2020
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ
Gần đây, một nhóm người tự xưng là “Nhóm trừ quỷ Bảo Lộc” do một giáo dân đứng đầu đã tổ chức những cuộc trừ quỷ tại nhà riêng lôi kéo được rất nhiều người. Đây là nhóm tự phát và không đúng với giáo lý đức tin cũng như giáo luật của Giáo Hội nên Tòa giám mục Đà Lạt đã ra thông báo ngày 6.6.2020 khẳng định nhóm này “hoàn toàn bất hợp pháp theo giáo luật”. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta tìm hiểu về thực hành trừ quỷ hay trừ tà dưới nhãn quan và theo quy định của Giáo Hội.
Trừ quỷ trong Tân Ước
Trừ quỷ là hành động đuổi hay trục xuất ma quỷ hay thần dữ ra khỏi người, nơi chốn hay đồ vật được cho là bị quỷ ám hay bị quỷ quấy phá, hoặc có thể trở thành nạn nhân hay dụng cụ cho sự ma mảnh, ảo quyệt của quỷ.
Từ exorkizo (εξορκίζω: “thề, truyền lệnh, trừ quỷ”) được sử dụng trong bản dịch Bảy Mươi (Stk 24,3 = thề; I V 22,16 = thề), và trong Mt 26,63, “Ta bắt ngươi tuyên thệ nhân danh Thiên Chúa hằng sống …” Danh từ exorkistes (ἐξορκιστής)trong Cv 19,13, được áp dụng cho những người Do Thái đi đây đi đó tuyên thệ để trừ quỷ. Và như vậy, trừ quỷ bằng cách tuyên thệ là ý nghĩa đầu tiên của việc trừ quỷ. Lời tuyên thệ này nhân danh Thiên Chúa hay Đức Giêsu, và như vậy đó là một hành vi hay nghi thức tôn giáo.
Tin Mừng Marcô phác họa Đức Giêsu như là một người trừ quỷ rất nhiều lần. Thật vậy, chúng ta không biết có nhân vật nào vào thời cổ mà việc trừ quỷ lại quan trọng đến thế. Matthêô và Luca gợi ý rằng việc trừ quỷ có ý nghĩa để hiểu được Đức Giêsu (Mt 12,28-29 // Lc 11,20-21). Tuy nhiên, một trong những điều khó hiểu của Tin Mừng Gioan là không đề cập gì đến việc trừ quỷ, có lẽ vì chúng được cho là quá bình thường để bày tỏ vinh quang Ngài trước các … phép lạ là hiện tượng quyền năng hơn (Ga 2,11).
Quyền năng của Đức Giêsu trên ma quỷ là một trong những dấu hiệu Thiên Sai (Mt 12,23.28; Lc 11,20). Ngài trừ quỷ bằng ngón tay hay thần khí của Thiên Chúa chứ không phải là đồng bọn của ma quỷ như các đối thủ cáo buộc (Mt 12,24.27; Mc 3,22; Lc 11,15.19); Ngài không chỉ sử dụng quyền năng được ủy thác mà còn quyền năng cá nhân, trực tiếp và ra lệnh cho ma quỷ (Mc 9,24; cf. 1,25 etc.): “Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau” (Mt 8,16). Đôi khi Ngài trừ quỷ từ xa như trường hợp con gái của người phụ nữ Canaan (Mt 15,22 tt.; Mc 7,25). Đôi khi, thần dữ bị trục xuất được phép nói ra sự nhìn nhận nó về Đức Giêsu như là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) và phàn nàn rằng Ngài đến để gây khó dễ cho chúng “trước thời gian”, nghĩa là trước khi chúng bị xử phạt (Mt 8,29 tt; Lc 8,28 tt.). Trong Luca 13,32, Đức Giêsu phân biệt giữa trừ quỷ và chữa lành bệnh tật.
Khi còn tại thế, Đức Kitô cũng ban cho các Tông đồ và môn đệ quyền trừ quỷ nhân danh Ngài (Mt 10,1 và 8; Mc 6,7; Lc 9,1; 10,17), và cũng hứa với những người tin một quyền lực như thế (Mc 16,17). Nhưng hiệu quả của quyền năng được ủy thác này là có điều kiện, như chúng ta thấy chính các tông đồ cũng không phải lúc nào cũng thành công khi trừ quỷ: vài loại quỷ chỉ có thể trừ bằng cách cầu nguyện và ăn chay (Mt 17,15.20; Mc 9,27-28; Lc 9,40). Nói cách khác, sự thành công của thực hành trừ quỷ của các Kitô hữu, nhân danh Đức Kitô, phải chịu những điều kiện chung dựa trên hiệu quả của lời cầu nguyện và quyền năng đoàn sủng. Thánh Phaolô (Cv 16,18; 19,12), và hẳn nhiên các tông đồ và những môn đệ khác đều thường xuyên sử dụng quyền trừ quỷ. Và Giáo Hội vẫn tiếp tục sử dụng cho đến ngày nay.
Trừ quỷ trong Giáo Hội sơ thời
Dựa vào các tác giả sơ thời, ta biết rằng vào thế kỷ đầu tiên thì không chỉ hàng giáo sĩ mà cả giáo dân cũng có thể trừ quỷ nhờ quyền năng Thiên Chúa, và sự thành công của họ được các nhà hộ giáo cho rằng đó là lý chứng mạnh mẽ cho tính thần thiêng của Kitô giáo (Justin Martyr, First Apology 6; Dialogue with Trypho 30 và 85; Minutius Felix, Octavius 27; Origen, Against Celsus I.25; VII.4; VII.67; Tertullian, Apology 22, 23; etc.). Ở những thế kỷ đầu tiên này, không có phương tiện ma thuật hay mê tín nào được sử dụng, các chứng nhân nói rằng hình thức trừ quỷ chỉ là một lời tuyên thệ truyền cho ma quỷ nhân danh Thiên Chúa, và đặc biệt là Đức Kitô chịu đóng đinh.
Nhưng đôi khi vài hành động có tính biểu tượng được thêm vào lời, chẳng hạn như thổi hơi (insufflatio), hay đặt tay trên chủ thể hay làm dấu thánh giá. Thánh Justinô nói “quỷ bay đi khi các Kitô hữu chạm tay vào hay thổi hơi” (Second Apology 6), chừng như gặp phải ngọn lửa đốt như Thánh Cyrilô thành Giêrusalem nói thêm vào (Catechetical Lectures 20.3). Ôrigen nói đến việc đặt tay, và Thánh Ambrôsiô (Paulinus, Vit. Ambr., n. 28, 43, P.L, XIV, 36, 42), Thánh Êphraem Syrus (Gregory of Nyssa, De Vit. Ephr., P.G., XLVI, 848) và những người khác đã dùng nghi lễ này khi trừ quỷ. Dấu thánh giá, cách đơn giản và ngắn gọn nhất để tuyên xưng đức tin của một người vào Đấng chịu đóng đinh và cầu khẩn quyền năng của Ngài, đã được các giáo phụ tán dương về hiệu quả của nó chống lại các thứ quấy nhiễu của ma quỷ (Lactantius, Divine Institutes IV.27; Athanasius, On the Incarnation of the Word 47; Basil, In Isai., XI, 249, P.G., XXX, 557, Cyril of Jerusalem, Catechetical Lectures 13.3; Gregory Nazianzen, Carm. Adv. iram, v, 415 sq.; P.G., XXXVII, 842). Các giáo phụ còn khuyên rằng lời truyền và lời nguyện đi kèm nên được diễn dạt bằng những lời trong Kinh Thánh (Cyril of Jerusalem, Procatechesis 9; Athanasius, Ad Marcell., n. 33, P.G., XXVII, 45). Nghi thức trừ quỷ hiện nay của Nghi thức Rôma hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của các giáo phụ và là bằng chứng cho thấy có liên tục của Giáo Hội Công Giáo trong vấn đề này.
