2024
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn Thiên triệu nhấn mạnh tình huynh đệ và niềm hy vọng
Hôm thứ Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn Thiên triệu lần thứ 61, suy ngẫm về cuộc lữ hành Kitô giáo như một hành trình hiệp hành khởi nguồn từ niềm hy vọng và hướng tới việc khám phá tình yêu của Thiên Chúa.
Chủ đề của Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn Thiên triệu năm nay: “Được kêu gọi Gieo Hạt giống Hy vọng và Xây dựng Hòa bình”, phản ánh lời mời gọi phổ quát của Kitô giáo để “đặt cuộc sống của chúng ta trên tảng đá của sự phục sinh của Chúa Kitô, nhận thức rằng mọi nỗ lực được thực hiện trong ơn gọi mà chúng ta đã ấp ủ và tìm cách thực hiện sẽ không bao giờ vô ích”, Đức Thánh Cha nói.
Năm nay Giáo hội cử hành Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn Thiên triệu vào ngày 21 tháng 4.
“Lời mời gọi nền tảng này là lời mời gọi mà chúng ta phải dự đoán hàng ngày”, Đức Thánh Cha nhận xét. “Thạm chí giờ đây, mối tương quan thân thương của chúng ta với Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta đang bắt đầu mang lại giấc mơ của Thiên Chúa về sự hiệp nhất, hòa bình và tình huynh đệ”.
Đức Thánh Cha lưu ý rằng quá trình phân định này mang “tính chất hiệp hành”, vì Giáo hội có “sự đa dạng của các đặc sủng và ơn gọi”.
“Giữa sự đa dạng của các đặc sủng của chúng ta, chúng ta được mời gọi lắng nghe nhau và cùng nhau thực hiện cuộc hành trình để thừa nhận chúng và để nhận ra Chúa Thánh Thần đang dẫn chúng ta đi đâu vì lợi ích của tất cả mọi người”, Đức Thánh Cha nhận xét.
Đức Thánh Cha Phanxicô củng cố nhận xét này bằng cách đề cập đến chủ đề của Năm Thánh 2025: “Những Lữ khách của Niềm hy vọng”.
“Chúng ta có thể trở thành những sứ giả và chứng nhân cho thế giới của chúng ta về giấc mơ của Chúa Giêsu về một gia đình nhân loại duy nhất, hiệp nhất trong tình yêu của Thiên Chúa và trong mối dây liên kết của bác ái, hợp tác và tình huynh đệ”, Đức Thánh Cha nói.
Đối với Đức Thánh Cha, một cuộc lữ hành là một cuộc hành trình có tác dụng tái tạo khi con người “chỉ mang theo những gì thiết yếu” trong khi “nỗ lực hàng ngày để gạt bỏ đi tất cả mọi sự mệt mỏi, sợ hãi, bất an và do dự” để “khám phá tình yêu của Thiên Chúa”.
“Là một lữ khách”, Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục, “có nghĩa là lên đường mỗi ngày, bắt đầu lại, tái khám phá lòng nhiệt thành và sức mạnh cần thiết để theo đuổi các giai đoạn khác nhau của một cuộc hành trình, mà dù mệt mỏi và khó khăn đến đâu, vẫn luôn mở ra trước mắt chúng ta những chân trời mới và những khung cảnh trước đây chưa từng được biết tới”.
Nhưng Đức Thánh Cha cũng lưu ý rằng cuộc hành trình này là một quá trình tự khám phá bản thân, được “nuôi dưỡng bởi các mối tương quan của chúng ta với tha nhân”.
“Chúng ta là những lữ khách vì chúng ta được mời gọi yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau”, Đức Thánh Cha nói.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng cuộc lưc hành hay tiến trình này “không phải là một cuộc hành trình vô nghĩa hay lang thang vất vưởng không mục đích” mà thay vào đó là một tiến trình mà con người có thể nỗ lực làm việc “hướng tới một thế giới mới, nơi mọi người có thể sống trong hòa bình, công lý và tình yêu”.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng hướng lời kêu gọi này đến giới trẻ ngày nay – đặc biệt là những người cảm thấy xa lạ hoặc hoài nghi Giáo hội – và Đức Thánh Cha khuyến khích họ trình bày với Chúa Kitô “những câu hỏi quan trọng”.
