Bánh Hằng Sống
Thứ Bảy tuần III PS
Ga 6, 52-59
BÁNH HẰNG SỐNG
Trang Tin mừng hôm nay nằm cuối trình thuật Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài chính là manna mới và đích thực, mang lại sự sống đời đời cho những ai “ăn thịt và uống máu” Ngài. Chúa Giêsu cố gắng thuyết phục người Do thái tin và đón nhận Ngài vì lợi ích của chính họ, nhưng thất bại. Lý do chủ yếu có lẽ nằm ở chỗ họ không thể vượt qua cách hiểu thông thường, vật chất về việc ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu, và cho đó là việc man rợ, mất nhân tính.
Tuy nhiên, ta cũng có thể nghĩ đến một lý do khác, đó là từ chỗ bất ngờ, họ đi đến chỗ nghi ngờ lòng yêu thương, nhân từ của Chúa Giêsu, Đấng tuyên bố hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của người khác.
Diễn từ về “Bánh Hằng Sống – Bánh Trường Sinh – Bánh Từ Trời…” khá dài nhưng nó đánh dấu một bước quan trọng trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu mạc khải căn tính của Người, đúng hơn là Người vén màn cho nhân loại thấy thiên tính của Người. Người chính là Ngôi Hai Thiên Chúa – Một chân lý mà sau này Giáo Hội phải mất một thời gian dài, mở các công đồng để xác định và chống lại các bè rối phủ nhận Chúa Giêsu có hai bản tính và Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nói và nhấn mạnh “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống” (c. 53). Hậu quả của việc không đón nhận, không chấp nhận Người làm của ăn của uống nuôi dưỡng thân xác, thì kẻ ấy ắt phải chết. Có lẽ người Do Thái cảm thấy gớm ghiếc khi nói đến ăn thịt và uống máu một con người, huống chi đây lại khẳng định có vẻ ngạo mạn là : Nếu không ăn uống máu thịt Con Người ấy, thì sẽ chết.
Khi nghe Chúa nói như vậy, họ chỉ nghĩ về cái chết thể lý, nên họ cứng lòng. Họ chỉ quan tâm đến việc ăn thịt và uống máu con người Giêsu Nagiaret, nên họ không chịu tin. Họ không đào sâu tìm hiểu về Đấng Mêsia, về một vị Thiên Chúa đã làm người, về tình yêu Thiên Chúa đang tuôn tràn Ơn Cứu Độ, nên họ đã từ chối và có những lời lẽ, tư tưởng, hành vi xúc phạm đến Người.
Và ta thấy dù sao đi chăng nữa thì lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn bền vững. Chúac Giêsu vẫn kiên trì giải thích và dạy dỗ họ “Ai ăn thịt và uống máu tôi, sẽ được sống muôn đời và kẻ ấy sẽ sống lại trong ngày sau hết” (c. 54). Chúa Giêsu đưa ra một chân lý mới. Chân lý này không khác chân lý trước, nhưng chỉ nói lên điều tích cực, nói lên niềm vui ơn cứu độ cho những ai tin vào Người. Ơn cứu độ này chính là cuộc sống muôn đời. Vì con người ai cũng “ham sống, sợ chết” và Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống sẽ thực hiện điều ấy cho những ai mở lòng đón nhận Ngài. Thiên Chúa là Đấng Trung Thành, Ngài không lừa dối ai bao giờ “Thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống” (c. 55).
Ta thấy chỉ có của ăn, của uống này mới nuôi sống con ngươì mà thôi. Của ăn của uống này mới thanh tẩy vết nhơ tội lỗi nơi con người do ông bà nguyên tổ gây nên và chính của ăn của uống ấy mới đưa con người tháp nhập vào đời sống vĩnh cửu của Ba Ngôi. Của ăn của uống này là “hàng thật”, đưa đến sự sống”thật”, vì đó chính là Thịt Máu của một con người đã nói “Tôi làm chứng cho Sự Thật. Ai nghe Sự Thật đứng về phía tôi”(Ga 18, 37), “Tôi là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống”(Ga 14, 6).
