolô khẳng định.
Là người thật, nhưng Đức Giêsu, trong lòng tin Kitô giáo, cũng là Thiên Chúa thật. Người là “Lời ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa. Mọi sự đã nhờ Người mà thành sự. Người đến trong thế gian. Người có trong thế gian. Bởi Lời đã thành xác phàm và đã lưu trú nơi chúng ta. …” (xem Ga 1, 1-15). . Mùa Vọng hướng về mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ muôn dân.
Chúa đang đến trong lòng tin kitô hữu: Đức Giêsu đã lớn lên, rao giảng Tin Mừng cứu độ, đã bị bắt, bị giết chết trên thập giá, được táng trong mồ…Là Thiên Chúa thật, Người hiện diện đặc biệt trong mỗi cử hành phụng vụ, đến với những ai tin vào Người, gặp gỡ và đồng hành với họ trong cuộc sống, để cùng với họ mở đầu, xây dựng và hoàn tất một lịch sử mới đã khởi đầu với việc Người giáng sinh làm người tại Bêlem. Công đồng chung Vatican II khẳng định : “Đức Kitô luôn hiện diện trong Hội thánh của Người, đặc biệt trong việc cử hành phụng vụ. Người hiện diện trong lễ tế hiến, nơi con người thừa tác viên, ‘tự hiến mình lúc này, qua thừa tác vụ của các linh mục như Người đã tự hiến mình khi xưa trên thập giá’, và đặc biệt trong bánh và rượu trở thành mình và máu Người” (Hiến chế Phụng vụ thánh).
Chúa Giêsu Kitô hiện diện giữa Giáo Hội của Người để cùng với Giáo Hội và từng môn đệ của Người hoàn tất sứ vụ Người giao : “Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ giữ hết mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và này, Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).
1.2. Con người chờ đợi
Bốn tuần lễ mùa Vọng tượng trưng cho bốn mươi năm dòng dõi của Abraham, Isaac, Giacob được tôi luyện trong sa mạc trống không và nóng bỏng để chỉ còn lại lòng khát khao chân thật đến được nơi Chúa đã hứa ban.
Sự khát khao và chờ đợi của những ai tin vào Chúa từng bước được lấp đầy, một cách phong phú, ngoài sức con người có thể tưởng tượng. Không chỉ là một giang sơn chảy đầy sữa và mật ong, mà là một vị Cứu độ, là người thật và là Thiên Chúa thật, Đấng ban phát nước hằng sống, Đấng ban bánh của sự sống đời đời, của sự sống mới, sự sống của những người được quyền gọi Thiên Chúa là Cha.
Mùa Vọng là mùa người kitô hữu và cộng đoàn Giáo Hội ngày hôm nay khơi dậy lòng mong muốn gặp gỡ và kết hiệp chặt chẽ hơn nữa với Đấng đã đến và đã đem lại cho mình sự sống mới. Không phải chờ đợi trong thụ động với những câu kinh, nghi lễ có sẵn, bằng lòng với những tri thức đã thu thập được về một quá khứ xa xôi trong không gian và thời gian, mà là sự chờ đợi của ngày hôm nay và lúc này, một sự chờ đợi cũng nóng bỏng với câu hỏi “chúng tôi phải làm gì?” để có thể gặp Người và kết hiệp với Người, trong cái ngày hôm nay của cuộc sống cụ thể của từng người, từng giới, từng cộng đoàn, như người đương thời của Gioan Tẩy giả đã đua nhau nêu lên khi nghe ngài loan báo Đấng sẽ đến (xem Lc 3, 10-14).
Sự chờ đợi trong tỉnh thức của những người trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn của Chúa, trong sự nhạy bén để nhận ra tiếng gọi, ý muốn, sự chờ đợi của Chúa được biểu lộ trong Thánh Kinh, trong giáo huấn của Hội Thánh và thực thi trong thực tại cuộc sống, để qua đó, được kết hiệp làm một với Đấng vốn là đường dẫn đến sự thật và sự sống.