“Hãy để Ngài khuyến khích các con bằng sự hiện diện của Ngài, điều luôn tạo ra trong chúng ta một sự khủng hoảng lành mạnh. Hơn ai hết, Chúa Giêsu tôn trọng sự tự do của chúng ta. Ngài không áp đặt mà đưa ra những đề xuất. Hãy dành chỗ cho Ngài và các con sẽ tìm được con đường hạnh phúc khi bước theo Ngài. Và nếu Ngài yêu cầu các con điều đó, bằng cách dâng hiến trọn vẹn cho Ngài”.
Minh Tuệ (theo CNA)
2024
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM HỘI NGHỊ THƯỜNG NIÊN KỲ I NĂM 2024
HỘI NGHỊ THƯỜNG NIÊN KỲ I NĂM 2024
(14 – 18/4/2024)
Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức Hội nghị thường niên kỳ I năm 2024 tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận Vĩnh Long, từ ngày 14 đến 18 tháng 4 năm 2024. Tham gia Hội nghị có Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn và 29 Giám mục đang phục vụ tại 27 giáo phận tại Việt Nam.
Trong Hội nghị lần này, Hội đồng Giám mục hân hoan chào đón và lắng nghe chia sẻ của Đức Tổng Giám mục Marek Zalewski, Đại diện Toà Thánh thường trú tại Việt Nam. Đức Tổng Giám mục Marek đã chia sẻ về kết quả chuyến viếng thăm Việt Nam của Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher, Ngoại trưởng Toà Thánh; những hy vọng về mối quan hệ giữa Toà Thánh và Việt Nam; dự kiến chuyến thăm Việt Nam của Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Toà Thánh và khả năng viếng thăm Việt Nam của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài cũng cập nhật một số thông tin của Toà Thánh trong thời gian vừa qua và một số thủ tục hành chính cần lưu ý.
Trong Hội nghị, Hội đồng Giám mục đã:
1. Lắng nghe thông tin về các bước chuẩn bị cho kỳ họp Đại hội lần thứ hai của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ XVI sẽ diễn ra tại Rôma vào tháng 10 năm 2024;
2. Phê chuẩn bản dịch Việt ngữ “Các sách Ngôn sứ” theo đề nghị của Ủy ban Kinh Thánh;
3. Thảo luận và định hướng áp dụng “Các Quy tắc đạo đức ứng xử trong mục vụ liên quan đến trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương”;
4. Thiết lập “Tiểu ban Tư vấn Bảo vệ trẻ vị thành niên” trực thuộc Hội đồng Giám mục và trao cho Đức Cha Giuse Huỳnh Văn Sỹ, Giám mục Giáo phận Nha Trang làm trưởng Tiểu ban;
5. Đề cử Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám mục Giáo phận Mỹ Tho, làm Viện Trưởng Học viện Công giáo Việt Nam thay cho Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo xin từ nhiệm vì lý do sức khoẻ;
6. Thảo luận và ban hành “Những Quy định về thủ tục Hôn phối áp dụng cho toàn Giáo hội Việt Nam”;
7. Thảo luận và biểu quyết nâng Trung tâm Hành hương kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, tại Sở Kiện thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội thành “Trung tâm Hành hương toàn quốc kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam”;
8. Thảo luận về Trung tâm Bồi dưỡng Giáo sĩ trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam và tuyên ngôn Fiducia Supplicans của Bộ Giáo lý Đức tin;
9. Lắng nghe chia sẻ về hoạt động của các Uỷ ban Giáo dân, Uỷ ban Mục vụ Di dân, Uỷ ban Loan báo Tin Mừng, và Văn phòng Đối thoại Liên tôn.
