2023
Tâm lý học và ơn gọi Linh mục
Tâm lý học và ơn gọi Linh mục
Tâm lý học và ơn gọi Linh mục
KHA ĐÔNG ANH (Chuyển ngữ từ NCRegister.com)
2023
Tôi có quá lo lắng về con mình không?
Tôi có quá lo lắng về con mình không?
Marybeth Hicks
Hỏi: Là mẹ của 3 đứa con: 2 bé trai, một 9 tuổi và một 6 tuổi, và bé gái út 4 tuổi. Nhiều lúc tôi tự hỏi: Không biết là tôi có bị sợ hãi và lo lắng một cách thái quá về sức khoẻ và sự an toàn của con mình không?
Vấn đề này dần trở thành nguyên nhân gây xích mích giữa chúng tôi, vì chồng tôi cho rằng các quy tắc của tôi đối với bọn trẻ là quá khắt khe. Ví dụ, chồng tôi phản đối các quy tắc của tôi về việc bọn trẻ chơi ngoài trời. Trẻ chỉ có thể chơi trong sân có hàng rào; trẻ chỉ được đi xe đạp trong khu phố nếu có người lớn đi cùng và phải đội mũ bảo hiểm; trẻ không được trèo cây hoặc chơi những trò chơi quá năng động… Với tôi, những quy tắc này là để bảo vệ và giữ cho bọn trẻ không bị thương tổn.
Trong khi đó, chồng tôi thì cho rằng bọn trẻ đã đủ lớn để tự sang sân nhà hàng xóm chơi; có thể tự đạp xe chung quanh dãy phố; có thể trèo leo trong mức độ cho phép, và thậm chí còn khuyến khích bọn trẻ thử thách những trò chơi năng động, mạo hiểm… Quan điểm của anh ấy là tạo điều kiện cho bọn trẻ biết cách tự lập, mạnh mẽ và thích nghi với môi trường, vì nếu bao bọc trẻ quá, là tôi đang kìm hãm sự phát triển tự nhiên, và do đó, là đang làm hại bọn trẻ.
Trả lời: Vấn đề của người mẹ đưa ra trên đây không phải là trường hợp cá biệt và nhất là, nó bao hàm nhiều ý nghĩa hơn là chỉ nói về những quy tắc an toàn cho trẻ khi chơi ngoài trời. Là bậc cha mẹ, chúng ta thường có những quy tắc nhằm đảm bảo, bao nhiêu có thể, để tránh cho việc trẻ bị thương tích cũng như gặp phải những rủi ro không cần thiết nhưng vẫn không bỏ qua việc trẻ được vui chơi và tận hưởng tuổi thơ khỏe mạnh, sôi nổi.
Do đó, nếu không để ý, đôi khi những quy tắc của chúng ta bóp nghẹt thay vì hỗ trợ sự tăng trưởng và phát triển phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Chúng ta phải tự vấn: Những quy tắc đó là dành cho ai – cho bọn trẻ hay cho chúng ta?
Thực tế là, nhiều khi vì quá lo lắng, nên một số bậc cha mẹ loại bỏ chính những hoạt động và trải nghiệm vốn sẽ dạy con cái họ trở nên tự chủ, tháo vát, độc lập, và có khả năng tự chăm sóc bản thân.
Những quy tắc hạn chế mong muốn tự nhiên của trẻ để mở rộng bản thân có thể gửi một sứ điệp mạnh mẽ rằng: Những rủi ro hợp lý là nguyên nhân gây ra sợ hãi. Chẳng hạn, quy tắc cấm trèo cây có thể bộc lộ sự lo lắng về một điều gì đó mà nhìn chung có thể được thực hiện một cách an toàn. Sau này khi lớn lên, sứ điệp về nỗi sợ hãi đó có thể tái xuất hiện khi trẻ miễn cưỡng khám phá một cơ hội mới, tìm kiếm một công việc tốt hơn, hoặc chuyển đến một nơi ở mới.
Thực ra, khi trẻ thành công trong những việc như trèo cây, chơi trò chơi mạo hiểm phù hợp, chúng sẽ có được sự tự tin và lòng tự trọng cần thiết, từ đó, chúng tiếp thu những cảm xúc này, khẳng định sứ điệp rằng chúng có khả năng thành công ở một điều gì đó thoạt đầu khiến chúng rất sợ hãi.
