Bệnh Phung trong Kinh Thánh
Bệnh Phung trong Kinh Thánh
Bệnh cùi (leprosy) được Kinh Thánh nhắc tới rất nhiều lần. Bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn (1922-1975) gọi nó là bịnh phong (Lêvi 13:2). Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ gọi nó là phong hủi (Dân Số 5:2).
Ngày xưa, theo Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), người Việt gọi bệnh này là cùi, hủi, phung, phung cùi, phung hủi (xem: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, 1895, tome I: tr. 202, 451; và 1896, tome 2: tr. 210).
Cũng ngày xưa, Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương (1838-1914) là một nhân vật tai mắt ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Tương truyền, nhân một Tết Nguyên Ðán nọ, đại gia họ Ðỗ ra câu đối, có treo giải thưởng cho ai khéo đối. Họ Đỗ thách đối như sau:
Ðất Chợ Lớn có nhà họ Ðỗ, đỗ một nhà, ngũ phước tam đa.
Vế thách đối dùng hai từ đồng âm: Đỗ (họ) và đỗ (thi đậu).
Ghét họ Đỗ quá tận tụy phục vụ thực dân Pháp cướp nước, có người gởi đến câu đối lại như sau:
Cù lao Rồng có lũ thằng phung, phun một lũ cửu trùng bát nhã.
Vế đối lại dùng hai từ đồng âm theo giọng miền Nam: phung (hủi, cùi) và phun (như trong miệng phun ra). Vì sao địa danh cù lao Rồng được nhắc tới? Cù lao này (cũng gọi cồn Tân Long) nằm trên sông Tiền thuộc Mỹ Tho; năm 1903 Toàn Quyền Đông Dương Paul Beau ra nghị định thành lập trên cù lao Rồng một trại phung cho Nam Kỳ. Năm 1940 trại phung này dời về Tuy Hòa.
Như thế, căn cứ vào những điều dẫn trên, gọi cùi, hủi, phung là theo tiếng Việt (hay Nôm); gọi phong là dựa theo chữ Hán, vì người Hoa gọi bệnh này là ma phong bệnh. Vậy, gọi phong hủi là ghép Hán (phong) với Việt (hủi).
*
Kinh Thánh nói nhiều tới bệnh phung vì bệnh này là hình ảnh minh họa cho sức hủy diệt của tội lỗi.
Cựu Ước (Lêvi chương 13) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê và Aharôn cách phân biệt giữa bệnh phung với các loại bệnh khác như: mụt, lác, đốm; ung nhọt; phỏng; chốc; mày đay; sói đầu. Bất kỳ ai bị nghi ngờ mắc bệnh phung đều phải đến gặp tư tế để xem xét (Lêvi 13:2-3). Nếu bị tư tế kết luận là đã mắc bệnh phung, người bệnh buộc phải theo quy chế là: áo xống phải xé tả tơi, đầu để tóc rối che mình đến râu mép và kêu lên: ‘Nhơ, nhơ!’ Chừng nào còn mang bệnh phung thì người ấy còn nhơ uế, và phải sống riêng biệt một mình. Chỗ ở phải để bên ngoài trại của những người không mắc bệnh (Lêvi 13:45-46).
Cựu Ước (Lêvi chương 14) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê và Aharôn cách tẩy uế người đã hết bệnh phung và nhà cửa bị nhơ uế vì phung hủi.