Hai hình thức trừ quỷ
Có hai loại trừ quỷ (hay hai hình thức). Hình thức đơn giản và hình thức trọng thể. Hình thức đơn giản được tìm thấy ở hai nơi: trước hết là nghi thức dành cho những ai chuẩn bị chịu phép rửa tội, Nghi thức Dẫn nhập Kitô giáo dành cho người lớn (RCIA) và Nghi thức rửa tội cho trẻ em, cả hai được gọi là hình thức trừ quỷ đơn giản; thứ đến là trong phần phụ lục (appendix) Trừ quỷ và những lời cầu liên quan (Exorcisms and Related Supplications) của sách nghi thức gồm có một số lời cầu nguyện mà giáo dân có thể sử dụng.
Loại thứ hai là nghi thức trọng thể chỉ có thể được giám mục hay linh mục được bản quyền địa phương cho phép rõ ràng thì mới có thể thi hành được. Hình thức này nhằm “nhằm trục xuất ác thần satan và giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền thiêng liêng Chúa Giêsu đã ủy thác cho Hội Thánh”. Ta có thể đọc lại số 1673 của sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nói về nghi thức trừ quỷ: “Trong nghi thức Trừ Tà, nhân danh Chúa Kitô, Hội Thánh công khai và có thẩm quyền cầu xin để một người hay một sự vật được Thiên Chúa bảo vệ khỏi quyền lực của ác thần Satan và giải thoát khỏi ách thống trị của nó. Chúa Giêsu đã từng trục xuất thần dữ (x. Mc 1,25 tt); chính Người ban cho Hội Thánh quyền và nhiệm vụ trừ tà (x. Mc 3, 15;6,7.13;16,17). Nghi thức cử hành bí tích Thánh Tẩy có công thức Trừ Tà đơn giản. Nghi Thức Trừ Tà trọng thể phải do một linh mục cử hành với phép của giám mục. Linh mục trừ tà phải thận trọng và giữ nghiêm ngặt các qui định của Hội Thánh. Nghi thức Trừ Tà nhằm trục xuất ác thần Satan và giải thoát khỏi ảnh hưởng của nó, nhờ quyền thiêng liêng Chúa Giê-su đã ủy thác cho Hội Thánh. Mục đích này khác 619 hẳn với các việc chữa bệnh, nhất là các bệnh tâm thần: chữa bệnh là công việc của y khoa. Do đó, trước khi cử hành nghi thức Trừ Tà, phải điều tra cẩn thận để chắc chắn đây là trường hợp quỷ ám chứ không phải một dạng bệnh lý (x. CIC 1172)”
Cuốn Nghi thức trừ tà hiện nay là bản duyệt lại của bản năm 1614. Đây là cuốn nghi thức bằng tiếng Latinh (De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam) gởi đến các Hội đồng giám mục quốc gia để dịch sang tiếng địa phương. Những bản dịch này phải chính xác và trung thành với bản gốc Latinh và được Thánh bộ phụng tự công nhận, theo giáo luật.
Trong khi từ “trừ tà” nói đến việc trục xuất ma quỷ, thì nó không chỉ áp dụng cho những người (hay những vật dụng, nơi chốn) bị quỷ ám rõ ràng. Hãy nhớ lại khi rửa tội cho trẻ em, linh mục hay phó tế đọc một lời nguyện trừ quỷ trên đứa bé và xức dầu trước khi rửa tội:
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Ngài đã sai Con một của Ngài đến thế gian để xua tan quyền lực Satan, thần dữ, và sau khi giải thoát con người khỏi chốn tối tăm, Ngài đưa con người vào ánh sáng huy hoàng của vương quốc Ngài: chúng con khiêm tốn cầu xin Ngài giải thoát (các) em này khỏi Tội Nguyên Tổ, xin làm cho (các) em trở nên một đền thờ để vinh danh Ngài, và xin sai Thánh Thần Chúa đến ngự trong (các) em. Nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.”
Lời nguyện này không có nghĩa là mọi đứa bé đều bị quỷ ám nhưng lời nguyện trừ quỷ này chỉ muốn nói rằng cho đến khi chịu phép rửa thì đứa bé vẫn ở trong tình trạng tội nguyên tổ. Và lời nguyện này được các giáo sĩ thi hành phép rửa tội đọc. Theo Giáo Luật, điều 861 §1, thì thừa tác viên thông thường của bí tích rửa tội là giám mục, linh mục hay phó tế: “Thừa tác viên thông thường của bí tích Rửa Tội là Giám Mục, Linh Mục và phó tế, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 530,1o (LG 26 ; LG 29 ; PO 5)”. Ta có thể thấy đây là vết tích của một thực hành cổ xưa mà trong đó người trừ quỷ có thể đuổi quỷ ra khỏi người chưa chịu phép rửa tội.
Trừ quỷ trong bí tích Rửa tội
Sơ thời, thực hành trừ quỷ cho các tân tòng được đưa vào Giáo hội như là sự chuẩn bị cho bí tích Rửa tội. Điều này không có nghĩa là họ bị xem như có quỷ ám nhưng là hệ quả của tội nguyên tổ (và tội của chính mình khi họ là người trưởng thành), ít nhiều họ chịu ảnh hưởng của quyền năng thần dữ, và vì thế ân sủng của bí tích Rửa tội sắp giải thoát họ khỏi sự thống trị này.
Thực hành trừ quỷ này là mào đầu có tính biểu tượng cho một trong những hiệu quả của bí tích tái sinh; và vì nó được dùng trong trường hợp trẻ em không có tội mình làm, nên Thánh Augustinô nói nó hàm ý về tội nguyên tổ, chống lại lạc thuyết Pêlagiô (Ep. cxciv, n. 46. P.L., XXXIII, 890; C. Jul. III, 8; P.L., XXXIV, 705,). Thánh Cyrilô thành Giêrusalem (Procatechesis 14) mô tả chi tiết thực hành trừ quỷ trong bí tích rửa tội, trong đó việc xức dầu trừ quỷ là một phần của thực hành trừ quỷ ở phương Đông. Chứng từ sơ thời duy nhất của phương Tây đề cập đến việc xức dầu như là một phần của nghi thức trừ quỷ trong bí tích rửa tội là cuốn Arabic Canons của Hippolytus (n. 19, 29). Exsufflatio, thở ra, ứng viên thở ma quỷ ra, đôi khi là một phần của nghi thức, trong khi Insufflatio, hoặc hít vào Thần khí, do thừa tác viên hay những phụ tá, tượng trưng cho sự tràn đầy ân sủng thánh hóa của bí tích. Những nghi thức cổ xưa này được Giáo Hội giữ lại cho đến ngày nay trong nghi thức rửa tội trọng thể.
