2022
ĐTC tiếp đoàn thẩm phán của Toà Thượng thẩm Rota
ĐTC tiếp đoàn thẩm phán của Toà Thượng thẩm Rota
Sáng 27/1/2022, Đức Thánh Cha đã tiếp đoàn thẩm phán của Toà Thượng thẩm Rota ở Roma. Ngài khuyến khích họ thực thi sứ vụ theo các đặc tính của sự hiệp hành: cùng nhau bước đi, cùng tìm kiếm sự thật, lắng nghe, phân định, để phục vụ công lý, điều không thể tách rời sự thật và nhất là tách rời ơn cứu độ của các linh hồn.
Tòa Thượng thẩm Rota có nhiệm vụ xét xử các vụ án từ cấp hai trở lên, được đệ trình về Tòa Thánh cũng như xử những vụ do giáo luật và Đức Thánh cha ủy nhiệm. Hiện nay, đoàn thẩm phán của tòa này gồm hơn hai mươi vị thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, dưới sự hướng dẫn của vị niên trưởng là Đức ông Alẹandro Adrellano Cedillo, 60 tuổi, người Tây Ban Nha.
Trong tinh thần của Thượng Hội đồng về hiệp hành đang diễn ra trong Giáo hội và trong bầu khí của Năm gia đình, Đức Thánh Cha suy tư về tính hiệp hành trong các tiến trình tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Ngài giải thích việc điều hành công lý cần tinh thần hiệp hành thế nào.
Bước đi cùng nhau
Trước hết, tính hiệp hành ám chỉ việc bước đi cùng nhau. Đức Thánh Cha nói rằng trong các tiến trình pháp lý, cần khám phá rằng “tất cả những người tham gia vào tiến trình được mời gọi tham gia vào cùng một mục đích, là làm rõ sự thật về sự kết hợp cụ thể giữa một người nam và một người nữ, và đi đến kết luận về việc có hay không một cuộc hôn nhân thực sự giữa họ.”
Thúc đẩy sự tha thứ và hòa giải
Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh rằng luôn phải có nỗ lực khám phá sự thật về sự kết hợp của các đôi hôn nhân, điều kiện tiên quyết không thể thiếu để có thể chữa lành vết thương của họ. Cần hiểu tầm quan trọng của sự dấn thân thúc đẩy sự tha thứ và hòa giải giữa vợ hoặc chồng, ngay cả khi cuối cùng để chứng thực hôn nhân vô hiệu.
Đồng hành mục vụ
Từ đó, Đức Thánh Cha nhắc nhở: “Chúng ta cũng hiểu rằng việc tuyên bố vô hiệu không nên được trình bày như thể đó là mục tiêu duy nhất cần đạt được khi đối mặt với một cuộc khủng hoảng hôn nhân, hoặc như thể điều này cấu thành một quyền bất kể sự thật ra sao. Khi xem xét khả năng vô hiệu, cần phải làm cho các tín hữu suy nghĩ về những lý do dẫn đến việc họ yêu cầu tuyên bố sự vô hiệu của hôn nhân đồng thuận, và như thế họ có thái độ chấp nhận bản án được quyết định, ngay cả khi nó không đúng với xác tín của họ. Chỉ bằng cách này, các tiến trình tuyên bố hôn nhân vô hiệu mới là biểu hiện của một sự đồng hành mục vụ hữu hiệu với các tín hữu trong các cuộc khủng hoảng hôn nhân của họ, nghĩa là lắng nghe Chúa Thánh Thần, Đấng nói trong lịch sử cụ thể của con người.”
Cùng tìm kiếm chân lý
Cùng tìm kiếm chân lý là đặc tính thứ hai của mỗi giai đoạn của tiến trình pháp lý. Do đó, Đức Thánh Cha nói rằng “bất kỳ sự thay đổi hoặc thao túng sự kiện nào một cách cố ý, nhằm đạt được một kết quả thực tế mong muốn, đều không được chấp nhận.”
