2023
Nỗi nhớ điệp vàng
Nỗi nhớ điệp vàng
Phượng đỏ thắm lên góc trời mơ
Bằng lăng uốn mình bay theo gió
Thời gian ôm ấp kỷ niệm thơ!
Khi ánh nắng vàng ngày hạ dần chói chang, cánh phượng đua nhau khoe sắc thắm, và nơi nào đó trong trái tim các sinh viên năm cuối tại trường Thần học Têrêsa de Ávila dâng trào nỗi chơi vơi. Không chơi vơi sao được bởi quãng đời học tập nơi mái Nhà trắng đang khép lại. Ba năm – một chặng đường cùng nhau đèn sách, cùng nhau chia sẻ nhiều điều trong đời dâng hiến đến từ những nữ tu của các Dòng tu. Mỗi người mỗi vẻ, rất riêng nơi linh đạo và đặc sủng, nhưng cũng rất chung khi cùng mục đích tìm kiếm Chúa nơi những môn khoa học thánh.
Mái trường in dấu sự hy sinh âm thầm của bao đấng bậc đã qua đi và tấm lòng quảng đại từ những con người đang cống hiến cho sự nghiệp vun trồng mùa gặt tương lai. Hai mươi năm hình thành và phát triển, ít nhiều Học viện Thần học đã khẳng định được tầm quan trọng trong công việc đào tạo cho cánh đồng truyền giáo. Chính nơi mái trường, nhiều thế hệ đã và đang tiếp tục vươn xa hơn để phục vụ nhiều nơi trong cũng như ngoài giáo phận. Điều đó thật đáng trân quý.
“Thời gian sẽ qua đi, thanh xuân sẽ qua đi” (Reply 1988), tuy nhiên những gì mỗi học viên góp nhặt được qua từng bài học hoặc những kinh nghiệm thực tế sẽ trở thành một phần trong ký ức. Tương lai mỗi học viên đã đi qua mái trường này. Lịch sử đang tiếp diễn, có lúc sang trang, và lịch sử mỗi học viên đã từng được đan dệt bằng nhiều hy sinh cố gắng của bao người cũng như của chính bản thân nữ tu sinh viên khi theo học tại đây.
Ba năm theo học, hành trình ấy không quá dài nhưng là khoảng thời gian tương đối để mỗi nữ tu góp nhặt hành trang cho sứ mạng mà Giáo Hội hay Hội Dòng mong muốn. Đến khi khép lại, có lẽ tâm tình mà mỗi người muốn nói nhất là lời tạ ơn. Tạ ơn vì muôn hồng ân Thiên Chúa tuôn đổ từng ngày. Tạ ơn vì công sức của các đấng bậc để rồi từ đó, mỗi học viên có được điều kiện tốt nhất cho việc học hành của mình. Tạ ơn vì sự tin tưởng mà Hội Dòng và gia đình đã trao gửi nơi mỗi người con. Chỉ cần nghĩ đến điều đó thôi cũng khiến trái tim rưng rưng cảm động.
Niềm vui và sự bỡ ngỡ ngày vào trường lui dần nhường chỗ cho nỗi chênh vênh vương vấn ngày ra trường. Tất cả chỉ còn là hoài niệm và hành trang mang theo là lòng biết ơn với những gì đã học được để đưa vào con đường sứ vụ. Khi cổng trường khép lại thì cánh cửa mới đang mở ra nơi cánh đồng truyền giáo. Hy vọng sức trẻ, lòng nhiệt thành hăng say phục vụ và tình yêu đến với Chúa qua tha nhân luôn bừng cháy nơi tâm hồn mỗi học viên.
Điệp vàng nở rồi tàn, rồi lại nở – đó là vòng luân chuyển của thời gian. Nhưng hành trình con người đi là đường thẳng, một đi không trở lại. Mái trường mãi là ký ức, là phần giúp ta lớn lên, là kỷ niệm mỗi khi nhớ về. Tất cả sẽ qua đi và điều còn lại được thể hiện qua lòng tri ân trong cuộc sống với những gì đã học và trải nghiệm. Ước gì mỗi học viên Học Viện Thần học sẽ luôn là chứng nhân sống động trong từng môi trường khác nhau để nén bạc Chúa trao luôn kết trái đơm bông.