Người trừ quỷ theo Giáo luật
Sơ thời, các tác giả như Thánh Gioan Kim Khẩu và Tertullianô nói rằng bất kỳ ai vì mình đã chịu phép rửa tội thì cũng có thể trừ quỷ. Nhưng đây không phải một nghi thức mà chỉ là một sự nhân danh, nhân danh Đức Giêsu. Vài thế kỷ đầu tiên đã có tình trạng như vậy. Cho đến Công đồng Carthage IV [398], lần đầu tiên ta thấy có chức trừ quỷ. Đây vẫn là một trong các chức nhỏ trong nhiều thế kỷ mãi cho đến năm 1972 thì Đức Phaolô VI xét duyệt lại và thu gọn các chức nhỏ.
Ngày nay, người Công giáo đã quen thuộc với ý nghĩ rằng các đại chủng sinh, hay các thầy, là những người đang học để trở thành linh mục, và sẽ chịu chức phó tế trước khi thụ phong linh mục. Tuy nhiên, trước đây không lâu lắm, tất cả các đại chủng sinh đều được chịu chức “trừ quỷ” (exorcist). Chỉ vài thập niên cách đây, Giáo hội phong 4 chức nhỏ (minor orders) cho tất cả các đại chủng sinh: giữ cửa, trừ quỷ, đọc sách và giúp lễ. Nguyên thủy, tên gọi của 4 chức nhỏ này nói lên vai trò của sứ vụ được đảm nhiệm trong hoạt động phụng vụ. Chẳng hạn như thầy giúp lễ là những người đốt nến và cầm nến trong các đám rước. Có vẻ như vào một thời điểm nào đó trong lịch sử sơ thời của Giáo Hội thì những người trừ quỷ không phải là linh mục, song được ban cho vai trò trừ quỷ để có thẩm quyền trừ quỷ khỏi những dự tòng (catechumen), những thành viên của cộng đoàn Giáo Hội chưa được rửa tội.
Vào năm 1972, Đức thánh cha Phaolô VI đã đơn giản hóa tiến trình chịu chức linh mục và loại bỏ các chức nhỏ. Trong tự sắc Ministeria quaedam, Đức thánh cha đã công bố rằng từ nay từ “các chức nhỏ” sẽ được thay thế bằng “các sứ vụ” (ministries). Và 4 chức nhỏ trước đây giờ chỉ còn 2 được xem như là những “sứ vụ”: đọc sách và giúp lễ.
Thế nhưng một thể loại trừ quỷ khác liên quan đến người, nơi chốn và vật thực sự bị quỷ ám, thì đây là một vấn đề khác, một chủ đề cho những điều khoản Giáo Luật khác. Theo Giáo Luật thì người trừ quỷ phải là một linh mục, nhưng điều 1172 §2 nói: “Đấng Bản Quyền địa phương chỉ ban phép trừ tà cho một Linh Mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn (CIS 1151).” Vì thế, không phải mọi linh mục bất kỳ, chỉ vì đã lãnh nhận chức linh mục, mà đương nhiên được phép trừ quỷ. Điều 1172 §1: “Không ai có thể trừ tà cách hợp pháp cho những người bị quỷ ám, trừ khi có phép đặc biệt và minh nhiên của Đấng Bản Quyền địa phương”. Một linh mục có thể được giám mục chỉ định làm người trừ quỷ trên cơ bản ổn định hay cho một dịp đặc biệt (ad actum). Dù sao thì người trừ quỷ cũng phải theo hướng dẫn chặt chẽ của giám mục.
Trừ quỷ trọng thể (solemn exorcism) là một hành vi công khai của Giáo Hội. Vì thế, nó không được thi hành bởi một cá nhân linh mục mà không có phép của giám mục giáo phận (c. 1172.1). Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo (1673) cũng hoàn toàn ăn khớp với Giáo luật về điều này. Và theo ĐHY Jorge Arturo Medina Estevez, bộ trưởng Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, những dấu hiệu bị quỷ ám gồm: nói những lời bằng những thứ tiếng lạ hoặc hiểu được chúng (trong điều kiện của người bị ám là người không rành các ngôn ngữ đó, như tiếng Aram chẳng hạn); nói ra những điều giấu kín hay ở cách xa đó; có sức mạnh khác thường so với điều kiện của một người kết hợp với sự xúc phạm nặng nề Thiên Chúa, Đức Maria, các thánh, thánh giá và những ảnh tượng thánh.
Trước hết, hành vi trừ tà trọng thể phải được thi hành với thẩm quyền, nghĩa là với sự chuẩn nhận của giáo quyền địa phương, cụ thể là giám mục giáo phận. Thứ đến, trước khi bắt đầu trừ tà, thật quan trọng khi phải xác quyết rằng đây là trường hợp quỷ ám đặc biệt mà Giáo Hội đang đối mặt. Có nhiều người đang điều trị y khoa nào đó, gồm cả bệnh tâm thần, có thể có những triệu chứng bên ngoài giống như bị quỷ ám. Trong cuộc họp báo ngày 26 tháng Giêng 1999, ĐHY Jorge Arturo Medina Estevez, bộ trưởng Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, đã nhấn mạnh rằng có rất ít người thực sự bị quỷ ám, chỉ có 1 trên 5.000 trường hợp được tường trình là bị quỷ ám thật sự. Vì thế, người trừ quỷ phải phân biệt giữa người bị quỷ ám thật sự và những người bị tâm bệnh. Vì thế, công việc xác minh rất quan trọng để tránh trường hợp bệnh nhân cần được điều trị bởi những nhà chuyên môn y khoa thì lại được người trừ quỷ xử lý! Chính vì công việc xác minh quan trọng như thế nên Giáo luật, điều 1172 §2 mới nói rằng đấng bản quyền chỉ ban phép trừ tà cho “một linh mục đạo đức, sáng suốt, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn”.
Giáo dân có được trừ quỷ?
Sách Công vụ 19,13-20 kể lại câu chuyện: “Ông Xikêua nọ, thượng tế Do Thái, có bảy con trai thường làm như vậy. Nhưng tà thần đáp: “Đức Giêsu, tao biết; ông Phaolô, tao cũng tường; còn bay, bay là ai? ” Rồi người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. Mọi người ở Êphêsô, Do Thái cũng như Hy Lạp, đều biết chuyện ấy; ai cũng sợ hãi, và thiên hạ tán dương danh Chúa Giêsu”. Trong trường hợp này, những người trừ quỷ là những người không có chuyên môn.