Tôi rất tin tưởng vào chiến lược này đến nỗi tôi được cho là đã để con tôi mắc kẹt ở bậc trên cùng của bộ xích đu ở sân vườn nhà chúng tôi! Tôi nhớ như in, vào một ngày hè, khi đang nói chuyện qua điện thoại với một người bạn trong nhà bếp, tôi nghe thấy tiếng la hét cầu cứu từ sân sau của một trong những đứa con của tôi. Tôi chạy ra và nhìn thấy sự việc: Kate, 7 tuổi, ngồi vắt vẻo trên nóc của cầu tụt, và loay hoay không biết làm thế nào để có thể xuống được. Ngay lúc đó, bất chấp những lời van nài của con bé, thay vì vội vàng giải cứu, tôi đã từ từ hướng dẫn Kate tìm ra cách để hạ đất an toàn. Bọn trẻ thường nghe thấy lời nhắc nhở trấn an của tôi: “Nếu con trèo lên đó được, thì con cũng có thể tụt xuống được!”.
Khi nói đến các quy tắc, thì vấn đề lớn hơn là: Mục tiêu mà bạn muốn dành cho bọn trẻ là gì? Mục tiêu nuôi dạy con cái của bạn là gì? Những quy tắc của bạn sẽ giúp bạn dạy trẻ những bài học nào?
Thiên chức làm cha mẹ của chúng ta không phải là bảo vệ con cái khỏi mọi trải nghiệm tiêu cực có thể xảy ra trong cuộc sống, mà là chuẩn bị cho chúng trở nên mạnh mẽ, dũng cảm, độc lập và tự tin khi đối diện với thế giới xung quanh. Về phương diện tâm linh, chúng ta phải thú nhận rằng: Thiên Chúa biết là chúng ta đau lòng như thế nào khi thấy con cái mình gặp khó khăn, gặp đau khổ. Nhưng chúng ta không được kêu gọi để ngăn chặn sự đau khổ của chúng. Vì thực ra, dù cố gắng đến mấy, chúng ta vẫn nhận ra rằng đó là điều không thể. Trái lại, chúng ta được yêu cầu để yêu thương, dạy dỗ con cái để chúng phát triển nhân cách, lương tâm, và đức tin hầu có thể đối diện với những gì mà cuộc sống mang lại một cách bản lĩnh, khôn ngoan, khiêm tốn, tín trung,…
Theo hướng này, việc trẻ chơi ngoài trời là một cách thực hành tuyệt vời. Khi trẻ còn quá nhỏ, chúng ta cần hạn chế không gian vui chơi của trẻ để có thể giám sát và đảm bảo chúng không gặp nguy hiểm. Nhưng khi trẻ lớn hơn, chúng ta có thể cho trẻ nhiều tự do hơn để chúng có thể thực hành các kỹ năng và thói quen giúp thúc đẩy tính độc lập cao hơn.
Lúc đầu, việc cho phép bọn trẻ mở rộng tầm nhìn của chúng sang khu vực lân cận rộng lớn hơn thay vì chỉ ở trong sự an toàn của sân sau nhà có thể khiến chúng ta lo lắng. Nhưng sau những thành tựu trẻ đạt được trong quá trình trưởng thành – chưa kể đến cảm giác vui vẻ và phiêu lưu, có thêm những người bạn mới,… – là không thể thay thế được.
Thật vậy, một khi thấy con mình dần trưởng thành, có thêm năng lực và tự tin ra sao, bạn sẽ nhận ra rằng: Bạn không cần phải quá lo lắng!
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Lược dịch từ: catholicdigest.com
2023
3 bước để rao giảng Tin Mừng cho những người thờ ơ
Làm thế nào chúng ta có thể Phúc Âm hóa nền văn hóa thờ ơ này?