Hơn nữa, “nếu ai ăn thịt và uống máu, kẻ ấy sẽ ở lại trong Người và Người sẽ ở lại trong kẻ ấy”(c. 56). Như vậy, nếu chúng ta ăn và uống máu Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu sẽ sống trong ta và ta sống trong Chúa Giêsu. Lúc đó, ta và Chúa Giêsu sẽ nên một, như Đức Lang Quân kết hiệp với Hiền Thê. Thiên Chúa kết hiệp với con người. Khi đó, Chúa sẽ biến máu tội lỗi của ta sẽ trở thành máu công chính, thịt con người trở thành thịt của Con Thiên Chúa. Thân xác nhơ bẩn của ta sẽ nên sáng láng như thân xác phục sinh của Người. Trong chúng ta sẽ có giòng máu và sự sống của chính Thiên Chúa.
“Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà sống như vậy” (c. 57). Chúa Giêsu so sánh giữa việc kết hợp giữa Người với kẻ ăn thịt và uống máu Người như việc kết hợp giữa Chúa Con và Chúa Cha vậy. Nếu ta ăn thịt và uống máu Người, ta sẽ sống nhờ người như Người đã sống nhờ Cha. Từ đó, ta đi vào tương quan với Ba ngôi Thiên Chúa, được thông phần sự sống và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ba Ngôi. Vậy, khi ăn thịt và uống máu Chúa, ta không còn sống cho chính mình nữa, nhưng là “ Đức Kitô sống trong ta” (Gal 2, 20).
Thế giới mà chúng ta đang sống vẫn bị đánh giá là ngày càng ích kỷ. Con người ngày càng thu mình lại, nhiều lúc vì lợi ích của mình mà bất chấp mọi điều khác. Sống trong một xã hội như thế, có nguy cơ con người không những không làm điều tốt cho người khác, nhưng tệ hơn, còn tỏ ra nghi ngờ, dè chừng trước những việc tốt của người khác, vì cho rằng nó trái “tự nhiên” và chỉ là vỏ bọc bên ngoài.
Như vậy, nhân loại sẽ không còn là cộng đồng hiệp thông, nhưng biến mình thành ốc đảo, thành “kẻ thù” của nhau. Người môn đệ Chúa Giêsu được mời gọi đem tinh thần yêu thương của Tin Mừng thấm nhập vào mọi thực tại của thế giới này, giới thiệu và giúp mọi người tiến tới Chúa Giêsu, Tình Yêu tự hiến và là khuôn mẫu của mọi tình yêu. Để làm được điều đó, người môn đệ trước hết phải cảm nhận cách sâu xa tình yêu trao ban của Chúa Giêsu qua việc siêng năng lãnh nhận Thánh Thể, và lấy đó làm khuôn mẫu cho mình.
Kết thúc trang Tin Mừng, Chúa Giêsu nhắc lại một lần nữa về chân lý mà người Do Thái không chịu tin nhận “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 58).
Và rồi ta nhận ra lòng thương xót của Chúa Cha qua Chúa Giêsu “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một” (3, 16), nhưng chúng ta vẫn dửng dưng và từ chối “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (1, 11).
Thực tế, nếu chúng ta đón nhận Con của Ngài, chúng ta sẽ được cứu độ (3, 17). Như người cha hằng mong đứa con đi hoang trở về, như người mục tử đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất, như bà goá soi đèn, quét nhà tìm thấy đồng bạc bị mất (Lc 15). Thiên Chúa cũng khắc khoải đi tìm con người và Ngài bao dung, rộng lượng đón nhận chúng ta trở về với Ngài. Thật vậy, Thiên Chúa đã đi bước trước trong công cuộc hoà giải chúng ta với Ngài bằng giá máu của chính Con Một yêu dấu của Ngài. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con là kẻ có tội.