Giáo dân có được phép trừ quỷ không? Chúng ta có câu trả lời từ ĐHY Ratzinger, Bộ trưởng Thánh bộ Giáo lý đức tin. Nhân có một số nhóm cầu nguyện nhằm mục đích thoát khỏi ảnh hưởng của ma quỷ, họ tổ chức những cuộc hội họp do giáo dân hướng dẫn, ngay cả khi có linh mục hiện diện. Trong thư gởi các đấng bản quyền về các nguyên tắc trừ tà, ngày 29 tháng Chín 1985, ĐHY Ratzinger đã nhắc lại các điều khoản Giáo Luật trên về trừ tà và nói tiếp: “Từ những quy định này, giáo dân không được phép sử dụng công thức trừ tà chống lại Satan và các thiên thần sa ngã, trích đoạn từ công thức của ĐTC Lêô XIII, hay dùng toàn bản văn của nghi thức trừ tà này. Các giám mục nên cảnh báo giáo dân về điều đó, nếu cần thiết. Cuối cùng, cũng vì các lý do đó, đòi hỏi các giám mục phải cảnh giác – dù trong trường hợp không liên quan đến việc thực sự bị quỷ ám –những ai không được ban năng quyền thì không thể hướng dẫn các cuộc hội họp có đọc lời cầu mà trong đó ma quỷ bị chất vấn trực tiếp và căn tính của chúng được tìm biết”[1]
Nghi thức trừ quỷ trọng thể (Major Exorcism) chỉ được thi hành bởi một linh mục có thẩm quyền hay giám mục (sacerdos). Giáo dân có thể hiện diện trong nghi thức, hỗ trợ công việc cho linh mục trừ quỷ bằng lời kinh của họ được đọc các riêng tư hay được chỉ dẫn trong nghi thức. Tuy nhiên, bản văn De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam lưu ý rằng giáo dân không được đọc bất kỳ lời nguyện nào dành cho linh mục (bản dịch Anh ngữ Exorcisms and Related Supplications, số 35), không chỉ vì các lời nguyện chỉ dành cho những người được phong chức để hành động nhân danh Đức Kitô là Đầu (in persona Christi capitis), nhưng để bảo vệ giáo dân khỏi nhưng tổn hại tinh thần có thể. Khi người bị ám là nữ giới thì ít nhất nên có một người nữ khác hiện diện vì sự đứng đắn và thận trọng. Người trừ quỷ không bao giờ ở một mình với người bị ám, dù là khi tư vấn hay là trong khi cử hành nghi thức.
Trừ quỷ là lời cầu nguyện rơi vào thể loại á bí tích, nghĩa là một trong số các dấu hiệu thánh do Giáo hội thiết lập để “thánh hóa một số hoàn cảnh trong cuộc sống ” (Toát yếu Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 351), vì thế khác với bảy bí tích của Giáo Hội do chính Đức Kitô thiết lập. Bí tích Thống hối tha thứ tội lỗi và giao hòa chúng ta với Giáo Hội, bí tích Rửa tội ban ân sủng để chiến đấu với ma quỷ và với lên trong nhân đức. Như là một á bí tích, trừ quỷ chuẩn bị cho một người đón nhận ân sủng. Vì trừ quỷ là á bí tích, như là một lời cầu chúc, nên những người được lãnh nhận phép “trừ quỷ trọng thể” là những người được quy định bởi Giáo luật, điều 1170: “Các phép lành phải được ban trước hết cho những người Công giáo, nhưng cũng có thể được ban cho các dự tòng, và cho cả những người không Công giáo nữa, trừ khi Giáo Hội ngăn cản điều đó”. Vì thế, những người sau đây được lãnh nhận phép đặc biệt này nếu được cho là cần thiết: 1) Những người Công giáo; 2) Các dự tòng; 3) Những Kitô hữu không Công giáo xin lãnh nhận; và 4) Các tín hữu không Kitô giáo có ý ngay lành muốn thoát khỏi ảnh hưởng của ma quỷ. Những trường hợp liên quan đến người không Công giáo, nên báo cho giám mục biết (cf. ERS, số 18).
Cuốn nghi thức trừ tà De Exorcismis et Supplicationibus Quibusdam có 2 chương và hai phụ lục. Phụ lục thứ 2 là Những kinh nguyện có thể được giáo dân sử dụng cách riêng tư trong cuộc chiến chống lại quyền lực của bóng tối (Prayers which may be used privately by the faithful in the struggle against the powers of darkness). Đây là những lời kinh giúp giáo dân chiến đấu chống lại cám dỗ của tội lỗi hay những cuộc tấn công thiêng liêng, có thể đọc riêng tư.
Kết luận
Ma quỷ là có thật và chúng đang hoạt động dưới mọi phiên bản của sự dữ trên thế giới và ngay trong con người chúng ta. Trong bài giảng ngày 12.10.2018 tại nguyện đường Santa Marta, chú giải đoạn Tin mừng Luca 11,15-26, Đức Phanxicô đã nói: “Khi ma quỷ chiếm hữu tâm hồn của một người, nó lấy đó làm nhà và không muốn rời xa, cố gắng làm hư hỏng con người ấy thậm chí tàn phá về thể lý. Cuộc chiến đấu giữa thiện và ác trong con người chúng ta là cuộc chiến đấu thật sự giữa Thiên Chúa và con rắn xưa, giữa Đức Giêsu và ma quỷ. Mục đích và ơn gọi của ma quỷ là “phá hủy công trình của Thiên Chúa”. Khi ma quỷ không thể phá hủy “diện đối diện” vì có Thiên Chúa là sức mạnh lớn hơn bảo vệ con người, thì nó vốn xảo quyệt và “khôn hơn cáo” luôn tìm cách tái chiếm hữu con người ấy”. Chính vì thế, ĐHY Medina Estevez đã khẳng định tính chính đáng và cần thiết của công việc trừ quỷ hay trừ tà trong Giáo Hội: “Trừ tà dựa trên niềm tin của Giáo hội cho rằng Satan và những thần dữ khác hiện hữu và hoạt động của chúng nhắm đánh lạc hướng con người khỏi con đường cứu rỗi. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta rằng ma quỷ là những thiên thần sa ngã vì tội lỗi, rằng chúng là những hữu thể thiêng liêng có trí khôn ngoan và sức mạnh, nhưng tôi nhấn mạnh rằng ảnh hưởng xấu của ma quỷ và những người theo chúng thường được thực hiện qua việc lừa đảo và gây nhầm lẫn. Như Đức Giêsu là Sự thật (cf. Ga 8,44) thì ma quỷ là kẻ dối trá thượng thừa. Nó lừa phỉnh con người khi làm cho con người tin rằng hạnh phúc nằm ở tiền bạc, quyền lực và ham muốn xác thịt. Nó dụ dỗ con người nghĩ rằng mình không cần Thiên Chúa, rằng ân sủng và ơn cứu rỗi là điều không cần thiết. Nó còn lừa phỉnh con người khi giảm nhẹ ý thức về tội lỗi hay thậm chí loại bỏ nó bằng cách thay thế lề luật của Thiên Chúa như là tiêu chuẩn luân lý với các thói quen hay quy ước của đa số”.
Trong khi nhiệm vụ trừ quỷ là đặc quyền của Giáo Hội được trao phó cho những giám mục và những linh mục được ủy nhiệm rõ ràng theo giáo luật, mọi người đều có nhiệm vụ tự giải thoát mình khỏi tội lỗi là những “kênh” mà ma quỷ có thể thâm nhập và tàn phá tâm hồn, nhất là tội kiêu ngạo. Cha Juan José Gallego, Dòng Đaminh, linh mục trừ quỷ của Tổng giáo phận Barcelona đã nói với nhật báo El Mundo rằng theo kinh nghiệm của mình thì “kiêu ngạo” là tội mà ma quỷ thích nhất, thường thì do hoang tưởng bệnh hoạn về tài năng của mình mà ra. Điều này cũng không gì khó hiểu vì đây là tội mang “thương hiệu” của ma quỷ: chính kiêu ngạo đã biến thiên thần thành ma quỷ nên nó cũng hãnh diện thừa ở vị trí thứ nhất trong “bảy mối tội đầu”: Thứ nhứt khiêm nhường chớ kiêu ngạo. Vì thế, hãy tự bảo vệ mình trước sự lừa phỉnh gây hoang tưởng của ma quỷ trước khi cậy nhờ đến người trừ quỷ chuyên môn!