Tác giả: Mary Đào
2023
Chuyện điều răn thứ nhất…
♦ Giuse Nguyễn Đình Trường – Học Viện Ngôi Lời
“Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng : “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất ?” Đức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất”. (Mt 22, 35 -38)
“Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”, phó từ “hết” gợi lên mức độ cao nhất trong hành động, một sự trọn vẹn. Điều đó thực sự là một thách đố thực sự cho người Kitô hữu. Bởi lẽ, lòng yêu mến Thiên Chúa tột độ như vậy đòi hòi nơi chúng ta một đời sống sao cho cân xứng. Dĩ nhiên, chúng ta phải buông bỏ “những ngẫu tượng” mà lâu nay chúng ta vẫn yêu mến, vun vén và gắn bó. Vậy điều răn thứ nhất có chăng là một gánh nặng?
Mang lấy một gánh nặng bên mình?
Văn hào người Nga Leon Tonstoï có một câu chuyện với đại ý như sau: “Một người hành khất nghèo đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí, sau những van xin thì điều ông nhận được không phải là bánh ăn hay những đồng xu mà là một cục đá ném vào con người khốn khổ. Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào túi, đi đâu, cũng mang theo hòn đá ấy, mong một ngày tìm lại được người giàu có kia để ném cục đá ấy vào ông nhà giàu”.
Một câu chuyện ngụ ngôn tưởng chừng chẳng trúng trật hay liên hệ gì với “câu chuyện của điều răn thứ nhất” nhưng chúng ta có thể thử làm một phép loại suy như sau: Thiên Chúa trong thế đứng của Ngài có lẽ cũng tựa như một “ông chủ giàu có”, nơi người sung mãn mọi sự, Ngài là Vua cả vũ hoàn, mọi sự trên trời dưới đất đều là của Ngài. Đối lại, trong thân phận của một thụ tạo với những yếu đuối, mỏng giòn, chúng ta chẳng khác nào “người hành khất nghèo” trong “cuộc lữ” với bao khốn khổ tư bề. Chúng ta chạy đến kêu cầu cùng Chúa để mong được những điều tốt đẹp, “những mẩu bánh hay đồng xu”. Thế nhưng, chúng ta lại nhận được một “hòn đá” thật to, thật nặng nề mà chúng ta phải mang theo bên mình kể từ đó: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Yêu mến Thiên Chúa mà thôi là chưa đủ nhưng còn phải yêu mến chỉ một mình Người với trọn cả con tim, linh hồn và trí khôn. Đó chẳng khác nào “cục đá” mà ông nhà giàu ném cho người hành khất.
Dĩ nhiên, một lối loại suy như trên thật là quá khập khiễng nhưng thiết nghĩ, nó phần nào diễn tả thái độ mà chúng ta đang tuân giữ điều răn của Thiên Chúa. Điều đó muốn phản ánh một sự thật rằng đôi khi chính chúng ta cũng đang sống giới răn của Thiên Chúa với một tâm thế tiêu cực như vậy. Chúng ta sống vật vờ với những giới răn, cảm thấy thật nặng nề và ngột ngạt. Chúng ta thấy khó chịu trước lệnh truyền của Thiên Chúa nhưng vẫn phải mang theo nó trên suốt hành trình đức tin, trên cuộc lữ hành của mình, để đi tìm Thiên Chúa. Chúng ta đi tìm Ngài mà chẳng biết đi đâu, đến bao giờ hay sẽ mãi chẳng bao giờ gặp được, tựa như ông hành khất mang cục đá bên mình đi tìm người giàu có.