Như vậy, sự chờ đợi của mùa Vọng dẫn đến việc chuẩn bị trí óc với việc tìm hiểu mạc khải về Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến lại, trong bối cảnh của cuộc sống riêng mỗi người, của thế giới ngày nay, của xã hội Việt Nam với những niềm vui, nỗi buồn, những vấn đề xã hội và về xã hội đang chờ đợi một lời đáp, một thái độ của niềm tin chân thật nơi Đức Kitô. Như ba nhà đạo sĩ tìm hiểu ý nghĩa của dấu sao lạ và nhận ra nơi Hài nhi yếu ớt được vấn tã đặt trong máng cỏ nghèo nàn là Đấng các ông đang tìm gặp để thờ lạy. Việc chuẩn bị con tim với những khát vọng đích thực vốn đang bị vùi lấp dưới những đống phù vân của chủ nghĩa tiêu thụ, những giá trị giả tạo đang được không ít các tiên tri giả rêu rao. Không có những khát vọng mới làm bật lên câu hỏi trong nỗi bức xúc : ‘chúng tôi phải làm gì’ của từng người, từng cộng đoàn và của cả Hội Thánh, mùa Vọng sẽ chỉ còn là sự chờ đợi của quá khứ và của kẻ khác, không phải của hôm nay và của chính mình.
Trong phụng vụ mùa Vọng, chúng ta được cảm nghiệm về Lời không thay đổi nhưng sống động của Thiên Chúa, đã hoàn tất và đang được chờ đợi hoàn tất. “Lời của Chúa được công bố trong việc cử hành các mầu nhiệm của Thiên Chúa không chỉ gợi đến những hoàn cảnh hiện tại mà hướng cả về các biến cố đã qua và hướng tới những gì đang đến”.
Việc chuẩn bị tích cực, để tiếp đón vị Thượng Khách từng được yêu mến và tin tưởng, từng được trông chờ như Đấng sẽ lấp đầy những khát khao làm người và làm con Thiên Chúa, sẽ biến mùa Vọng thành mùa của mừng vui và hy vọng, mà không phải của lo âu và sợ hãi, dù là chờ đợi Đấng sẽ đến phán xét vào ngày cùng thế tận, dù phụng vụ vắng tiếng hát kinh ‘vinh danh’ và mang màu tím, màu của khắc khổ và sám hối.
- Một số việc đạo đức
2.1. Tĩnh tâm mùa Vọng
Các giáo xứ và hội đoàn ở Việt Nam có thói quen tổ chức tĩnh tâm mùa Vọng cho các tín hữu. Có nơi dành trọn một hay hai ngày cho việc tĩnh tâm. Cũng có nơi tổ chức tĩnh tâm vào mấy buổi chiều và tối để có được bầu khí và khung cảnh thuận lợi cũng như thích hợp cho việc chiêm niệm.
Việc đạo đức này nên được tổ chức vào các ngày đầu mùa Vọng để có thể giúp các tín hữu và cộng đoàn giáo xứ bước ngay vào bầu khí của mùa phụng vụ và thấu hiểu hơn ý nghĩa của mùa Vọng nhờ đó tham gia một cách trọn vẹn hơn ngay từ buổi đầu vào mầu nhiệm cứu độ được Hội Thánh tưởng nhớ và cử hành trong bốn tuần của mùa Vọng.
Có lẽ nên hiểu Tĩnh tâm như một việc đạo đức gắn với việc cử hành mùa phụng vụ: không phải chỉ là việc dọn mình xưng tội để được rước lễ ngày lễ Giáng sinh, cũng không phải là một lớp giáo lý giúp người tham dự có thêm kiến thức về mầu nhiệm Hội Thánh đang chuẩn bị cử hành, mà chính là thời gian để đi vào mầu nhiệm trong cầu nguyện, chiêm niệm, kết hiệp và sống mầu nhiệm cứu độ đã diễn ra và cũng đang diễn ra giữa loài người. Do đó, tĩnh tâm không thể không bao gồm việc đọc Thánh Kinh để gợi lại những gì Thiên Chúa đã làm, những khoảnh khắc thinh lặng để người tín hữu cầu nguyện và chiêm niệm mầu nhiệm đã hoàn tất, những việc đạo đức để đi vào mầu nhiệm đang diễn ra ngày hôm nay và ý thức về những việc phải làm để hướng về ngày hoàn tất mọi sự.
Tĩnh tâm mùa Vọng có thể là một dịp giúp người tín hữu và cộng đoàn kiểm điểm đời sống, nhận ra đâu là những giá trị mình đang theo đuổi trong cuộc sống thường ngày, trong gia đình, trong xã hội và nơi bản thân. Người tín hữu và cộng đoàn cũng cần được giúp đỡ để khám phá ra những giá trị đích thực, bền vững mà Tin Mừng, giáo huấn cũng như phụng vụ của Hội Thánh, đặc biệt là mầu nhiệm Giáng sinh, mời gọi và trông chờ người tín hữu và cộng đoàn thực hiện, nhất là trong một xã hội lễ Giáng sinh ngày càng bị thế tục hoá.