(Tài liệu tổng hợp)
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
2020
Đồng hành đức tin với những người trẻ di dân
Trong những năm trở lại đây, xã hội Việt Nam chứng kiến những cuộc di chuyển của nhiều bạn trẻ công giáo từ nông thôn đổ xô về các thành thị để học tập, tìm kiếm những cơ hội việc làm, phát triển bản thân và gia đình. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng đối với những người trẻ, mở ra nhiều vận hội và cơ may giúp họ dễ dàng thăng tiến nhiều lĩnh vực cuộc sống của mình. Việc bước vào sân chơi mới giúp họ mở rộng tầm nhìn, mở rộng tầm hiểu biết về thế giới quan, nhân sinh quan…
Trong lãnh vực đời sống kinh tế, họ có nhiều cơ hội làm ra của cải để phục vụ cho những nhu cầu về đời sống vật chất của mình. Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế giúp nâng cao đời sống vật chất, họ được hưởng nhiều dịch vụ xã hội do sự phát triển đem lại. Có thể nói, so với nguồn thu nhập từ nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, vốn bấp bênh và không ổn định thì nguồn thu nhập từ nền kinh tế thị trường trong các công ty, nhà máy, xí nghiệp… đem lại cho người trẻ nhiều hứa hẹn phát triển về nhiều mặt.
Tuy nhiên, trong lãnh vực đời sống thiêng liêng, những người trẻ công giáo này phải đối diện với một thực tế hoàn toàn mới mẻ và khác biệt với môi trường gia đình, nơi có những người thân thương, bạn bè. Khi bước vào một sân chơi mới với những cơ hội phát triển, những thách đố về chính bản thân những người tham gia cuộc chơi cũng không thiếu, như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói, song song với việc mở toang cánh cửa sổ để đón nhận những ‘luồng gió mới’, những ‘bụi bặm’ và những ‘cơn gió độc’ của trần thế cũng có thể thừa cơ để len lỏi vào căn nhà của mình.
Điều này phản ánh quy luật về tính hai mặt của một vấn đề. Mọi cuộc chơi đều có luật chơi và những đòi hỏi nhất định của nó. Việc chuyển đổi từ một sân chơi ở cấp ‘làng – xã’ sang một sân chơi mà biên độ của nó không còn giới hạn trong những định chế, khuôn khổ của ‘lệ làng’ nữa thì bản lĩnh tối thiểu của những người tham gia cuộc chơi nhất thiết phải có. Ở sân chơi mới này, luỹ tre làng hay những quy ước phía sau luỹ tre làng sẽ không còn đủ sức che chắn trước những đợt sóng gió thình lình bao trùm lên những người tham gia cuộc chơi. Nói chung, những ràng buộc từ bên ngoài như các quy ước hay lệ làng khó có thể bảo vệ những người trẻ trong sân chơi mới này, mà phải cần đến những nội lực xuất phát từ bên trong, mới có thể bảo vệ và gìn giữ trước những giông tố của đời họ.
Nội lực từ bên trong này, một phần là hoa trái của việc đồng hành đức tin của những người có trách nhiệm và những cộng đoàn giáo xứ mà những người trẻ di dân sinh sống, một phần là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô là Đấng đem lại niềm hy vọng cho hiện tại, Đấng thôi thúc lên đường, giúp mở lòng đón nhận thực tại mới, để làm chứng cho con người ngày nay bằng một di sản phong phú trong giáo hội nhờ kinh nghiệm trong cộng đoàn.
Những Người Trẻ Di Dân
Những người trẻ di dân ở đây được hiểu là những người là có cùng lứa tuổi, cùng sống trong một khoảng thời gian, trong những không gian, với những điều kiện xã hội, kinh tế nhất định[1]. Họ có chung mong muốn và khát vọng thay đổi cuộc sống hiện tại của bản thân. Theo Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, họ là những người “có chung một thế giới khách thể, cùng chia sẻ phần nào thế giới nghĩa thể, với những cảm nghĩ, thao thức, trăn trở trước cuộc sống. Vì cùng sống, phát triển và chịu ảnh hưởng của thời đại, mỗi thế hệ có những biểu lộ độc đáo về cuộc đời, lối sống, nếp nghĩ, thái độ, hành vi ứng xử, cách thế nhìn đời…”[2]. Bước ra khỏi lũy tre làng để đi tìm một cuộc mưu sinh tại các thành thị, họ cố gắng cởi bỏ bộ áo nông dân để hòa nhập vào nhịp sống của xã hội. Họ chập chững lần mò để tìm một điểm quy chiếu có thể làm hướng đi và là ánh sáng hướng dẫn đời sống, hầu làm lắng đọng một chút nào những xáo trộn đang khuấy đục nguồn sinh lực đời mình. Tác giả cuốn sách Để Họ Lớn Lên nhìn nhận họ như những người “bị cuốn hút trong vòng xoáy nghiệt ngã của thời đại, nên ngày càng trở thành bất nhất: thay đổi như chong chóng, từ cực tả sang cực hữu và ngược lại, vui đó rồi buồn đó, hăng say nhiệt thành thật nhưng cũng dễ nản chí, bất mãn, chán nản, buông xuôi hoặc quậy phá… Một số bạn trẻ khác bị áp lực của công việc, khó khăn của cuộc sống đô thị, sự căng thẳng của học tập, của gia đình… làm cho mắc phải căn bệnh mới của xã hội công nghiệp: bệnh “stress”, suy nhược tâm thần, đãng trí”[3].
Do vậy, họ cần có điều kiện để trở nên trung thực với chính mình, để trở nên những con người trưởng thành và mạnh mẽ hầu có thể tự khẳng định mình trước những thách thức và đòi hỏi của xã hội cũng như cư xử với xã hội[4] dựa trên những chuẩn mực và giá trị của Tin mừng.
Hệ quả của đời sống thiêng liêng nơi những người trẻ sống xa gia đình này tùy thuộc vào khả năng đồng hành của những người có trách nhiệm, cách đặc biệt, những cộng đoàn giáo xứ nơi họ sinh sống, hầu dẫn đưa họ đi đến cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, chạm được Đức Kitô, thấm nhuần tinh thần của Đức Kitô và học được nghệ thuật nhận diện dấu chỉ của Thiên Chúa giữa những gì dung dị nhất hằng ngày. Trong một bối cảnh xã hội ngày càng xa rời các giá trị nhân bản, tôn giáo, thì việc đồng hành này lại trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, để những người trẻ này, không những có khả năng nhìn thấy Thiên Chúa bằng con mắt đức tin, làm cho Thiên Chúa trở nên hữu hình giữa cộng đồng bằng đời sống của mình, mà còn làm cho người khác cũng cảm nhận được Thiên Chúa hiện diện[5]. Hơn ai hết, họ là những người cần đến một cuộc đồng hành đức tin hầu đem lại niềm hy vọng trong hiện tại.
Niềm Tin Đem Lại Hy Vọng Trong Hiện Tại
Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã diễn tả mối liên hệ giữa niềm tin và hy vọng như sau: “Hy vọng, thực ra, là một từ chủ yếu trong Thánh Kinh – đến mức trong nhiều đoạn những từ “đức tin” và “hy vọng” dường như có thể hoán chuyển cho nhau”[6]. Trong khi đó, tác giả Lý Minh Tuấn trình bày: “Hy vọng là tình trạng tâm thức hướng về một tương lai tốt đẹp có nền tảng vững vàng, chắc chắn. Khi có tình trạng tâm thức hiện diện, người ta cảm thấy lạc quan, yêu đời, và sẵn sàng chịu đựng gian khổ trong hiện tại để thăng tiến đến tương lai. Bởi vì thế gian này không có gì vững vàng, chắc chắn, trường tồn, cho nên hy vọng thường được hướng về một nền tảng siêu hình, vĩnh cửu”[7].