Hội đồng Giám mục ấn định Hội nghị thường niên kỳ II năm 2024 sẽ được tổ chức từ ngày 16 đến 20 tháng 9 năm 2024 tại Trung tâm Thánh Mẫu Tàpao, Giáo phận Phan Thiết.
Hội nghị kết thúc trong niềm vui cùng Giáo phận Vĩnh Long khánh thành Trung tâm Mục vụ sáng ngày 18 tháng 4 năm 2024.
Tổng Thư ký
(đã ấn ký)
+ Giuse Đỗ Mạnh Hùng
Giám mục Giáo phận Phan Thiết
Các Đức Giám mục Giáo tỉnh Huế
Các Đức Giám mục Giáo tỉnh Sài Gòn
2024
Quy định về thủ tục hôn phối áp dụng cho toàn Giáo Hội tại Việt Nam
ÁP DỤNG CHO TOÀN GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
Để giúp các mục tử và các đôi bạn chu toàn thủ tục hôn phối theo giáo luật và phù hợp với thực tế, trong Hội nghị kỳ 1/2024 tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận Vĩnh Long, Hội đồng Giám mục Việt Nam ban hành quy định về thủ tục hôn phối áp dụng cho toàn Giáo Hội tại Việt Nam:
I. Năng quyền chứng hôn và ủy quyền chứng hôn
Điều 1
Đấng Bản quyền địa phương và cha sở, do chức vụ, có năng quyền chứng hôn thành sự trong giới hạn địa hạt của mình.
Muốn chứng hôn ngoài địa hạt của mình, cần phải được sự ủy quyền của cha sở nơi mà đôi bạn có ý định xin cử hành.
Điều 2
Việc uỷ nhiệm năng quyền chứng hôn, để hữu hiệu, phải được minh nhiên ban cho những người nhất định. Nếu là uỷ quyền riêng biệt, thì phải xác định rõ đôi hôn nhân nào; còn nếu là uỷ quyền tổng quát, thì phải ban bằng văn bản mới hiệu lực.
II. Quyền chứng hôn và nhiệm vụ chứng hôn của cha sở
Điều 3
Để cha sở chứng hôn hợp luật, phải có ít là một trong đôi bạn đã cư ngụ trong giáo xứ của mình được một tháng. Nếu không, cha sở phải xin phép Đấng Bản quyền riêng hoặc cha sở riêng của một trong đôi bạn. Trong trường hợp này, Đấng Bản quyền riêng hoặc cha sở riêng chỉ “cho phép” chứ không “ủy quyền”.
Điều 4
Khi một trong đôi bạn xin được kết hôn trong giáo xứ mà người ấy có cư sở hay thường trú, cha sở buộc phải chứng hôn cho họ, không được từ chối, vì chứng hôn là một trong những nhiệm vụ được ủy thác đặc biệt cho cha sở.
Khi một người xin kết hôn trong giáo xứ nơi họ không có cư sở, chỉ có bán cư sở hoặc chỉ mới cư ngụ được một tháng, cha sở nên chấp nhận chứng hôn cho họ.
Để chứng hôn cho người không có cư sở hay bán cư sở ở bất cứ nơi nào, cần phải có phép của Đấng Bản quyền địa phương nơi cử hành kết hôn.
Điều 5
Cư sở hay bán cư sở của giáo dân không tùy thuộc vào sự đăng ký – nhập vào một giáo xứ, nhưng tùy thuộc “ý định” hoặc “thời gian” cư ngụ của họ. Việc không đăng ký vào giáo xứ hoặc việc vắng mặt quá lâu khỏi giáo xứ không phải là lý do để cha sở phủ nhận việc thủ đắc cư sở hoặc từ chối nghĩa vụ chứng hôn.
III. Nhiệm vụ thiết lập hồ sơ, điều tra, rao báo
Điều 6
Cha sở nơi cử hành chứng hôn có nhiệm vụ thiết lập hồ sơ và điều tra hôn phối.