Năm 1873 bác sĩ Hansen (1841-1912, người Na Uy) có công tìm ra trực khuẩn leprae (cũng gọi vi khuẩn Hansen) là nguyên nhân gây bệnh phung, nhờ đó sau này y học có phương pháp chữa trị. Nhưng thời xưa, trước khi có được cách trị bệnh phung, người ta tin rằng Trời gieo bệnh này để trừng phạt kẻ phạm tội. Bị mọi người ghê tởm, khinh miệt, và ruồng bỏ, bệnh nhân không được quyền sống gần gũi cộng đồng. Cựu Ước (Dân Số 5:2-4) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê:
“ ‘Hãy truyền cho con cái Itxraen đưa ra khỏi trại mọi kẻ phung hủi (…). Dù là đàn ông hay đàn bà, các ngươi sẽ đưa chúng ra; tận bên ngoài trại, các ngươi sẽ đưa chúng ra, để chúng đừng làm nhơ uế trại, là nơi Ta ở giữa chúng.’ Và con cái Itxraen đã làm như thế: Họ đã đưa chúng ra ngoài trại. Yavê đã phán với Môsê làm sao, thì con cái Itxraen đã làm như thế.”
Theo cổ luật Do Thái, người mắc bệnh phung phải ở cách xa người không mắc bệnh (kể cả thân thích ruột thịt) khoảng 1,8 mét; nếu có gió thổi, thì khoảng cách phải là 45 mét (x. http://www.gotquestions.org/Bible-leprosy.html). Vì vậy, người bệnh phung phải sống chung với người đồng cảnh ngộ cho tới khi chết, nếu bệnh không thuyên giảm. Đây là biện pháp thi hành ở Do Thái thời xưa để ngăn ngừa bệnh phung lây lan.
Tân Ước (Matthêu 8:2-4) chép rõ một phép mầu của Chúa như sau:
“Khi Ðức Giêsu ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Ngài. Và kìa, một người bị phung hủi tới gần, bái lạy Ngài và nói: ‘Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.’ Ngài giơ tay chạm vào anh ta và bảo: ‘Tôi muốn, anh sạch đi.’ Lập tức, anh ta được sạch bệnh phung hủi. Rồi Ðức Giêsu bảo anh ta: ‘Coi chừng, chớ nói với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.’”
Đó là người bệnh phung đầu tiên được Đức Giêsu chữa lành. Anh ta lành bệnh nhờ có đức tin vào Chúa. Phép mầu Chúa ban cho anh ta cũng làm chứng cho lời Thánh tông đồ Phaolô trong Thư Gửi Tín Hữu Êphêxô (8:2):
“Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ. Đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa…”
Người bệnh phung ấy đã dám cãi luật Do Thái, đã không chịu giữ khoảng cách tối thiểu 1,8 mét, và chỉ có đức tin mãnh liệt vào Chúa mới khiến anh ta chủ động tới gần Chúa, quỳ xuống lạy, cầu xin ơn Chúa: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Cùng với lời cầu xin ấy đầy xác tín ấy, hành động can đảm cãi luật Do Thái của anh ta cũng làm chứng cho lời dạy này ghi trong Thư Gửi Tín Hữu Do-Thái (4:16):
“Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.”
*
Một phép mầu thứ hai Chúa ban cho người phung được Thánh tông đồ Luca (17:11-19) chép như sau:
“Trên đường lên Giêrusalem, Ðức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: ‘Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!’ Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ: ‘Hãy đi trình diện với các tư tế.’ Ðang khi đi thì họ đã được sạch. Một người trong bọn, thấy mặt được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Ðức Giêsu mới nói: ‘Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?’ Rồi Người nói với anh ta: ‘Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.’ (Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ)
Chúa bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế” là để họ được các tư tế xem xét tình trạng sạch bệnh, không còn nhơ uế nữa, như Lêvi chương 13 quy định. Mười người có đức tin ấy đã vâng theo lời Chúa mà đi gặp các tư tế, và chính lúc đang đi như vậy thì họ sạch bệnh. Có lẽ khi ấy họ đi chưa mấy xa, nên một trong nhóm mười người đó bèn quay lại gặp Chúa, quỳ xuống tạ ơn.