Một cách nào đó, giữa những choáng ngợp và bỡ ngỡ trong môi trường mới với những thói quen và nếp nghĩ mới, những con người này đang phải mò mẫm để tìm một ý nghĩa và một hướng đi cho cuộc sống trong bối cảnh hiện tại. Dữ kiện này có thể được xem như một “mảnh đất” để có thể gieo trồng hạt giống Lời, như quan điểm của Rousseau: “Người ta uốn nắn cây nhờ vun trồng, và đào luyện con người nhờ giáo dục”[8]. Niềm tin đạt được sự thật là “tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô” (Ga 14,1) khi niềm tin đó trở thành nguồn gốc, động lực và cùng đích cho những chọn lựa đời sống. Sự chọn lựa này đưa đến những quyết định làm cho cuộc sống của bản thân luôn luôn được quy chiếu dựa trên những hệ giá trị mà Đức Kitô đã sống, nghĩa là họ luôn luôn làm những điều đó trong hiện tại, mà không phải là tương lai hay quá khứ. Họ hành động vì họ có niềm hy vọng, một niềm hy vọng đáng tin cậy đến nỗi có thể đối diện với những thực tại ngổn ngang của đời họ, vì nó dẫn đến một cùng đích, và cùng đích đó đủ sức biện minh cho nỗ lực cam go của hành trình đời họ[9]. Ở điểm này, Bruno Chenu cho rằng: “Là kẻ tin, tức bao hàm sự dấn thân sâu sắc nhất của cả toàn thân con người trong sự tự do và năng động của mình, cùng với lịch sử cụ thể, với những liên đới và những dự tính của mình”[10]. Một sự dấn thân toàn vẹn, nhưng con người cũng ý thức được rằng, họ không thể tự mình soi dẫn con đường cho chính mình, mà phải cần một “ai đó”, một “tha thể”. Con người không thể tự nói lời soi dẫn cho chính mình, mà cần có một lời khác biệt để một đàng, giúp họ đi đến những quyết định trong những hành động cụ thể, đàng khác, không thay thế vai trò của họ trong từng hoàn cảnh cụ thể. Họ có tự do hoàn toàn để có những chọn lựa cho cuộc đời họ, vì biết rằng không có lý do nào khiến họ phải chọn lựa điều này hay điều kia như là cùng đích. Trong ý nghĩa sâu xa nhất, chính họ tạo ra ra lý do đó và thừa biết lý do đó không đầy đủ để giải thích lựa chọn của chính mình. Và do đó, theo tự nhiên, họ cần đến một “ai đó” đón nhận và tôn trọng họ ngay trong bản chất tương đối của họ, làm cho họ không cảm thấy bị lóa mắt trước chân lý. Họ mong đợi một điều chân thật, có thể nghe và hiểu được, có thể cảm thấu và lĩnh hội được, có thể khơi gợi trong họ khả năng đáp trả và dấn thân cách tự do[11].
Cũng như tình yêu chỉ sống trong hiện tại, những người trẻ này cũng cần được hướng dẫn cách nào đó để, trong mỗi hoàn cảnh và mỗi khi phải quyết định, hành động của họ được coi là thích hợp với những giá trị và chuẩn mực đáng tin cậy. Điểm quy chiếu đáng tin cậy tuyệt đối là con người của Đức Giêsu vì Ngài biểu thị Thiên Chúa, Ngài nói về Thiên Chúa, Ngài nói trong Thiên Chúa. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).
Niềm Tin Thôi Thúc Lên Đường
Cho đến nay, có không ít những người trẻ phải đối diện với những căng thẳng, những xung đột và giằng co giữa tâm linh – thế tục, đạo đời. Có rất nhiều người trẻ phải khổ tâm vì hố cách biệt quá sâu rộng giữa những gì tiếp thu ở nhà trường, nơi sở làm, hay ngoài xã hội với nếp sống trong gia đình và xứ đạo. Hệ quả là họ phải hình thành một thứ tư duy và bản lĩnh gọi là “bản lĩnh đối phó”. Làm thế nào để dung hòa những giá trị truyền thống với những biến đổi của môi trường đang sống hiện nay[12].
Triết gia Emmanuel Kant cho rằng, mục tiêu của việc giáo dục có một sứ mạng rất quan trọng là phải làm sao để phát triển nơi cá nhân tất cả sự toàn hảo mà họ có thể có được, để từ đó, họ có khả năng “tự trị” trong cuộc đời của họ mà không bị chi phối bởi những quyền lực từ bên ngoài mỗi khi hành động. Bởi ông cho rằng Thiên Chúa đã sáng tạo con người có tự do và trí năng của con người có thể đạt đến một sự hiểu biết nhất định, và chính khi cá nhân sống hết mình cho niềm say mê của mình, họ xứng đáng và có quyền đón nhận phần thưởng mà Thiên Chúa sẽ ban cho họ. Theo ông, mục tiêu đó phải giúp người trẻ đạt đến việc hoặc là họ quyết định hành động vì họ đã được giáo dục như thế, hoặc là vì họ ý thức được rằng Thiên Chúa muốn họ phải làm như thế, hoặc là vì họ muốn tìm lợi ích và hạnh phúc, hoặc là tự nhiên họ cảm thấy ưa thích đưa ra những ứng xử như thế vì muốn đạt tới điều tốt lành[13].
Khi đời sống đức tin của những người trẻ này được đồng hành và tiếp nhận đúng mức, họ sẽ cảm thấy một sự thôi thúc lên đường. Niềm tin, một khi đã được bén rễ, luôn bao hàm một sự rời bỏ quá khứ để lên đường, như ông “Abraham đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Với ông, ông xác tín rằng, phần của ông, ông chỉ việc nghe và làm theo hướng dẫn của Đức Chúa là đủ. Đó không chỉ là khám phá ra lời mời gọi lên đường mà còn là lời mời gọi một cuộc vượt qua khác, vượt qua chính bản thân mình, để cho “ai đó” bước vào trong hành trình cuộc đời của mình. Khi họ khám phá ra tiếng mời gọi cụ thể phù hợp với hoàn cảnh và tình huống cụ thể của mình, thì họ cũng đồng thời khám phá ra một tiếng huyền nhiệm mở ra một khoảng không để bước tới, hầu đạt đến Đấng đã mời gọi mình. Ở đây, hoa trái của việc đồng hành đức tin không còn dừng lại ở những công thức soạn sẵn, mà họ chỉ cần áp dụng vào những hoàn cảnh cụ thể đa dạng, nhưng là hành động cụ thể để khám phá lời mời gọi và những đòi hỏi của Tin mừng từ những hoàn cảnh cụ thể riêng biệt của mình. Và như vậy, họ có khả năng đón nhận những khác biệt trong cuộc sống hơn mà không bị choáng ngợp.