Lắng nghe
Đức Thánh Cha còn giải thích hiệp hành trong các tiến trình pháp lý còn có nghĩa là không ngừng lắng nghe, chứ không chỉ nghe, nghĩa là cần hiểu quan điểm và lý do của người khác.
Phân định
Một khía cạnh khác của tính hiệp hành trong tiến trình pháp lý là phân định. Đây là sự phân định dựa trên nền tảng của việc cùng nhau bước đi và lắng nghe, và cho phép đọc các tình huống cụ thể dưới ánh sáng Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội. Kết quả của tiến trình là phán quyết, kết quả của sự phân định cẩn thận đưa đến quyết định có thẩm quyền về sự thật về kinh nghiệm cá nhân và làm nổi bật những con đường có thể được mở ra từ đó.
Hồng Thủy
2022
Thứ Bảy Tuần III – Mùa Thường Niên
Thứ Bảy Tuần III – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 95,1.6
Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu !
Trước Thiên Nhan, đầy uy phong dũng mãnh,
trong thánh điện, toàn cảnh sắc huy hoàng.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin hướng dẫn chúng con biết hành động theo thánh ý Chúa, để nhờ kết hợp với con Một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, chúng con đem lại hoa quả dồi dào là việc lành phúc đức. Chúng con cầu xin …
Bài đọc
2 Sm 12,1-7a.10-17
Tôi đắc tội với Đức Chúa.
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.
1 Một hôm, Đức Chúa sai ông Na-than đến với vua Đa-vít. Ông vào gặp vua và nói với vua :
“Có hai người ở trong cùng một thành,
một người giàu, một người nghèo.
2Người giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm.
3Còn người nghèo chẳng có gì cả,
ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua.
Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông,
nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông,
ngủ trong lòng ông : ông coi nó như một đứa con gái.
4Có khách đến thăm người giàu,
ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình
mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông.
Ông bắt con chiên cái của người nghèo
mà làm thịt đãi người đến thăm ông.”
5 Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than : “Có Đức Chúa hằng sống ! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết ! 6 Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót.” 7a Ông Na-than nói với vua Đa-vít : “Kẻ đó chính là ngài ! 10 Đức Chúa phán thế này : Từ nay, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ ngươi.
11 “Đức Chúa phán thế này : Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ bắt những người vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với những người vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. 12 Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật.”
13 Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than : “Tôi đắc tội với Đức Chúa.” Ông Na-than nói với vua Đa-vít : “Về phía Đức Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài ; ngài sẽ không phải chết. 14 Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị Đức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết.” 15 Rồi ông Na-than trở về nhà.
Đức Chúa đánh phạt đứa bé mà vợ ông U-ri-gia đã sinh ra cho vua Đa-vít, và nó bị bệnh nặng. 16 Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất. 17 Các kỳ mục trong nhà của vua nài nỉ xin vua trỗi dậy, nhưng vua không chịu và cũng chẳng ăn chút gì với họ.
Đáp ca
Tv 50,12-13.14-15.16-17 (Đ. c.12a)
Đ.Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng.
12Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ.
13Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,
đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.
Đ.Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng.
14Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ,
và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con ;
15đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi,
ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.
Đ.Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng.
16Lạy Thiên Chúa con thờ là Thiên Chúa cứu độ,
xin tha chết cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính.
17Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
Đ.Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng.
Tung hô Tin Mừng
Ga 3,16
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mc 4,35-41
Người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ : “Chúng ta sang bờ bên kia đi !” 36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền ; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói : “Thầy ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao ?” 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển : “Im đi ! Câm đi !” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các ông : “Sao nhát thế ? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao ?” 41 Các ông sợ hãi kinh hoàng và nói với nhau : “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin vui lòng chấp nhận của lễ chúng con dâng, và lấy quyền năng Thánh Thần mà thánh hoá, để nhờ của lễ này, chúng con được hưởng ơn cứu độ. Chúng con cầu xin …
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì thương xót nhân loại lỗi lầm, Người đã chấp nhận sinh ra bởi Ðức Trinh Nữ, đã chịu khổ hình thập giá/ để cứu chúng con khỏi chết muôn đời. Và từ cõi chết sống lại, Người đã ban cho chúng con được hưởng phúc trường sinh.