Những người ngoài Kitô giáo vẫn xem những giới răn của Thiên Chúa ban cho con người chẳng khác gì những sự ràng buộc, gò bó, trong khi con người, đang hơn bao giờ hết, tha thiết sự tự do, “sự giải phóng”. Hay nói theo kiểu của triết gia Friedrich Nietzsche, con người cần phải “giết Thượng Đế để con người được làm Chúa”. Và nếu như chính chúng ta, những người Kitô hữu cũng cảm thấy giới răn của Thiên Chúa là “một gánh nặng” cần được phải “quẳng đi”, điều đó thật nguy hại biết bao.
Quả thật, nhìn nhận giới răn thứ nhất tựa như một gánh nặng là một lối nhìn tiêu cực trong cách thức tuân giữ lệnh truyền của Thiên Chúa.Thế nhưng, trớ trêu thay, điều đó lại đang xảy ra nơi chính thực tế đời sống của chúng ta. Một gánh nặng mà đôi lúc mỗi người đã chẳng dám thừa nhận hay không dám đối diện hoặc thậm chí là cố chịu đựng vậy. Dĩ nhiên, điều đó không làm đẹp lòng Thiên Chúa. Bởi lẽ, những lệnh truyền của Thiên Chúa là Thần Khí và là Sự Sống (x. Ga 6,63), để cho chúng ta, những người tuân giữ, “được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10), chứ không phải để trở nên “gánh nặng” như vậy.
Vậy đâu là lối nhìn cần có khi giữ giới răn thứ nhất?
“Người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người đáp: “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”” (Lc 10, 25-28).
Nhìn dưới một góc nhìn khác, điều răn thứ nhất phải là một lời mời gọi, một phương tiện vươn tới Thiên Chúa thay vì một gánh nặng. Có lẽ “cục đá” mà người hành khất mang theo bên mình lại cách nào đó trở nên một phương thế giúp ông tìm kiếm và kiên trì tìm kiếm ông nhà giàu năm xưa trong suốt hành trình của mình.
Là những người Kitô hữu, hẳn chúng ta đã rõ về đích điểm của hành trình cuộc đời, đó là được hưởng kiến Thiên Chúa, hay nói cách khác là tìm gặp được Ngài. Hành trình ấy thực sự là một cuộc tìm kiếm và vươn lên không ngừng, những sẽ thật đáng lo ngại khi chúng ta thường quên mất điều đó. Bởi lẽ, hành trình bước theo Thiên Chúa vẫn còn lắm những chông gai và đôi lúc, chúng ta bị lạc mất phương hướng. Chúng ta thường chọn yêu mến những “sự dịu êm” của đời này hơn những giới răn tưởng như nặng nề của Thiên Chúa. Thế nên, chính trong bối cảnh như vậy, điều răn thứ nhất mà Đức Giêsu trao ban lại càng trở nên giá trị biết bao, đó là kim chỉ nam cho chúng ta, “cứ làm như vậy là sẽ được sống” (x. Lc 10, 28). Lệnh truyền ấy mời gọi và dẫn lối chúng ta không ngừng kiếm tìm Thiên Chúa với trọn cả con tim, linh hồn và lý trí. Chính giới răn của Thiên Chúa sẽ kéo chúng ta thoát khỏi vũng bùn tội lỗi và nâng chúng ta vươn lên tới Ngài. Nhờ đó, chúng ta vững bước trong đường lối và thánh ý của Ngài. Đó cũng là dấu chỉ biểu lộ lòng yêu mến của chúng ta đối với Thiên Chúa, bởi lẽ, còn yêu mến là còn kiếm tìm.
Dĩ nhiên, chúng ta không thể phủ nhận việc tuân giữ giới luật thứ nhất của Thiên Chúa thực sự là một thách đố, vì lẽ, nó chất vấn cuộc sống của chúng ta mỗi ngày và trong từng khoảnh khắc, “Thiên Chúa đã thực sự là chủ cuộc đời tôi hay chăng?”. Thế nhưng, bên cạnh đó, lệnh truyền mà Đức Giêsu truyền dạy thực sự là phương tiện giúp chúng ta định hướng và kiên vững trong hành trình hướng về Nước Trời. Đó mới là lối nhìn cần có khi tuân giữ giới răn của Thiên Chúa. Và nếu điều đó giúp chúng ta đạt tới cứu cánh đích thực của mình thì đó hẳn là một phương thế tốt đẹp. Vậy phải chăng một phương tiện hỗ trợ tốt đẹp lại có thể là một gánh nặng được?