Một điểm khác ở đây là khi niềm xác tín được thiết lập và lớn dần theo thời gian với Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi họ, có nghĩa là họ bước vào một mối tương quan thân tình và cá vị, họ được Thiên Chúa quyến rũ qua những dấu chỉ, họ sẽ “nôn nóng” tìm kiếm Đấng đang hiện diện phía sau những dấu chỉ. Điều này giúp họ lớn lên trong sự nhìn nhận thực tại và đứng vào chỗ phải lựa chọn là quyết định theo những mục tiêu có giá trị cứu cánh tự thân, vốn kéo theo quyền lợi và hạnh phúc. Điều đó có nghĩa là sự trưởng thành toàn diện, bao hàm một sự thôi thúc ý chí vừa làm ra luật và vừa phải thi hành luật cho chính bản thân trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Tác giả cuốn sách Huấn Giáo “Niềm Tin Của Người Công Giáo” nói rằng: “Điều quyết định đối với tất cả những người ấy là đừng tuân theo cái bên ngoài của dấu hiệu và chiều kích lớn nhỏ của điều thấy được (Ga 2,23-25), sợ rằng vì làm như thế, mà bỏ lỡ cơ may nắm bắt được điều trọng yếu, là khuôn mặt luôn luôn kín đáo của Thiên Chúa. Nếu niềm tin thường diễn đạt bằng những dấu hiệu và ngôn từ, nó vẫn nhắm đến những gì vượt qua những điều này, là thực tại cuối cùng đang luồn vào trong các điều ấy và vượt các điều ấy”[14].
Hệ quả, niềm tin này thấm nhập vào con người của họ, thôi thúc họ phải có những bước chuyển động và đi đến những quyết định, đồng thời đáp trả bằng một thái độ phó thác toàn vẹn bản thân. Điều này cũng giúp họ định hướng và xây dựng tất cả cuộc đời của mình trên nền tảng là Thiên Chúa, cụ thể qua con người Đức Giêsu và những giáo huấn của Ngài. Hơn nữa, họ cũng làm cho ý thức và trách nhiệm về cuộc sống của họ ngày càng lớn lên trong mối tương quan với Đấng mà họ tin. Đạt đến ngưỡng cửa này, niềm tin mà họ có được không còn là một ý kiến thuần túy lý trí hay một xúc động theo cảm tính, mà là một quyết định có tính cách sinh tồn, dẫn đến một thái độ trung thành đích thực, đúng như triết gia Henri Bergson đã nói, phải là trung thành sáng tạo của một cơ thể sống động, tiếp thu và tiêu hóa những yếu tố lấy từ bên ngoài mà vẫn duy trì được bản chất. Thái độ đó giúp phá tan đi những rào cản của thủ cựu để đưa nước nguồn chảy về hiện tại, để luôn giải thoát họ khỏi những tập tục thuần túy nhân loại, để soi sáng và dẫn đưa họ bước đi trên hành trình tìm chân lý[15]. Điều này lý giải việc nhận thức về một Thiên Chúa qua những hình thức trình bày sống động hơn, được biểu lộ rõ nét hơn, và gần gũi hơn với cuộc sống của họ. Do đó, nhiệm vụ của những người đồng hành cũng được mời gọi sống gần gũi với những con người đương thời, để có thể hiểu được lối suy nghĩ và cảm nhận của người trẻ, hầu có thể hướng dẫn nếp sống và giáo lý Kitô giáo, để cảm thức tôn giáo nơi những người trẻ này cũng lớn lên và song hành với kiến thức khoa học và kỹ thuật đang ngày càng tiến bộ. Nhờ vậy, những người trẻ này có thể nhận định và giải thích các sự kiện, biến cố trong cuộc đời của họ bằng một tâm thức Kitô giáo đích thực, và luôn mở lòng đón nhận những thực tại mới trong ánh sáng niềm tin đã lãnh nhận[16].
Mở ra đón nhận thực tại mới
Người trẻ luôn luôn là những con người của ước mơ, hy vọng và quảng đại. Họ luôn hướng về tương lai, đưa ra những dự kiến, đặt kế hoạch cho tương lai của mình, và háo hức để làm cho kế hoạch đó thành hiện thực. Nếu không có sự sắp đặt và chuẩn bị trước cho tương lai, người trẻ khi đối diện với những gì bất ngờ xảy đến, sẽ gặp phải thách đố. Từ kinh nghiệm của bản thân, họ nhận thấy rằng, nếu chỉ đơn thuần áp dụng lại các giải pháp có thể có hiệu quả trong quá khứ, thì chưa hẳn giúp họ đảm nhận được cách hiệu quả những cái hiện tại[17]. Nhà xã hội học E. Durkheim cho rằng sứ mạng của giáo dục là phải chuẩn bị nơi cá nhân những thích ứng với xã hội chính trị và môi trường riêng mà cá nhân đó sẽ sống. Bởi lẽ, suốt cuộc đời, con người tham gia vào rất nhiều loại hình cơ cấu trong xã hội. Trong những cơ cấu này, họ phải hoàn tất việc hội nhập của mình để tồn tại. Lối ứng xử của con người với tư cách cá nhân phản ánh vai trò và vị trí của họ trong cộng đồng. Ông còn cho rằng, giáo dục là hoạt động không chỉ riêng của một người hay một nhóm người nhưng là của cả một cộng đoàn đối với một thế hệ để đảm bảo cho thế hệ đó tồn tại và phát triển không ngừng[18]. “Trong các xã hội hiện đại, nhu cầu thay đổi trở nên thúc bách, căn cứ vào các phát minh khoa học và kỹ thuật. Ai không thể thích nghi, sẽ nhanh chóng bị loại ra ngoài, và không làm chủ được tương lai”[19]
Thực ra, sẽ không có giải pháp chung cho mọi vấn đề, bởi mọi vấn đề nảy sinh đều có giải pháp và mọi giải pháp đều nảy sinh vấn đề. Điều có thể thực hiện là một sự hướng dẫn để giúp họ luôn động não, cố gắng suy nghĩ, kiếm tìm và, sau khi cầu nguyện, can đảm chọn lựa một giải pháp thích hợp nhất cho vấn đề. Điều quan trọng không phải là phải nhồi nhét, học thuộc bài như “vẹt”, nhưng là giúp hiểu vấn đề, và tìm ra những giải đáp mới phù hợp trong tình hình hiện tại.
Mặc khải của Kitô giáo cho thấy một Thiên Chúa luôn quan tâm đến thân phận con người, đến mức ràng buộc chính Người Con duy nhất của mình trong thân phận ấy. Nơi Người Con, người ta khám phá ra một sự liên lụy đến từng phận người; thay vì giải thoát ra khỏi những nhiệm vụ trần thế, Đức Giêsu đã đưa ra lời mời gọi đối với những ai đến với Ngài là hãy noi gương Ngài để trở thành men mới giữa cả khối bột nhân loại dày cộm này. “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Cũng nơi Người Con, người ta khám phá ra sức mạnh để đối diện với những điều mới mẻ, những điều chưa biết mà đôi khi khiến họ lo âu, vì những điều này đòi hỏi người ta chấp nhận mất đi một phần nào những tiện nghi êm ấm và sự an nhàn trong hiện tại, vốn dễ dàng đưa đến thái độ cam chịu sống trong thói quen, trong sự hẹp hòi, và dễ dàng rơi vào tình trạng xơ cứng. Dám đảm nhận sự bấp bênh của ngày mai là thái độ can đảm đáp trả và dấn thân của Abraham với Thiên Chúa (x. Dt 11,8)[20]. Khoa tâm lý học hiện đại chứng mình rằng, người ta có thể không tin những gì họ thấy nhưng họ sẽ thấy những gì họ tin. Những gì mong muốn thấy, họ sẽ thấy. Nếu họ có mong muốn Thiên Chúa mặc khải chính Người trong Đức Giêsu, họ sẽ thấy, vì Ngài vẫn hiện diện. Chính Đức Giêsu đã chỉ cho hai môn đệ thấy vấn đề cốt yếu của họ nằm ở con tim, chứ không phải ở việc hiểu biết.