Vì thế, cùng với các Thiên thần và tổng lãnh Thiên thần, các Bệ thần và Quản thần, cùng toàn thể đạo binh thiên quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Tv 33,6
Hãy đến gần Chúa, bạn sẽ được sáng soi
và không bao giờ phải bẽ mặt hổ ngươi.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã rộng ban cho chúng con Mình và Máu Thánh Ðức Kitô, con một Chúa là nguồn mạch sự sống dồi dào; xin cho chúng con được luôn luôn hoan hỷ vì ân huệ Chúa ban. Chú ng con cầu xin …
2022
Hạt giống, hạt cải
28.1.2022 Thánh Tôma Aquinas, Lmts
2 Sm 11:1-4,5-10,13-17; Tv 51:3-4,5-6,6-7,10-11; Mc 4:26-34
Hạt giống, hạt cải
Thánh Tô-ma A-qui-nô sinh năm 1225 tại thành Naples Ý Đại Lợi trong một gia đình phú quí và đạo hạnh. Ngài được hấp thụ một nền đạo đức sâu sắc, đặt căn bản trên đức tin và giáo lý chân chính của Chúa Giêsu và các tông đồ. Cha của Tô-ma là lãnh Chúa đảo Aquinô. Tuy danh vọng cao vời, nhưng gia đình cha mẹ của thánh nhân luôn biết kính sợ Chúa và giáo dục con cái theo luật Chúa và Giáo Hội. Nhờ thế, thánh Tôma Aquinô đã sớm tiến tới trong đàng nhân đức, có một đức tin sắt đá và một nền học vấn uyên thâm để có thể hiểu và giải đáp được những vấn nạn trong xã hội cũng như những giải đáp cho thời đại đang tiến bộ.
Trong quá trình theo học, Tôma được gửi học ở tu viện Cassino do các Cha Bênêđitô điều khiển. Một biến cố chính trị đưa đến việc giải tán tu viện sau 9 năm thánh hân đã theo học với các cha Bênêđitô. Sau đó, thánh nhân lại tiếp tục học ở Naples, nơi đây thánh nhân có dịp tiếp xúc với các cha dòng Đaminh, Tôma say mê với lý tưởng sống cho người nghèo và làm việc trí thức để truyền bá cho những người khác chân lý, lý tưởng mà Ngài đã ghiền gẫm, đã suy nghĩ. Lý tưởng của thánh Đaminh đã đánh động Ngài tới tận căn, nên Ngài đã quyết định xin vào dòng thánh Đaminh vào năm 1244.
Việc này làm phật ý thân mẫu thánh Tôma vì bà luôn muốn Tôma làm tu viện trưởng Cassino. Thân mẫu của Tôma quyết định bắt Tôma về giam trong gia đình và dùng mọi mưu kế để cho Tôma trở về thế gian. Mọi mưu chước của mẹ đều bị thất bại. Sau cùng trong cơn mù quáng tột độ, bà đã dùng một cô gái trắc nết để quyến rũ thánh nhân, vì bà hy vọng Tôma sẽ bị ngã gục. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Tôma đã chiến thắng, đuổi cô gái hư ra khỏi nơi Ngài ở. Chúa đã yêu thương Ngài, sai thiên thần đến cột giây trinh khiết cho Ngài để biểu tỏ sự chiến thắng của Ngài, đúng như lời sách đệ nhị luật đã viết:” Chúa ấp ủ và lo dưỡng dục Tôma , luôn gìn giữ chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa”(Đnl 32, 10 ).
