CHIẾU SÁNG GIỮA THẾ GIAN
28.1 Thánh Tôma Aquinas, Lmts
Dt 10:19-25; Tv 24:1-2,3-4,5-6; Mc 4:21-25
CHIẾU SÁNG GIỮA THẾ GIAN
Thánh Tô-ma A-qui-nô sinh năm 1225 tại thành Naples Ý Ðại Lợi trong một gia đình phú quí và đạo hạnh. Ngài được hấp thụ một nền đạo đức sâu sắc, đặt căn bản trên đức tin và giáo lý chân chính của Chúa Giêsu và các tông đồ. Cha của Tô-ma là lãnh Chúa đảo Aquinô. Tuy danh vọng cao vời, nhưng gia đình cha mẹ của thánh nhân luôn biết kính sợ Chúa và giáo dục con cái theo luật Chúa và Giáo Hội. Nhờ thế, thánh Tôma Aquinô đã sớm tiến tới trong đàng nhân đức, có một đức tin sắt đá và một nền học vấn uyên thâm để có thể hiểu và giải đáp được những vấn nạn trong xã hội cũng như những giải đáp cho thời đại đang tiến bộ.
Trong quá trình theo học, Tôma được gửi học ở tu viện Cassino do các Cha Bênêđitô điều khiển. Một biến cố chính trị đưa đến việc giải tán tu viện sau 9 năm thánh hân đã theo học với các cha Bênêđitô. Sau đó, thánh nhân lại tiếp tục học ở Naples, nơi đây thánh nhân có dịp tiếp xúc với các cha dòng Ðaminh, Tôma say mê với lý tưởng sống cho người nghèo và làm việc trí thức để truyền bá cho những người khác chân lý, lý tưởng mà Ngài đã ghiền gẫm, đã suy nghĩ. Lý tưởng của thánh Ðaminh đã đánh động Ngài tới tận căn, nên Ngài đã quyết định xin vào dòng thánh Ðaminh vào năm 1244.
Việc này làm phật ý thân mẫu thánh Tôma vì bà luôn muốn Tôma làm tu viện trưởng Cassino. Thân mẫu của Tôma quyết định bắt Tôma về giam trong gia đình và dùng mọi mưu kế để cho Tôma trở về thế gian. Mọi mưu chước của mẹ đều bị thất bại. Sau cùng trong cơn mù quáng tột độ, bà đã dùng một cô gái trắc nết để quyến rũ thánh nhân, vì bà hy vọng Tôma sẽ bị ngã gục. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Tôma đã chiến thắng, đuổi cô gái hư ra khỏi nơi Ngài ở. Chúa đã yêu thương Ngài, sai thiên thần đến cột giây trinh khiết cho Ngài để biểu tỏ sự chiến thắng của Ngài, đúng như lời sách đệ nhị luật đã viết:” Chúa ấp ủ và lo dưỡng dục Tôma, luôn gìn giữ chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa”(Ðnl 32, 10 ).
Với ý chí sắt đá, lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, thân mẫu Ngài đành để Ngài trốn về lại tu viện. Thánh Tôma lúc đó được thụ huấn với thánh Albertô, một học giả uyên bác, nổi tiếng thời đó. Năm 27 tuổi, thánh Tôma đã trở thành giảng sư đại học với một kiến thức uyên bác có thể hướng dẫn được giới trí thức đang say mê triết học Hy Lạp ngoại giáo. Ngài đã viết bộ” Tổng luận thần học” đầy giá trị, để lại cho Giáo Hội và hậu thế. Ngài nói Ngài đã múc tất cả sự khôn ngoan nơi Chúa Giêsu qua suy niệm và cầu nguyện để viết nên:” Tổng luận thần học” này.
Ngài qua đời lúc mới có 49 tuổi, cái tuổi đang sung sức và việc dậy học đang nổi tiếng vào năm 1274. Ðức thánh cha Gioan XXII phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1328. Năm 1567, Ðức Giáo hoàng Piô V lại cất nhắc Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh với tước hiệu: “Tiến Sĩ Thiên Thần”. Năm 1880, Ðức thánh cha Lêo XIII đặt Ngài làm quan thầy các trường công giáo.
Trong khi thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn mà nói với các môn đệ và dân chúng. Ngài thường dùng những hình ảnh rất cụ thể, gần gủi với đời sống thường nhật của họ mà dạy họ về chân lý. “Chiếc đèn và đấu đong” là hai hình ảnh rất bình dị mà Chúa Giêsu đã dùng trong Tin mừng theo thánh Máccô hôm nay.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?”
Chiếc đèn là vật dụng rất thân thuộc với người Do Thái, mà nó cũng rất thân thuộc với người Việt nam chúng ta, hầu như ai cũng biết và cần dùng đến. Khi bóng tối bao phủ, màn đêm buông xuống thì ánh đèn được đốt lên, người ta thường đặt nó trên đế, đặt nơi vị trí cao để ánh sáng của nó có thể lan tỏa đến mọi vật, chiếu sáng cho mọi người. Nếu đốt đèn lên mà đem dấu đi dưới cái thùng hay đặt dưới gầm giường thì quả là sai mục đích, là mâu thuẫn và uổng phí, thà nó tắt đi còn hơn, vì làm như thế là làm mất giá trị của chiếc đèn. Chúng ta công nhận với nhau rằng, công dụng của chiếc đèn là chiếu sáng cho mọi người, soi cho tỏ mọi vật, để nhờ đó ta có thể phân biệt mọi sự cách chuẩn xác và đúng đắng.
“Chiếc đèn” trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn nói đến ấy là Tin Mừng, “Tin Mừng ơn cứu độ” mà Ngài đã thắp lên nơi cõi lòng các môn đệ, thắp lên nơi tâm hồn những người đang nghe và đón nhận lời Ngài, Lời chân lý. Chiếc đèn ấy (Tin mừng ấy) không thể được dấu kín, nhưng phải lan tỏa ra cho hết thảy mọi người, hay nói cách khác, Tin mừng mới đầu chỉ một thiểu số biết thôi, nhưng theo thời gian Tin mừng đó cần được chiếu tỏa, phải được loan báo cho mọi dân tộc (Mc 13, 10).
Khi đón nhận tin mừng cứu độ từ Đức Giêsu Kitô, khi đón nhận ánh sáng phục sinh lúc lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người Kitô hữu trở nên là ngọn đèn cháy sáng giữa muôn dân. Ngọn đèn đức tin ấy được lan tỏa đến mọi người qua đời sống “nên thánh” trong chân lý mạc khải, qua sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu. Bằng đời sống cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa, qua cách sống chân thành, biết nêu gương lành trong gia đình – xã hội, biết thực thi tình bác ái giữa cộng đoàn, nơi mình đang sống, thì mỗi người chúng ta như ngọn hải đăng giữa biển đời, như ánh đèn chân lý giữa xã hội đầy giả trá đang kêu gào công bình sự thật.
Tuy nhiên, chiếc đèn đức tin nơi ta sẽ không thể phát sáng nếu không đón nhận nguồn sáng nơi Chúa, nơi mẹ Giáo Hội qua Lời của Đức Giêsu Kitô và các bí tích. Bởi thế, mỗi người chúng cần xin ơn trợ lực, để dám dùng những “cái đấu” (“cái đấu” là mức độ tâm hồn mở ra để đón nhận) thật to của để đón nhận ân sủng Chúa với lòng quảng đại trao ban lại cho những ai cần đến ơn Chúa.