Tóm lại
Thiết nghĩ, trong tâm tình Mùa Chay, mỗi người được mời gọi trở về với cõi lòng mình để tự vấn với giới răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Yêu mến một vị Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước bằng “một mối tình muôn thuở” (x. Gr 31, 3), một vị Thiên Chúa đã trao nộp chính Con Một Yêu Dấu của mình vì tất cả chúng ta (Rm 8,31-32). Có lẽ, trước tình yêu của một vị Thiên Chúa như thế, chúng ta đáp trả Ngài bằng tình yêu, đó quả là điều“chính đáng và phải đạo”. Hơn nữa, nhờ yêu mến vị Thiên Chúa ấy hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, chúng ta, “những kẻ được Thiên Chúa chúc phúc” sẽ được“lãnh nhận phần gia nghiệp là Nước Trời” (x. Mt 25, 34).
2023
Lần theo cuốn sách nổi tiếng của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận
Lần theo cuốn sách nổi tiếng của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận
Trong thời gian Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận bị quản thúc tại Nhà thờ Giang Xá thuộc TGP Hà Nội, 1978-1982, ông T.L, một giáo dân thuộc Giáo xứ Chính tòa Hà Nội có dịp tiếp xúc nhiều với Ngài. Chúng tôi đến gặp ông để nghe lại những câu chuyện xưa.
Chính trong thời gian ở tại Giang Xá, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết hai cuốn sách nổi tiếng là Đường Hy vọng dưới ánh sáng lời Chúa và Công đồng Vaticano II và cuốn Những người lữ hành trên Đường Hy
vọng.
Tôi theo chân ông T.L lên cầu thang gỗ dựng đứng trong căn nhà nhỏ tại phố cổ Hà Nội. Trên những kệ đầy sách, ông rút ra cuốn Đường Hy vọng đã bám màu thời gian, phủ đầy những kỷ niệm về Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Đôi tay hơi run, ông lật giở từng trang để chỉ cho tôi thấy và kể cho tôi nghe những câu chuyện về Đấng Đáng kính.
Đạp xe 20 cây số để gặp Đức Hồng y
Từ năm 1978 đến 1982 Đức Hồng y ở tại nhà thờ Giang Xá thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội. “Khi đó ở Hà Nội, một số tín hữu đã bắt gặp được nhiều tư tưởng mới của Ngài về đời sống đức tin dưới ánh sáng Công đồng Vaticano II. Nhóm chúng tôi chừng 4, 5 người thường đạp xe đến Giang Xá, cách trung tâm Hà Nội gần 20 km để có thể gặp gỡ Ngài. Mối thân tình cha con bắt đầu từ đó và càng gần gũi hơn khi Ngài ở tại Tòa Tổng Giám mục Hà Nội những năm 1988 trở đi”, ông T.L kể.
“Ngài bình dị lắm!”, đôi mắt trầm ngâm của ông T.L khép lại để truy hồi về một thời được cận kề bên Đức Hồng y. “Lúc đó, rất ít giáo dân được tiếp xúc với Ngài vì đang trong thời gian quản thúc. Căn phòng nhỏ của Ngài đơn giản hết mức có thể với bộ tràng kỷ cũ, chiếc giường cùng vật dụng cá nhân”.
Về cuốn sách Đường Hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Công đồng dày 533 trang, để trong tấm bìa da xanh sẫm, khổ nhỏ bằng n a tờ A4, ông kể: “Hôm đó tôi cùng bà xã qua thăm Đức Hồng y để trò chuyện. Ngài chia sẻ với chúng tôi rất nhiều trăn trở về đời sống đức tin của giáo dân Việt Nam hiện tại.