Với ý chí sắt đá, lòng tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, thân mẫu Ngài đành để Ngài trốn về lại tu viện. Thánh Tôma lúc đó được thụ huấn với thánh Albertô, một học giả uyên bác, nổi tiếng thời đó. Năm 27 tuổi, thánh Tôma đã trở thành giảng sư đại học với một kiến thức uyên bác có thể hướng dẫn được giới trí thức đang say mê triết học Hy Lạp ngoại giáo. Ngài đã viết bộ” Tổng luận thần học” đầy giá trị, để lại cho Giáo Hội và hậu thế. Ngài nói Ngài đã múc tất cả sự khôn ngoan nơi Chúa Giêsu qua suy niệm và cầu nguyện để viết nên:” Tổng luận thần học” này.
Ngài qua đời lúc mới có 49 tuổi, cái tuổi đang sung sức và việc dậy học đang nổi tiếng vào năm 1274. Đức thánh cha Gioan XXII phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1328. Năm 1567, Đức Giáo hoàng Piô V lại cất nhắc Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh với tước hiệu:” Tiến Sĩ Thiên Thần “. Năm 1880, Đức thánh cha Lêo XIII đặt Ngài làm quan thầy các trường công giáo.
Sẽ đến ngày Thiên Chúa can thiệp dứt khoát vào lịch sử nhân loại. Trước đó, có một thời gian Thiên Chúa để cho mọi sự cứ đi theo dòng của chúng, khiến ta có thể nghĩ rằng Ngài không quan tâm gì đến thế giới (x. sự ngạc nhiên của Gioan Tẩy Giả: Mt 11,2-6).
Chúa Giêsu loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề. Thế mà mọi người đều biết rằng sự thiết lập Nước Thiên Chúa được khởi đầu bằng việc phán xét để tiễu trừ khỏi dân Israel tất cả những kẻ tội lỗi, không xứng đáng được tham dự vào ân huệ của Nước Thiên Chúa. Vậy, nếu Thiên Chúa đã thực sự quyết định thiết lập Vương quyền của Ngài trên mặt đất, tại sao ta chưa thấy một dấu gì cho biết là cuộc phán xét khủng khiếp ấy đã đến?
Để trả lời, Chúa Giêsu dùng một dụ ngôn để ví: Hạt giống là Lời. Hạt giống mang trong mình một sức mạnh vô phương kháng cự. Một khi đã được gieo, hạt giống-Lời đi sâu vào trong các tâm trí và con tim và biến đổi những ai nghe Lời. Hoa trái không lệ thuộc người gieo giống, người rao giảng, nhưng lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống có trong mình. Không ai có thể kéo một cây con để làm cho nó mọc nhanh hơn được!
Dụ ngôn dạy chúng ta đặt tin tưởng nơi lời Tin Mừng. Làm cho hạt giống-Lời lớn lên: đây không phải là công việc của chúng ta. Chúng ta chỉ có một việc phải làm đó là gieo Lời trên mảnh đất được giao cho chúng ta. Rồi sẽ đến lúc thu hoạch. Đức Giêsu cho các thính giả hiểu rằng thời gian Người hoạt động ở trần gian chính là giai đoạn cuối cùng của Lịch sử cứu độ, đi sát ngay trước cuộc can thiệp chung cuôc của Thiên Chúa. Ai có bổn phận cộng tác với Người để gieo hạt giống-Lời, hãy kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng tất cả mọi người đều đón nhận Lời, hãy làm sao để hạt giống có thể thật sự mọc lên và sinh hoa trái.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.