Một giải pháp lâu dài cho vấn đề thờ ơ về tôn giáo bắt đầu từ mái ấm gia đình, trong bối cảnh gia đình. Cha mẹ Kitô hữu không chỉ có trách nhiệm dạy dỗ con cái về đức tin (và cách cầu nguyện), mà còn giúp chúng làm quen với những phản đối phổ biến đối với niềm tin Kitô giáo và chỉ dạy chúng cách hồi đáp. Họ cũng phải dạy con cái cách để suy nghĩ, nhấn mạnh sự trân trọng sâu sắc của Giáo Hội đối với khoa học và lý trí – và sự tương thích mật thiết giữa lý trí với đức tin. Thánh Augustinô đã viết câu Crede, ut intelligas: “Hãy tin để bạn có thể hiểu.”
Tình cảnh cấp bách của ngày hôm nay cũng đòi hỏi một số can thiệp ngay lập tức. Ít nhà tư tưởng Kitô giáo nào suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề thờ ơ đối với tôn giáo như Blaise Pascal, vì vậy hãy bắt đầu với cách tiếp cận mà ông đã vạch ra trong tác phẩm kinh điển Pensées (Suy tưởng) của mình:
Con người coi thường tôn giáo. Họ chê ghét tôn giáo và lo sợ rằng nó có thể là chân thật. Giải pháp cho vấn đề này trước hết [1] là chứng tỏ rằng tôn giáo không đi ngược lại với lý trí, nhưng đáng được trân trọng và lưu tâm. Tiếp theo là [2] làm cho tôn giáo có sức hấp dẫn, khiến cho những người tốt mong ước rằng tôn giáo này là chân thật, và sau đó [3] cho thấy rằng tôn giáo là chân thật.
1. Chứng tỏ rằng tôn giáo không đi ngược lại với lý trí, nhưng đáng được trân trọng và lưu tâm.
Có nhiều lý lẽ thuyết phục có thể được đưa ra để giải thích và bảo vệ đức tin Công giáo. Nhưng cách thức cơ bản hơn đối với một tôn giáo phù hợp với lý trí lại cần đến một bước đi nền tảng hơn: định nghĩa các thuật ngữ và loại bỏ những phù phiếm.
Những người theo chủ nghĩa hoài nghi thường vội vàng định nghĩa đức tin là điều gì đó giống như “bám lấy một sự tin tưởng mà không có lý do chính đáng” hoặc “tin vào điều gì đó bất chấp bằng chứng ngược lại chắc chắn hơn”. Cả hai định nghĩa này đều không hữu ích. Do đó, quy tắc số một là: đừng để những người hoài nghi định nghĩa các thuật ngữ của bạn cho bạn!
Khi được hiểu một cách đúng đắn, đức tin là sự đồng thuận được đưa ra dành cho một tuyên bố dựa trên thẩm quyền từ một người khác. Sự đồng thuận đích thực là những gì học sinh dành cho giáo viên, những gì nguyên đơn dành cho luật sư bào chữa và những gì các nhà sử học dành cho các cựu chiến binh. Nhưng sự tín nhiệm như vậy không tự đóng lại đối với việc nghiên cứu thêm. Lý trí được sử dụng để chứng thực niềm tin, và mặc dù những mầu nhiệm của đức tin thường được coi là những chân lý “có rào cản” mà lý trí không thể tiếp cận được; thay vào đó, chúng ta có thể xem các mầu nhiệm đó là những nguồn gốc phát sinh chân lý và sự hiểu biết sâu sắc. Mầu nhiệm là món quà không ngừng được trao ban cho trí tuệ con người. Như G.K. Chesterton nhận định rằng: “Những điều bí nhiệm của Thiên Chúa thì đem lại sự thỏa mãn nhiều hơn những lời giải đáp của con người.”
2. Làm cho Kitô giáo giáo trở nên hấp dẫn để những người thờ ơ mong ước tôn giáo này là chân thật.
Kitô giáo thật đẹp. Chúng ta có thể nói với mọi người về điều đó, nhưng thường thì tốt hơn là nên thể hiện nó.