Sau đó, Ngài lấy ra cuốn sách kèm tập tranh màu nho nhỏ đem từ Roma về. Đó là những bức tranh về các loài hoa kèm những câu trích thiêng liêng bằng tiếng Ý. Do vợ chồng tôi không thông thạo ngoại ngữ nên Ngài vừa dán ảnh vào những khoảng trống ở đầu các chuyên mục vừa ân cần giải nghĩa cho chúng tôi. Ngài còn tự tay viết những câu trích dẫn trong tranh bằng tiếng Việt ngay bên cạnh. Cả thảy có sáu bức như thế!”.
Nhiều người lo ngại vì sức ảnh hưởng của cuốn sách
Lúc đó, điều kiện in ấn hết sức khó khăn. Giấy dùng để in khi ấy là giấy ngả vàng thời bao cấp, số lượng phát hành sách của Đức Hồng y cũng chỉ tới trăm cuốn là cùng.
Vì vậy, những cuốn sách “đời đầu” này cực kỳ hiếm và ít ai có được. “Gia đình tôi thì coi đó như một kỷ vật quý giá, một dấu ấn khó phai với cố Đức Hồng y. Không chỉ thế, nó còn là những tư tưởng, ánh sáng dẫn đường cho đời sống của nhà tôi. Chính vợ tôi đã ghi lại những dòng chữ ở đầu cuốn sách để có thể ngừng lại, ngẫm suy về những điều Đức Hồng y viết”.
Những dòng chữ bà viết lại mờ mờ theo cái lướt đi của thời gian nhưng vẫn còn đậm suy tư: “Những khi quá mất mát đắng cay/ Những lúc gần gục ngã trong cuộc sống/ Con lại đọc sách này/ Để tâm hồn náo nức mê say/ Từng giờ từng phút từng giây”.
Theo ông T.L, cuốn sách Đường Hy vọng làm cho nhiều người lo ngại vì sức ảnh hưởng của nó. Thêm nữa, Tu hội Hy vọng do chính ngài lập ra cũng hoạt động khá mạnh mẽ giữa thời thế nhiều biến đổi. Chính những ý tưởng Hy vọng của Ngài đã làm thức tỉnh, truyền cảm hứng cho giáo dân trong đời sống đức tin cũng như thường nhật. Ba bộ vãn dâng hoa kính Đức Mẹ tại Tổng Giáo phận Hà Nội lần lượt được viết trong thời gian đó cũng đượm tinh thần Hy vọng của Đức Hồng y!
Một tình yêu với Huế qua những điều nhỏ nhặt
“Cha đã đi một quãng đường/ Hân hoan có, gian khổ có nhưng luôn tràn trào hy vọng”. Đó là lời mà Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nói về Ngài và quả thực cuộc sống của Ngài đã như những gì Ngài nói.
Ông T.L tiếp tục nhặt nhạnh tiếp trong ký ức của mình về những hình ảnh một người Cha hy vọng luôn luôn trong đời sống vốn nhiều trúc trắc.
“Ngài có một tình yêu đối với Huế của mình qua những điều nhỏ nhặt. Có lần tôi gặp Ngài, Ngài kể nhiều về món tré của người cố đô với tình yêu dung dị”. Trong thời gian Ngài ở gần chỗ Công viên Thống Nhất hiện nay, thấy mấy anh công an canh giữ ngài đang đọc, viết gì đó, Ngài hỏi: “Các anh học gì đấy?”. Họ đáp: “Chúng cháu học ngoại ngữ chuyên ngành”. Khi đấy, Ngài bảo các anh đưa giấy, bút và những từ cần phiên dịch. Ngài đã viết mấy ngàn từ chuyên ngành với nhiều thứ tiếng, từ Việt, Anh, Pháp, Nga.
“Có lẽ kể về Đức Hồng y mãi thì chẳng hết được vì nhiều lắm!”, ông T.L trầm tư. Đức Hồng y bình dị trong những công việc nhỏ bé mà lại có những cái nhìn rất xa cho tương lai Giáo hội. Nhiều lần Ngài chia sẻ tâm nguyện mua một miếng đất bên sông Hồng để xây một ngôi nhà thờ kính các thánh tử đạo Việt Nam.