Bởi vậy, trong cuộc tĩnh tâm, cũng nên tổ chức một cuộc sám hối tập thể, tuy không thay thế việc xưng tội riêng, nhưng cũng sẽ giúp ích không ít cho việc trở lại của mỗi cá nhân và của cộng đoàn.
2.2. Làm máng cỏ
Việc các gia đình, khu đạo và giáo xứ làm hang đá, hay máng cỏ tại gia, tại nhà thờ, thậm chí ở nơi công cộng cũng có thể được xem như một việc đạo đức giúp nâng cao lòng đạo nhân một dịp lễ đặc biệt của năm phụng vụ, miễn là việc làm này không bị biến thành cơ hội để phô trương, lãng phí tiền bạc, của cải và thời gian, qua đó, trở thành dịp để người tín hữu và cộng đoàn ‘chia trí’, sao nhãng bài học đích thực của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đã chọn khung cảnh nghèo, giản dị của người dân bình thường để ra đời làm người.
Làm máng cỏ trong gia đình không đơn thuần là việc trang trí nhà cửa, việc bày ra một máng cỏ, một hang đá có sẵn hay được mua tại tiệm sách đạo, nhưng có thể là dịp để gia đình thông hiệp với mầu nhiệm Giáng sinh ngày hôm nay và cùng với các thành viên của gia đình. Việc làm máng cỏ này cũng có thể là một dịp để cha mẹ giáo dục con cái một cách cụ thể về bài học của Giáng sinh, một cơ hội để giảng dạy, qua bộ tượng các nhân vật của máng cỏ, về vai trò của Đức Maria, của thánh Giuse, các mục đồng, của ba nhà đạo sĩ… Chẳng hạn, mỗi tuần của mùa Vọng có một buổi tối cả gia đình cùng tụm lại để làm máng cỏ, và người lớn tuổi sẵn sàng giải thích cặn kẽ từng câu hỏi của các bé nêu lên khi cầm tượng các nhân vật của hang đá. Các trẻ trong gia đình cũng có thể mời bạn bè, hàng xóm tới cùng làm hang đá. Việc làm hang đá hay máng cỏ này có thể kéo dài suốt mùa Vọng, tượng các nhân vật lần lượt được đặt ra theo hành trình của Đức Maria và thánh Giuse trên đường tới Bêlem và tới hang đá như được mô tả trong hai sách Tin Mừng Matthêu và Luca, đoạn 1 và 2. Mỗi chặng đường của cuộc hành trình có thể là một dịp để gia đình đọc một đoạn sách Thánh và cầu nguyện với Thánh gia.
- Cử hành bí tích trong mùa Vọng
3.1. Bí tích Thánh Tẩy
Mùa Vọng chuẩn bị lễ Giáng sinh là thời gian thích hợp để gợi lại bí tích Thánh Tẩy người tín hữu đã lãnh nhận, để giáo huấn và cử hành bí tích Thánh Tẩy cho người trưởng thành cũng như trẻ mới sinh, vì mùa chuẩn bị lễ Giáng sinh đầy ắp những biểu tượng : Như Đức Maria chờ đợi mọi sự diễn ra theo Lời Chúa (Lc1, 38), người chầu nhưng cũng chờ đợi bí tích Thánh Tẩy để được sinh ra với sự sống mới. Mùa Vọng cũng là mùa chuẩn bị cho ánh sáng chiếu rạng trong đêm Giáng sinh : “Đêm hầu tàn, ngày sắp đến. Vậy ta hãy vất bỏ những việc tối tăm, và hãy mặc lấy khí giới sự sáng” (Rm 13, 12)…
Các bài đọc về thánh Gioan Tẩy giả khiến chúa nhật thứ hai và thứ ba mùa Vọng thành thời gian đặc biệt thích hợp cho việc cử hành bí tích Thánh Tẩy trong bối cảnh của phụng vụ chúa nhật. Nghi thức rửa tội trẻ em cũng có nhiều quy chiếu về việc Chúa đến lại lần thứ hai như việc trao cây nến thắp sáng cho trẻ với lời kèm theo: “Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô. Anh chị em là những bậc làm cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom, tức là lo lắng cho trẻ nhỏ này đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin. Nhờ đó, khi Chúa đến, chúng được ra nghênh đón Người với toàn thể các thánh trên trời”.