Trong một bài thuyết trình vào năm 1970, Aleksandr Solzhenitsyn, tiểu thuyết gia người Nga và là người sống sót trong các trại lao động của Liên Xô, đã khẳng định rằng: “Sức thuyết phục của một tác phẩm nghệ thuật chân chính là hoàn toàn không thể chối cãi, và nó buộc ngay cả một trái tim chống đối cũng phải đầu hàng.” Cái đẹp thu hút người chiêm ngắm nó. Thông qua cái hữu hình, cái vô hình trở nên dễ nhận biết. Cái đẹp thì không mang dáng vẻ oai vệ – đến mức không có vũ trang – điều này làm cho nó trở thành khởi điểm hấp dẫn cho việc rao giảng Tin Mừng. Như Đức Giám mục Robert Barron đã nói: “Vẻ đẹp là đầu mũi tên của việc rao giảng Tin Mừng.”
Không có biểu tượng nào hấp dẫn hơn hình ảnh (eikon) về Thiên Chúa (theo cách dùng thuật ngữ Hy Lạp của Thánh Phaolô) cho bằng Đức Giêsu Kitô (x. Cl 1,15). Đặc biệt nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, con người đã có thể nhận thức được theo một cách thức mới đầy sâu sắc không chỉ về mức độ nghiêm trọng của tội lỗi, mà còn cả về tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao Thánh Phaolô quyết định “không muốn biết đến chuyện gì khác” nơi các tín hữu Côrintô mà ngài đang truyền bá Phúc Âm, “ngoại trừ Đức Giêsu Kitô và việc Người chịu đóng đinh” (1Cr 2,2). Chúng ta cần cho mọi người thấy rằng Đức Kitô chịu đóng đinh vẫn đang sống – và đúng thật là đang sống trong chính chúng ta.
3. Thứ ba, chứng tỏ rằng Kitô giáo thực sự là chân thật.
Một tôn giáo dù có hấp dẫn đến đâu thì cũng chẳng quan trọng nếu nó chỉ là giả tạo. Đây là chỗ để cho những tư tưởng hộ giáo xuất hiện. Đạo Công giáo đưa ra ba lời tuyên bố cơ bản về chân lý, mỗi lời tuyên bố đóng vai trò là những trụ cột trong toàn bộ hệ thống giáo lý của tôn giáo này.
Trụ cột đầu tiên là Thiên Chúa hiện hữu. Nhưng tại sao mọi người cần quan tâm đến điều này ngay từ đầu? Triết gia Richard Purtill viết: “Bước đầu tiên để trả lời là chỉ ra rằng nếu ý tưởng truyền thống về Thiên Chúa là chân thật, thì chúng ta sẽ không còn tồn tại nếu Thiên Chúa không nghĩ đến chúng ta và không muốn giữ cho chúng ta tồn tại. Thiên Chúa quan tâm đến chúng ta; điều đó tự nó là một lý do.” Thật vậy, việc một Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi và đang hoạt động trên thế giới này không phải là một khẳng định đơn thuần, mà có thể được hướng đi của lý trí bảo vệ một cách mạnh mẽ. (Ví dụ, hãy tìm hiểu về Ngũ đạo của Thánh Tôma Aquinô.)
Trụ cột thứ hai là Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa nhập thể – điều mà Người thể hiện rõ ràng bằng cách sống lại từ cõi chết như Người đã tiên báo. Sự phục sinh này là nền tảng của đức tin. Thánh Phaolô tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì chúng ta vẫn ở trong tội lỗi của mình.” (1Cr 15,17) May mắn cho các Kitô hữu là có nhiều lý do chính đáng để tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Antony Flew, một triết gia hoài nghi, đã thừa nhận: “Bằng chứng về sự Phục sinh tốt hơn so với những phép lạ được tuyên bố trong bất kỳ tôn giáo nào khác. Nó khác biệt rõ ràng về chất lượng và số lượng.” Người Công giáo nên làm quen với bằng chứng này và sẵn sàng chia sẻ về nó.
Cuối cùng, Giáo Hội Công Giáo tuyên bố là Giáo Hội do Đức Kitô thành lập. Chúng ta nhận thấy rằng việc bảo vệ cho tuyên bố này không chỉ là công việc thiết thực dành cho những nhà hộ giáo, mà còn là của các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, một số người trong số các ngài là môn đệ của các tông đồ. Từ Thánh Inhaxiô thành Antiôkia, Thánh Augustinô cho đến Thánh Gioan Đamascênô, tất cả các giáo phụ ở những thế kỷ đầu tiên đều tự minh chứng về tính hiển nhiên của đạo Công giáo trong các tác phẩm của mình. Do đó, Giáo Hội Công Giáo có Kinh Thánh và lịch sử Giáo Hội sơ khai đứng về phía mình.