Như vậy, việc đồng hành đức tin nhất thiết phải đạt đến mục đích là duy trì trong mỗi người trẻ khả năng đón nhận thật sự cái tương lai, luôn “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng” (1Pr 3,15), không đóng khung mọi hành vi cư xử vào một hệ thống khép kín, mà quên đi yếu tố nhân loại đang tiến triển từng ngày. Trong chiều hướng này, cộng đoàn giáo xứ, nơi những người trẻ di dân sinh sống, trở thành tác nhân đồng hành khi giúp các thành viên lớn lên trong sự trung thành với Thiên Chúa, phù hợp với địa vị làm con của họ trong lòng giáo hội. Tất nhiên, về phía những người trẻ, họ cũng phải cùng nhau làm sáng tỏ lý do hiện hữu và mục tiêu nền tảng của mình.
Kết luận
Nếu cùng đích của giáo dục, như quan điểm của Henri, có mục đích giúp con người hoàn toàn làm chủ bản thân và sử dụng đúng mức tất cả mọi khả năng của mình trong xã hội trần thế, thì việc hình thành một mô hình nhân cách trọn vẹn, một thái độ trưởng thành nhân bản Kitô giáo là trách nhiệm của cộng đồng giáo xứ, nơi những người trẻ sinh sống, hầu có thể mong muốn có được những con người có thể góp phần vào vận mệnh của dân tộc.
Sứ mạng đồng hành đức tin với những người trẻ di dân đòi hỏi người có trách nhiệm đồng hành, đặc biệt là lãnh vực nhân bản Kitô giáo, cần phải có được cái tâm của Thầy Giêsu, để giúp những người trẻ này có được một bản lĩnh cần thiết. Nghĩa là sứ mạng này đòi hỏi nơi họ những hy sinh âm thầm khi gieo trồng những mầm cây trên mảnh đất tâm hồn con người, và tất nhiên cần phải luôn biết chăm sóc, vun xới cho cây ngay cả những lúc cây chưa sinh hoa kết trái (x. Lc 13, 8), để tạo ra một sự trưởng thành và quân bình đầy đủ nơi những người trẻ này. Đặc biệt, trong bối cảnh khi xã hội Việt Nam đã gia nhập vào dòng chảy kinh tế thế giới, tinh thần của Đức Giêsu phục sinh cần phải được áp dụng cách cụ thể hơn, đó là tinh thần của người dám bỏ lại 99 con để đi tìm một con chiên lạc (x. Mt 18, 12) chứ không phải là tinh thần của những người ngồi một chỗ để chờ chiên tìm đến xin gia nhập đàn.
Kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Emmaus cho thấy, Đức Giêsu phục sinh đã không hiện diện với một người nhưng với một nhóm người, với cộng đoàn, và dĩ nhiên Ngài có khả năng hiện với từng người. Điều này chỉ ra rằng khi những con người cùng chia sẻ một niềm tin tụ họp với nhau, cùng “tham dự bẻ bánh” với nhau, tâm trí sẽ bừng sáng lên niềm hi vọng, niềm tin vào cuộc sống và sức sống cho hành trình của mình. Việc hai môn đệ “nài ép” Đức Giêsu (x. Lc 24, 29) cho thấy rằng, trong mọi tình huống của đời sống, khi người ta biết dành thời gian để hiện diện với Đức Giêsu, thì họ luôn luôn có sẵn nguồn sức mạnh tối thượng có thể giúp họ phá tan mọi nguy nan và tăm tối, và điều này làm nên sự khác biệt trong mọi hoàn cảnh, bởi vì cùng đích của sự sống con người, theo thánh Irênê, là được nhìn thấy Thiên Chúa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Công Đồng Vatican II, Gaudium et Spes, 1965.
ĐGH Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi. 2007.
ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến. 1996.
Nguyễn Thái Hợp, Để Họ Lớn Lên. TPHCM: Đức tin & Văn hóa, 2005.
Nguyễn Xuân Nghĩa, Xã Hội Học, TPHCM: ĐHQGPHCM, 2017.
Trần Thái Đỉnh, Triết Học Kant. TPHCM: VHTT/TPHCM, 2005.
Lý Minh Tuấn, Niềm Tin và Hy Vọng, 2004.
Bruno Chenu & tgk. La foi des Catholiques, Phạm Minh Thiên và các dịch giả khác dịch. TPHCM: Tôn Giáo, 2009.
Jean Jacques Rousseau, Émile Hay Là Về Giáo Dục, Lê Hồng Sâm và Trần Quốc Dương dịch, Hà Nội, NXB Tri Thức, 2010.
Larson, B., & Ogilvie, L. J. (1983), Vol. 26: The Preacher’s Commentary Series, Volume 26: Luke. Formerly The Communicator’s Commentary. The Preacher’s Commentary series (347), Nashville, Tennessee: Thomas Nelson Inc.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 119 (Tháng 7 & 8 năm 2020)
[1] x. Nguyễn Thái Hợp, Để Họ Lớn Lên, (TPHCM: NXB Đức tin & Văn hoá, 2005), tr. 75.
[2] x. Nguyễn Thái Hợp, sđd., tr. 75.
[3] x. Nguyễn Thái Hợp, sđd., tr. 82.
[4] x. Jean Jacques Rousseau, Emile Hay Là Về Giáo Dục, Lê Hồng Sâm và Trần Quốc Dương dịch, (Hà Nội: NXB Tri Thức, 2010), tr. 17.
[5] x. Gioan Phaolô II, Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến, số 68.
[6] Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi, số 2.
[7] Lý Minh Tuấn, Niềm Tin và Hy Vọng, 2004, tr. 21.
[8] Jean Jacques Rousseau, Émile Hay Là Về Giáo Dục, sđd., tr. 32.
[9] x. Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi, số 1.
[10] Bruno Chenu & tgk. La foi des Catholiques. Phạm Minh Thiên và các dịch giả khác dịch. (TPHCM: Tôn Giáo, 2009), tr. 204.
[11] x. Bruno Chenu & tgk. La foi des Catholiques. sđd., tr. 212.
[12] x. Nguyễn Thái Hợp, Để Họ Lớn Lên, sđd., tr. 138.
[13] Trần Thái Đỉnh, Triết Học Kant, (TPHCM: NXB Văn hóa & Thông tin, 2005), tr. 247-255.
[14] Bruno Chenu & tgk. La foi des Catholiques. Sđd. tr. 215.
[15] x. Nguyễn Thái Hợp, Để Họ Lớn Lên, sđd., tr. 142-143.
[16] x. Công Đồng Vatican II, Gaudium et Spes, số 62.
[17] x. Bruno Chenu & tgk. La foi des Catholiques. Sđd. tr. 442.
[18] x. Nguyễn Xuân Nghĩa, Xã Hội Học (TPHCM: NXB ĐHQGTPHCM, 2017), tr. 35-37.
[19] Bruno Chenu & tgk. La foi des Catholiques. Sđd. tr. 442.
[20] x. Bruno Chenu & tgk. La foi des Catholiques. Sđd. tr. 442-443.
2020
Các giám mục Á châu liên đới với linh mục dòng Tên bị giam tù
2020