Những lo lắng của Ngài về chủng sinh, linh mục với trăn trở “khi ở Chủng viện thì các thầy theo luật của Chủng viện, còn khi làm cha rồi thì theo luật của mình”. Ngài còn lo xa cho hàng giáo phẩm tại miền Bắc sau này vì nhân sự còn quá yếu.
“Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”. Mượn câu trích trong Đường Hy vọng của cố Đức Hồng y để tạm khép cuốn sách kỷ niệm về Ngài, về những câu chuyện vắn vỏi của Ngài tại Hà Nội.
Những ý tưởng đó sẽ mãi vương vấn, nảy mầm trong mưa hồng ân của Thiên Chúa. Và rồi, mỗi chấm, mỗi phết qua đi trong cuộc đời đều là mỗi phết, mỗi chấm của Hy Vọng.
Ngày 4-5-2017, Ủy ban Hồng Y và Giám mục thuộc Bộ Tuyên Thánh tại Vatican đã biểu quyết đồng loạt chấp nhận án tuyên thánh của tôi tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Với bước ngoặt quan trọng này, Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận sẽ tiến gần hơn đến việc được phong Chân Phước và cuối cùng là được tuyên Hiển Thánh. |
AN DUYÊN
2023
Người Việt đầu tiên soạn từ điển là Công giáo
Người Việt đầu tiên soạn từ điển là Công giáo
Đã 113 năm từ khi ông Huỳnh Tịnh Của qua đời. Cuộc đời, sự nghiệp và công trạng của ông đối với việc phát triển chữ quốc ngữ đã được lịch sử ghi nhận và tri ân. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều điều bí ẩn quanh cuộc đời ông chưa tìm được lời giải. Ông chính là người Việt đầu tiên biên soạn từ điển.
Tên của ông là Huỳnh Tịnh Của, ông còn có ngoại hiệu là Tịnh Trai và tên thánh là Paulus, tức là ghi theo tiếng Latin hay tiếng Đức, còn Việt Nam phiên âm đọc là Phaolô.
Bậc kỳ tài nhiều bí ẩn
Lẽ thường với người Công giáo, tên thánh sẽ đặt trước tên thật (hoặc cả họ tên) và ông Của đã nhiều lần sử dụng cách đặt tên này trong các tác phẩm của ông, như ký tên là Paulus Của hoặc P. Của, có sách ông ký tên là Paulus Của Huình-Tịnh.
Thế nhưng, trên một số tác phẩm, trong đó tác phẩm nổi tiếng Đại Nam quốc âm tự vị, ông lại ký tên là Huình- Tịnh Paulus Của, một cách đặt tên hoàn toàn khác với mọi người, thậm chí khác với chính cách đặt tên của ông trước đó. Họ của ông, ông không viết chữ Huỳnh, mà viết là Huình. Thậm chí trong tác phẩm Trần Sanh diễn ca, ông ký tên là Hoàng-Tịnh Paulus Của.
Năm sinh của ông có những thông tin khác nhau, quê quán của ông cũng chưa được xác định rõ. Ngay cả khi đi tu, học đến chức thầy Tư rồi hoàn tục cưới vợ không rõ vì sao. Tác phẩm của ông cũng bị nhầm lẫn nhiều, nghề nghiệp báo chí cũng chưa được xác định rõ ràng về thời điểm, chức vụ.
Thậm chí, ngay cả hình dáng của ông thế nào cũng không ai rõ vì không có ảnh hay truyền thần lưu lại như những bạn bè đương thời.
Làm việc cho Pháp mà không bị coi là Việt gian
Theo tài liệu được đánh giá khá xác tín là luận văn thạc sĩ của ông Nguyễn Văn Y tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn thì Huỳnh Tịnh Của sinh năm 1830 tại làng Phước Tuỵ, tỉnh Bà Rịa. Đây là vùng giáo dân chạy nạn trong các cuộc đàn áp đạo trước đó về nương náu. Do từ nhỏ ông tỏ ra thông minh, hiếu học nên năm 12 tuổi được gửi sang tu học ở Penang Malaysia cho đến khi xuất tu về quê lập gia đình.