Chúng ta vẫn phải lưu tâm đến thực tế về thách thức phía trước. Rao giảng Tin Mừng là một công việc khó khăn và không phải lúc nào hoa trái của nó cũng là điều hiển nhiên tức thì. Không có hạt đậu ma thuật nào sẽ tự động thức tỉnh tất cả những ai thờ ơ về mặt thiêng liêng và dẫn đưa họ đến với đức tin. Những cuộc hoán cải có xu hướng diễn ra theo từng bước nhỏ, và thường thì cả người rao giảng Tin Mừng lẫn những người được rao giảng Tin Mừng đều không biết rằng một cuộc hoán cải đã bắt đầu, trong khi thực tế là nó đã bắt đầu. Do đó, chúng ta phải kiên nhẫn tiến bước trong đức tin, đức cậy và đức mến, luôn ghi nhớ những lời của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô:
“Kẻ trồng kẻ tưới đều chẳng là gì cả, chỉ có Thiên Chúa là mới là Đấng làm cho lớn lên. Kẻ trồng người tưới đều bình đẳng như nhau, ai nấy hưởng công theo sức lao động của mình. Vì chúng ta là những người cùng nhau làm công việc của Thiên Chúa.” (1Cr 3,6-7)
2023
Ca ngợi sự kiên nhẫn: Tại sao chúng ta cần đến đức tính tốt đẹp này?
Người gieo rắc cách đầy kiên nhẫn những đóa hoa sự sáng của thế giới này như nhau trên cả người công chính và kẻ bất lương (x. Mt 5,45). Người kiên nhẫn ban phát hoa lợi từ mùa màng, sự trợ giúp từ các yếu tố thiên nhiên, tặng phẩm của toàn bộ tự nhiên, để cả những người xứng đáng và bất xứng đều được hưởng dùng cùng lúc.
Người tỏ lòng khoan dung với những dân tộc vô ơn nhất, ngay cả với những kẻ tôn thờ sản phẩm từ chính tay họ, với những kẻ bắt bớ danh Người cùng với gia đình của Người. Người dung thứ cho sự xa hoa, tham lam, gian tà, hung ác, báng bổ hàng ngày của họ.
Thật ra, Người vẫn làm mọi điều như thế dẫu cho sự nhẫn nhịn của Người quả là để cho người ta chế nhạo: Họ cho rằng nếu không có bằng chứng rõ ràng về sự nỗi giận của Thiên Chúa đối với thế gian, thì chắc hẳn Thiên Chúa không tồn tại (x. 1 Pr 3,3-4,9).
Trong Đức Kitô, chúng ta cũng nhận thấy bằng chứng về sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã để cho mình được thụ thai trong lòng một người mẹ và kiên nhẫn chờ đợi trong chín tháng cho đến ngày Người được sinh ra. Sau khi ra đời, Người kiên nhẫn chịu đựng những năm dài để lớn lên. Sau đó, khi đã lớn lên, Người đã không muốn được nhìn nhận, nhưng lại hạ mình để được rửa tội bởi chính người tôi tớ của mình.
Đức Kitô đã kiên nhẫn đẩy lùi mọi cuộc tấn công từ tên cám dỗ chỉ bằng lời nói. Đấng là Chúa đã trở thành Người Thầy đầy kiên nhẫn để dẫn dắt chúng ta thoát khỏi sự chết. Như vị ngôn sứ đã nói, Người không tranh cãi; Người không kêu gào lớn tiếng; giọng nói của Người không được nghe thấy trên đường phố. Người không đành bẻ gẫy cây sậy bị giập; Người cũng không dập tắt ngọn đèn còn đang cháy âm ỉ (x. Is 42,2-3; Mt 12,19-20).
Không ai muốn nhập đoàn với Đức Kitô mà Người lại không kiên nhẫn đón nhận. Người không khinh chê bàn ăn hay mái nhà của người khác. Thực ra, chính Người đã rửa chân cho các môn đệ.