Với những ai được tái sinh với Đức Kitô trong bí tích Thánh Tẩy, thời kỳ chuẩn bị Đấng cứu chuộc ra đời cũng mang màu sắc thanh tẩy. Như Đức Giêsu sinh ra từ cung lòng Đức Maria, cũng vậy, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa. Trong bí tích Thánh Tẩy, chúng ta nhận được lời mời gọi chuẩn bị đường cho Chúa đến bằng các công việc của lòng bác ái và công bình. Các bài đọc của chúng ta trong suốt mùa này cũng nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của kẻ thấp bé và nghèo khổ.
3.2. Nghi thức sám hối
Mùa Vọng được thiết lập, khởi đầu, như một mùa sám hối chuẩn bị cho cuộc phán xét cuối cùng và người Công giáo theo truyền thống dùng mùa Vọng để dọn lòng xưng tội mừng lễ Chúa Giáng sinh. Các bài đọc và lời cầu nguyện của mùa Vọng phản ánh hai tính chất của mùa Vọng : dọn mình xứng đáng tiếp đón Chúa; qua việc sám hối, chúng ta trở nên sẵn sàng trong tâm trí trước việc Chúa đến.
3.3. Chăm sóc mục vụ cho kẻ liệt
Mặc dù mùa Vọng là một thời gian bận rộn, tuy nhiên, cộng đoàn giáo xứ và đặc biệt các linh mục, giáo sĩ phụ trách và phục vụ giáo xứ cũng không nên quên những người bệnh, những người đau yếu không còn khả năng thể xác để tham dự các cử hành phụng vụ trong mùa Vọng. Hơn ai hết, họ là những người chờ đợi Chúa đến với họ trong những giờ phút thử thách của bệnh tật này, do đó, cộng đoàn giáo xứ nên tổ chức viếng thăm, đưa Mình Thánh Chúa…những người bệnh không thể tới nhà thờ cử hành phụng vụ với cộng đoàn.
III. Ý NGHĨA MÙA GIÁNG SINH
Mùa Giáng sinh là mùa thi vị nhất của năm phụng vụ. Các bài ca ghi dấu ấn sâu đậm nhất trong ký ức người kitô hữu là các bài ca Giáng sinh. Những Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Cao cung lên, Đêm thánh vô cùng…Và những đĩa nhạc Noel ngoại quốc hàng năm nghe đi nghe lại vẫn thấy hay.
Nhưng Giáng sinh không phải chỉ là ngày lễ của những ký ức xa xôi từ thuở nào và của thời hiện tại. Phụng vụ Giáng sinh đưa chúng ta đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa khi nhắc nhở cộng đoàn Giáng sinh chính là “ngày lễ của sự cứu độ chúng ta” (collecta, lễ đêm), sự khởi đầu của việc cứu chuộc chúng ta” (lời nguyện dâng lễ, lễ Đêm). Giáng sinh là sự khôi phục trật tự của vũ trụ khi Thiên Chúa và nhân loại lại kết hợp làm một qua việc làm con của Chúa Giêsu Kitô : “…” (Lời nguyện dâng lễ, lễ Đêm).
Giáng sinh là một lễ của ánh sáng. Ánh sáng chiếu trong đêm tối. Ánh sáng không chỉ chiếu trên chúng ta mà trong chúng ta .
Giáng sinh không phải là thời để hoài cổ mà kêu gọi chúng ta tham gia tích cực vào mầu nhiệm, một kế đồ đã bắt đầu được triển khai với mầu nhiệm Nhập thể : Con Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta để cứu độ chúng ta. Giáng sinh như vậy không phải là ký ức về một sự kiện đã diễn ra tại Bêlem, vào một đêm nọ, cách nay trên hai ngàn năm, mà còn là và nhất là sự kiện của hôm nay và tại đây. Cái ‘hôm nay’ của Đức Mẹ Maria, của thánh Giuse, của các người mục đồng cũng là cái ‘hôm nay’ của chính chúng ta.
Các hoàn cảnh lịch sử nhất định đã có ảnh hưởng trên sự phát triển các điểm nhấn của lễ và mùa Giáng sinh. Tin Mừng Giáng sinh được viết sau cùng. Sang thế kỷ IV, trước trào lưu mang tên Arius, phủ nhận thiên tính của Chúa Giêsu, tại Công đồng Nixêa (325), Giáo hội tuyên xưng Chúa Giêsu là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật…Làm một với Thiên Chúa Cha” (Kinh Tin kính của công đồng Nixêa). Như vậy, Chúa Giêsu không chỉ thuần tuý là một tạo vật thánh thiêng của Thiên Chúa, mà Người là Thiên Chúa toàn năng, ở cùng Thiên Chúa từ nguyên thuỷ, “được sinh ra mà không phải tạo thành” (ibid).