KHÔNG HỀ BỊ AI BẮT BUỘC, MÀ CHỈ BẰNG LÒNG ĐAM MÊ MỚI CÓ THỂ KHIẾN ÔNG KIÊN TRÌ TẠO RA NHỮNG TÁC PHẨM CÓ GIÁ TRỊ ĐỂ ĐỜI CHO HẬU THẾ. TRONG ĐÓ CÓ TÁC PHẨM BIÊN KHẢO NỔI TIẾNG ĐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ.
Ông được đánh giá là giỏi cả tiếng Pháp, Hán, Latin và chữ Quốc ngữ vốn còn mới mẻ lúc đó.
Khi Pháp tấn công và chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1862, nhiều văn thân sĩ phu nếu không tham gia vào các phong trào khởi nghĩa chống Pháp thì cũng dùng ngòi bút để đả kích chống ngoại xâm.
Còn Paulus Của lại quyết định ra làm việc với Pháp. Vào thời điểm đó việc cộng tác với Pháp được người Việt xem là hành vi phản quốc, là Việt gian. Thế nhưng đến nay dù có vài ý kiến khác nhau nhưng Huỳnh Tịnh Của vẫn không bị gán cho tội danh đó.
Lý do là khi điểm lại cuộc đời của Huỳnh Tịnh Của, người ta có thể nhận thấy ông làm việc với Pháp chỉ làm thông ngôn, dù được ăn lương khá cao nhưng ông không hề cai trị ai cả chứ đừng nói tham gia đàn áp. Ông chỉ làm cầu nối về mặt ngôn ngữ.
Thứ nữa, Huỳnh Tịnh Của luôn mong mỏi và khát khao đem các kiến thức về học thuật và kỹ thuật của Tây phương vào để canh tân đất nước nhưng vẫn giữ gìn bản sắc của dân tộc và văn hóa truyền thống nước nhà.
Ông là người có công rất lớn đã nhen nhóm nền văn học, đặc biệt là chữ Quốc ngữ trong những bước đầu ở Nam Kỳ. Là người có lòng yêu quý ngôn ngữ và các tác phẩm văn học nước nhà, ông sưu tầm các áng văn hay của người xưa bằng cách ghi chép lại các câu hát góp, thành ngữ, tục ngữ, gia ngôn.
Ông dịch thuật rất nhiều tác phẩm nước ngoài sang chữ Quốc ngữ để người dân dễ đọc, như Quan âm diễn ca, Trần Sanh diễn ca, Chiêu Quân cống Hồ truyện, Bạch Viên Tôn Các truyện, Văn Doanh diễn ca, Thoại Khanh Châu Tuấn truyện, Thơ mẹ dạy con, Tống Tử Vưu truyện… Ngoài ra ông cũng biên soạn các cuốn: Phép toán, Phép đo, Maximes et proverbers, Gia Lễ, Chuyện giải buồn, Bác học sơ giải, Sách quan chế, Tân soạn từ trát nhất xấp…
Công trình thế kỷ
Đại Nam quốc âm tự vị được ông miệt mài viết trong bốn năm, bao gồm hai tập, dày tổng cộng trên 1.200 trang, xuất bản từ năm 1895 tại Sài Gòn. Trong đó liệt kê và chú giải rất nhiều từ ngữ tiếng Việt kèm theo chữ Hán và cả chữ Nôm.
Trước đó, nước ta chưa có quyển từ điển nào giải nghĩa tiếng Việt bằng tiếng Việt. Điểm đặc biệt là thành phần từ ngữ, tục ngữ của Đại Nam quốc âm tự vị rất phong phú nhưng cơ bản là những từ ngữ rất phổ thông, những câu cửa miệng vốn được người dân Việt lúc đó sử dụng hằng ngày. Mỗi từ, mỗi chữ đều được ông giải nghĩa rõ ràng, ngắn gọn không dài dòng, rất dễ hiểu.