Người không xua đuổi tội nhân. Người không nổi giận với thành kia khi thiếu lòng hiếu khách với mình, ngay cả cũng không muốn cho các môn đệ khiến lửa từ trời xuống trên một thành xấu xa như vậy (x. Lc 9,51-56). Người không bỏ mặt kẻ vô ơn; Người đã tự nộp mình cho những kẻ bắt Người. Mặc dù kẻ phản bội Người đã đi cùng với bọn họ, nhưng Người vẫn kiên quyết để không vạch mặt hắn ta.
Trong khi bị phản bội, “như con chiên bị đem đến lò sát sinh, Người vẫn làm thinh, không hề mở miệng” (x. Is 53,7). Theo lời Người, nếu Người muốn, thì các đạo binh thiên thần sẽ từ trên trời giáng xuống. Nhưng Người không cho phép dù chỉ một môn đệ cầm gươm để báo thù (x. Ga 18,10-12).
Tôi sẽ không bàn đến sự thật rằng Người đã để mình bị đóng đinh.
Sự nhẫn nhịn theo kiểu như thế thì không một con người đơn thuần nào có thể đạt đến. Người vốn là Thiên Chúa, và kiên nhẫn là bản chất của Thiên Chúa.
Hãy để Thiên Chúa trở thành người đón nhận sự kiên nhẫn của bạn như một sự ký thác quý giá. Người có thừa khả năng dành sự quan tâm cho bạn. Nếu bạn ký thác vào sự chăm sóc của Người một điều sai trái mà ai đó đã làm đối với bạn, thì Người sẽ là Đấng Báo Oán cho bạn. Nếu bạn ký thác cho Người một mất mát riêng tư; Người sẽ là Đấng Phục Hồi cho bạn. Hãy dâng lên Người nỗi đau của bạn; Người là Đấng Chữa Lành; hãy trao phó cho Người đến cả cái chết của bạn; Người là Đấng sống lại từ cõi chết.
Sự kiên nhẫn được vinh dự biết bao khi có Thiên Chúa là Đấng hoàn lại cho mình! Và không phải là không có lý do: vì sự kiên nhẫn tuân giữ mọi lệnh truyền của Người; sự kiên nhẫn phải thi hành mọi mệnh lệnh của Người. Sự kiên nhẫn làm đức tin vững mạnh; sự kiên nhẫn là người dẫn đường của hòa bình.
Sự kiên nhẫn hỗ trợ cho đức ái; sự kiên nhẫn cũng cố đức khiêm nhường; sự kiên nhẫn đợi mong lòng sám hối. Sự kiên nhẫn ghi dấu nơi lời xưng thú tội lỗi; sự kiên nhẫn làm chủ thân xác; sự kiên nhẫn giữ gìn tinh thần. Sự kiên nhẫn kiềm chế miệng lưỡi, ngăn giữ đôi tay, chà đạp cám dỗ dưới chân, xua đuổi những việc xấu xa, trao triều thiên cho các thánh tử đạo, an ủi người nghèo khổ, và dạy bảo về sự tiết độ đúng mực.
Sự kiên nhẫn không bao giờ áp bức kẻ yếu thế; sự kiên nhẫn chẳng vơi đi sức mạnh bao giờ. Sự kiên nhẫn là niềm vui thích của những kẻ tin, và sự kiên nhẫn mời gọi những người không tin. Sự kiên nhẫn tô điểm cho người nữ và làm cho người nam được thỏa lòng.
Sự kiên nhẫn được yêu mến trong thời thơ ấu, được ca ngợi thời thanh xuân, được ngưỡng mộ khi về già. Sự kiên nhẫn trở nên tốt đẹp nơi cả người nam lẫn người nữ và trong mọi thời điểm của cuộc đời.
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
Nguồn: Simply Catholic
———————————————-
* Tertullian (k.160 – k.225), được biết đến như là “cha đẻ của thần học Latinh”, là một giáo phụ người Châu Phi với nhiều tác phẩm hộ giáo, thần học và thiêng liêng bằng cả tiếng Latinh và Hy Lạp. Đoạn trích này là từ tiểu luận “Về sự kiên nhẫn” (k. 202) của ông.
34