Một hoàn cảnh lịch sử khác cũng có ảnh hưởng trên sự phát triển của lễ Giáng sinh hay đúng hơn, cho việc mừng lễ Giáng sinh vào ngày 25/12. Đó là vào năm 274, hoàng đế Aurelius đã quyết định ngày 25/12 –ngày đông chí-là ngày dâng kính Natale Solis Invicti, một ngày lễ của lương dân kính “Thần Mặt Trời vô địch”. Vì có nhiều đoạn Thánh Kinh khẳng định Đức Kitô là ánh sáng, ánh sáng của thế giới, nên cũng dễ hiểu khi Giáo hội ‘rửa tội’ cho ngày lễ này của người lương, và biến việc kính mặt trời thành việc kính Mặt Trời công chính.
Một lý do khác nữa của việc lễ Giáng sinh được mừng vào ngày 25/12: các kitô hữu tiên khởi cho rằng Chúa Giêsu sinh ra vào ngày 25/12. “Vào buổi đầu thế kỷ thứ ba, các nhà thần học Kitô giáo đã tính toán về ngày sinh của Đức Giêsu vốn không được ghi trong các sách Tin Mừng. Biểu tượng Chúa Kitô Mặt Trời cắm rễ sâu trong ý thức của người kitô hữu khiến họ có sự quan tâm đặc biệt tới các thời điểm phân và điểm chí” (Năm phụng vụ, trg. 123). Và hậu quả là sự kiện ông Gioan Tẩy giả ra đời được đặt vào ngày hạ chí (“Tôi phải bé đi”, Ga 3, 30), và Chúa Giêsu ra đời sáu tháng sau, vào đông chí “Và Người phải lớn lên”, ibid.). Đối với những con người có cuộc sống gắn với mặt trời, mặt trăng và các mùa hơn chúng ta, những thời gian này có ý nghĩa rất đặc biệt. Các Kitô hữu tiên khởi có thể đã coi sự Nhập thể của Chúa –ra đời, chết và sống lại – được khắc ghi trong vũ trụ.
Giáng sinh là một ngày lễ trọng thể như ngày lễ Phục sinh, quá lớn để chỉ được mừng trong một ngày duy nhất : Giáo hội đã dành một thời gian dài để suy niệm về mầu nhiệm trọng đại này. Tuần bát nhật lễ Giáng sinh được cử hành một cách đặc biệt trọng thể. Ngày chúa nhật trong tuần bát nhật, chúng ta tiếp tục mừng sự nhập thể của Đức kitô, từ một nhãn giới khác với lễ kính Thánh Gia của Đức Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuần bát nhật kết thúc với lễ kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vào ngày 1/1, ngày lễ trọng thể đầu tiên kính Đức Mẹ Maria, kết quả của Công đồng Êphêsô.
Mùa Giáng sinh tiếp tục với lễ trọng thể sự Hiển Linh của Chúa, mừng việc Chúa Kitô “tỏ mình” ra. Hiển Linh trong truyền thống thường được mừng ngày thứ mười hai sau lễ Giáng sinh (6/1), và là một ngày lễ nghỉ. Nhưng tại những nơi lễ Hiển Linh không phải là lễ nghỉ, thì được dời vào ngày chủ nhật. Mùa Giáng sinh kết thúc với lễ kính Chúa Giêsu chịu phép Thánh Tẩy. Với việc Chúa Giêsu chịu Thánh tẩy, kết thúc thời kỳ ẩn dật của Chúa Giêsu và bắt đầu thời kỳ sứ vụ công khai của Người. Các mùa và ngày lễ tiếp theo của năm Phụng vụ sẽ cho chúng ta được đi tiếp với Đức Kitô trong những đoạn đường tiếp theo của sứ vụ của Người.
Kết luận
Như vậy, năm Phụng vụ Giáo hội vừa mở đầu, với những mùa, những ngày lễ, với những bài đọc, lời kinh, câu hát đã được ấn định, chính là lời mời gọi các cộng đoàn và từng người tín hữu ý thức và tích cực sống trong sự hiệp thông với công cuộc cứu độ Thiên Chúa đang thực hiện giữa cộng đoàn phụng vụ.