Thông qua hai tập sách, người ta có thể nhận thấy sự giàu có và phong phú của ngôn ngữ Việt Nam, có những câu chữ mà xưa nghĩa khác và nay nghĩa khác. Nếu không có tác phẩm của ông, chúng ta không được biết đến rất nhiều câu chữ, từ ngữ độc đáo của người Việt mà nay đã không còn được sử dụng nữa.
Khi còn sống, Huỳnh Tịnh Của khiêm tốn giải thích công trình của mình không phải là tự điển mà chỉ là tự vị: Có kẻ hỏi tự điển, tự vị khác nhau thế nào? Sao sách ta làm kêu là tự vị mà không gọi là tự điển?… Tự điển, tự vị khác nhau có một sự rộng hẹp. Tự điển phải có chú giải, mỗi chữ, mỗi tiếng đều phải dẫn điển, dẫn tích, nguyên là chữ sách nào, nguyên là lời ai nói, cả thảy đều phải có kinh truyện làm thầy; chí như tự vị cũng là sách hội biên các thứ chữ, cùng các tiếng nói, song trong ấy thích chữ một, nghĩa một, mà không dẫn điển tích gì”. Nhưng sau này một số nhà nghiên cứu vẫn cho rằng tác phẩm của ông xứng đáng được gọi là tự điển.
Nhà báo thứ hai của Việt Nam
Năm 1869 Trương Vĩnh Ký được người Pháp chuyển giao thực hiện tờ Gia Định báo với vai trò giám đốc. Đây là tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam thời bấy giờ. Người đứng vai trò chủ bút chính là Huỳnh Tịnh Của.
Tại sao lại là ông Của mà không là ai khác? Vì ông Perus Ký đề ra ba mục tiêu chính cho tờ báo là truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân học và khuyến học trong dân chúng, bằng cách thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích…
Những phần này đòi hỏi chủ bút phải là người có học vấn uyên thâm về văn hóa Việt Nam, phải giỏi chữ Hán và chữ Quốc ngữ, đồng thời có kiến thức Tây học (để dịch các tài liệu về vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền qua các bài đăng công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền).
Sau khi viết báo xong xuôi, lại phải dịch ngược lại tiếng Pháp để nhà cầm quyền Pháp kiểm duyệt… Cho nên ông Huỳnh Tịnh Của là người đủ năng lực để thực hiện công việc này.
Làm chủ bút nhưng ông Của viết rất nhiều, lý do là ông Perus Ký bận việc (thông ngôn, dạy học, viết sách…) nên không có thời gian nhiều cho báo chí, thành ra ông Của cáng đáng tờ Gia Định báo đến tận năm 1880 mới ngưng viết.
Tính ra ông cũng có thâm niên đáng kể với nghề báo và chỉ đứng sau ông Perus Ký khi đặt chân vào lĩnh vực mới mẻ này.
Một con người liêm khiết, thanh bạch Ông Huỳnh Tịnh Của vào ngạch quan viên từ năm 1862. Sau nhiều lần thăng chức, ông được thăng Đốc phủ sứ năm 1884. Làm Giám đốc Ty Phiên dịch văn án ở soái phủ Sài Gòn, ông có chân trong Ban Biên tập bán nguyệt san Revue Indochinoise. Ông nhiều lần làm giám khảo trong các cuộc thi về Hán và Việt văn, được thống đốc Nam Kỳ cử làm hội viên trong hội đồng bàn nghị về Sở Nghĩa địa làng trong các hạt Nam Kỳ. Tuy vậy ông sống rất thanh bạch, được thực dân Pháp hậu đãi, có quyền chức lớn nhưng ông tỏ ra là một người khiêm tốn, giản dị. Nhà nghiên cứu Nguyễn Liên Phong sống cùng thời đã mô tả ông: “Hình dung nho nhã, tánh nết cẩn thận hiền lành… làm công chức cao mà nhà vẫn thanh bần. Đã quá tuổi hưu trí mà Nhà nước đoái tưởng ngài tuổi lớn nhà nghèo, cho làm luôn”. |
PHẠM TRƯỜNG GIANG