Thánh Luca chép sự kiện Chúa làm phép mầu ngắn gọn như thế, nhưng chúng ta hiểu rằng chín người thọ ơn Chúa mà cứ vô tâm bỏ đi, không một lời cảm ơn vắn vỏi, thì họ vẫn cứ sạch bệnh. Phép mầu không mất đi trên da thịt họ, bởi vì Chúa đã cho thì không lấy lại. Nhưng, họ chỉ mới được cứu cho phần xác. Còn người Samari, người duy nhất biết vội vàng chạy ngược lại tìm Chúa để thành tâm cúi lạy tạ ơn thì sao? Anh được Chúa bảo gì?
Câu Luca 17:19 được linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch: “Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi.”
Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch không mấy khác: “Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Nhưng tôi lại thích câu Luca 17:19 trong bản King James hơn: “Arise, go thy way: thy faith hath made thee whole.”
Có lẽ đã noi theo bản King James nên trong truyện ngắn A Leper’s Thanksgiving, mục sư Ralph F. Wilson (Tiến Sĩ Thần Học Mỹ) viết rằng Chúa đã bảo anh chàng Samari là: “Rise and go. Your faith has made you whole.”
Khi chuyển ngữ truyện ngắn của mục sư Wilson (xem “Một Trong Mười”, nguyệt san CGvDT tháng 5-2016), tôi dịch: “Dậy mà đi đi. Đức tin của anh đã biến anh thành toàn vẹn.”
Tôi hiểu toàn vẹn (whole) là cả xác lẫn hồn. Chín người kia không toàn vẹn, vì chỉ mới được cứu chữa phần xác.
Trong bản tiếng Anh của Wilson, mục sư viết: “They [chín người bệnh khác] had received physical healing, indeed, but at Jesus’ feet, Bart had received a healing of his whole person.”
Wilson chỉ nói whole (toàn vẹn), không nói gì tới phần hồn, nhưng tôi hiểu mục sư hàm ngụ có phần hồn trong đó, bởi lẽ vế trước đã nói physical healing (chữa trị phần xác). Hiểu như vậy nên tôi dịch câu tiếng Anh dẫn trên là: “… họ [chín người bệnh khác] đã được chữa lành phần xác, nhưng quỳ dưới chân Đức Giêsu, Batôlômêô đã nhận được ơn chữa lành trọn cả thân tâm.” Nói trọn cả thân tâm thì cũng đồng nghĩa trọn cả xác lẫn hồn.
Mục sư Wilson rất thâm thúy khi kết thúc truyện ngắn lại viết câu này: “The gift of healing had sent him the message of God’s love, but thanks had brought him home.”
Tôi dịch: “Món quà cứu chữa đã gởi cho ông sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa, nhưng lòng biết ơn đã mang ông về lại quê nhà.”
Mặc dù home thường được hiểu là nhà, nhưng tôi chủ ý dịch là quê nhà. Bởi lẽ tôi tin rằng mục sư Wilson không hề ám chỉ ngôi nhà nào đó của Batôlômêô được dựng lên trên đất đai Samari. Tôi tin Wilson, cũng giống như những người tín hữu Cao Đài, hiểu rằng thế gian này chỉ là đất khách, là quê người, là chỗ tạm ghé để tạm trú trong vài mươi năm của một kiếp người mỏng manh dòn vỡ. Quê nhà đích thực của mỗi người chúng ta không phải ở thế gian, mà ở một nơi được các tôn giáo xưa nay gọi bằng nhiều danh từ khác nhau: Thiên Đàng, Nước Trời, Thượng Giới, Cực Lạc, Niết Bàn, Tịnh Thổ, v.v… Quê nhà đó còn được các tôn giáo hình tượng hóa là Thiên Chúa, Chúa, Trời, Thượng Đế, Ngọc Hoàng, Phật, v.v…
Những cảm nghĩ nói trên tôi không tiện diễn bày trong bản dịch Một Trong Mười. Do đó, tôi viết bài này như một tản mạn, cũng là để chia sẻ với nhau chỗ hòa điệu liên tôn. HK