2022
Sóng gió cuộc đời
29.1.2022
Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mùa Quanh Năm
2 Sm 12:1-7,10-17; Tv 51:12-13,14-15,16-17; Mc 4:35-41
Sóng gió cuộc đời
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tin Mừng Máccô theo một cái khung quen thuộc để kể truyện này: một trở ngại phải vượt qua (một trận cuồng phong trên biển), hành động quyền năng của Chúa Giêsu (lệnh truyền im lặng), và sự xác nhận (sự yên lặng hoàn toàn và nỗi sợ hãi của các môn đệ). Bối cảnh của câu truyện này rất có thể là quan niệm cổ xưa của Cận Đông về biển: đây là biểu tượng của những quyền lực của hỗn mang và sự dữ đấu tranh chống lại Thiên Chúa. Các độc giả đầu tiên của Mc nắm được ý nghĩa của biểu tượng này đến mức nào, thì khó mà biết. Nhưng chắc chắn câu hỏi của các môn đệ (“người này là ai?”) cho thấy là tác giả muốn nhấn mạnh trên chân tính của Chúa Giêsu. Câu hỏi ấy trở thành một lời tung hô mặc nhiên mang tính Kitô học nhìn nhận bản tính thần linh của Chúa Giêsu, bởi vì Người làm được những việc Thiên Chúa làm.
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Chúa Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
Nguy hiểm được mô tả bằng các chi tiết về sóng to gió lớn. Nhưng Chúa Giêsu vẫn tỏ ra là chúa tể, làm chủ tình hình: Người ngủ. Bình thường các môn đệ chờ đợi Chúa Giêsu phản ứng và dạy bảo rồi mới làm theo; nhưng ở đây, thấy bão táp quá nguy hiểm, các ông bị chao đảo trong đức tin, các ông đã phản ứng trước Thầy, các ông thúc bách Thầy bằng giọng hốt hoảng và trách móc. Người đã trỗi dậy, dẹp yên sóng gió. Ở đây, bão và biển được truyền lệnh như những sinh vật; chúng được yêu cầu “im đi!”, “câm mõm lại!”. Quả thật, từ vựng của bản văn là từ vựng của một truyện trừ quỷ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Hình ảnh con thuyền trong đó các môn đệ sống chung với Chúa Giêsu là biểu tượng cho cộng đoàn gồm những môn đệ hôm nay vẫn đang muốn bước theo Người. Đó chính là một cuộc “cộng đồng sinh mệnh”, sống chết có nhau. Phản ứng của các môn đệ trong biến cố này là một tấm gương và một lời nhắc nhở cho cộng đoàn Kitô hữu là đừng rơi vào một thái độ không tin như thế. Nếu chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu, thì không có hoàn cảnh nào có thể tiêu diệt chúng ta, bởi vì không có hoàn cảnh nào mà Người không chế ngự được.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Lời mời gọi “Hãy sang bờ bên kia” có nhiều ý nghĩa đối với chúng ta. Với Giáo Hội, “bờ bên kia” mang ý nghĩa là những người hiện giờ không ở trong cộng đoàn chúng ta, họ đang ở “bờ bên kia”, có thể họ là những người vừa di chuyển đến trong xã hội chúng ta, những người “bên phía kia”, là người cao niên, người tàn tật, người bệnh chờ chết, hay người di dân vì chiến tranh trong trại di cư… Đức giáo hoàng Phanxicô dạy trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đồng phải phân định đường đi nước bước mà Chúa vạch ra, nhưng tất cả chúng ta đều được yêu cầu vâng theo tiếng gọi của Người là ra đi khỏi khu vực tiện nghi của mình để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (s. 20)
Lời Chúa Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Chúa Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Chúa Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
Tin Mừng vừa cho thấy tương quan mật thiết giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vừa diễn tả lộ trình các môn đệ khám phá ra mầu nhiệm Chúa Giêsu: họ bước theo Người, họ chứng kiến các biến cố trong đó Người can thiệp, họ khám phá ra mầu nhiệm bản thân Người. Chi tiết “có những thuyền khác cùng theo” chỉ được nêu ra ở câu đầu, rồi sau đó cho đến cuối, không xuất hiện nữa.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.