Trong trường hợp bất khả kháng, cha sở có thể nhờ một linh mục có khả năng thực hiện giúp, có thể là cha sở của bên nam hoặc bên nữ, hoặc nơi mà một trong đôi bạn đã cư ngụ được một tháng.
Điều 7
Khi cả đôi bạn đều có cư sở ở nước ngoài nhưng muốn kết hôn tại Việt Nam, cha sở tại Việt Nam có thể áp dụng như sau:
– Hoặc cha chấp nhận đảm nhận chứng hôn cho họ và chu toàn tất cả các quy định về thủ tục hôn phối.
– Hoặc cha yêu cầu họ xin một cha sở của một bên ở nước ngoài đảm nhận chu toàn các quy định về thủ tục hôn phối, và gửi lại cho cha giấy xác nhận là không có gì cản trở (nihil obstat) cho việc kết hôn thành sự và hợp luật.
IV. Giới thiệu kết hôn
Điều 8
Khi tín hữu thuộc giáo xứ mình cử hành kết hôn ở một giáo xứ khác, cha sở có nghĩa vụ cấp giấy giới thiệu, trong đó chỉ ra những nơi mà người đó đã cư ngụ, và cấp chứng thư Rửa tội và Thêm sức.
Nếu không thể tìm thấy trong sổ hoặc có được chứng thư Rửa tội hay Thêm sức, cha sở có thể chứng nhận dựa theo lời tuyên bố của một nhân chứng đáng tin cậy hay lời thề của chính người đã được rửa tội, nếu họ đã lãnh nhận bí tích Rửa tội ở tuổi thành niên.
Trong trường hợp cha sở không cấp giấy giới thiệu, cha sở nơi chứng hôn vẫn có quyền chứng hôn, miễn là chu toàn tất cả các quy định về thủ tục hôn phối.
V. “Điều tra sơ khởi” đối với người ngoài Công giáo
Điều 9
Trước khi đảm nhận việc chứng hôn cho một trong đôi bạn là người ngoài Công giáo, cha sở nơi chứng hôn sẽ xin cha sở nơi người ấy thường trú giúp “điều tra sơ khởi” về tình trạng thong dong của người sắp kết hôn.
Nếu thấy đôi bạn có thể tiến tới kết hôn thành sự và hợp luật, cha sở nơi chứng hôn thiết lập hồ sơ và gởi giấy rao tới cha sở giáo xứ nơi người ngoài Công giáo đó thường trú.
Điều 10
Cha sở xin giúp điều tra cần phải gởi bản “đơn xin cử hành hôn nhân” của đôi bạn với các thông tin cần thiết cho cha sở nơi người ngoài Công giáo thường trú.
Nếu không biết người ngoài Công giáo đó thường trú thuộc giáo xứ nào, thì liên hệ với Tòa Giám mục của giáo phận đó.
VI. Trường hợp kết hôn với người ngoại quốc
Điều 11
Để chấp nhận chứng hôn có yếu tố người nước ngoài, ngoài các yêu cầu về giáo luật, hồ sơ cần có những giấy pháp lý như sau:
1° Giấy do cơ quan chính quyền cấp chưa quá sáu tháng, xác nhận tình trạng chưa có kết hôn, hoặc đã kết hôn nhưng người phối ngẫu đã qua đời.
2° Giấy đăng ký kết hôn nơi cơ quan chính quyền, hoặc của Việt Nam hoặc của nước ngoài.
3° Trong trường hợp có hoài nghi, cha sở nơi chứng hôn yêu cầu đôi bạn xin giấy chứng nhận của linh mục đang làm việc mục vụ tại nơi họ ở.
VII. Rao hôn phối
Điều 12
§1. Việc điều tra hôn phối thông thường được thực hiện bằng cách rao hôn phối tại nhà thờ vào ba thánh lễ Chúa nhật liên tiếp. Cha sở có quyền chuẩn rao một Chúa nhật, cha quản hạt có quyền chuẩn rao hai Chúa nhật, và Bản quyền địa phương có quyền chuẩn rao ba Chúa nhật.
§2. Đối với trường hợp thành sự hóa hay hợp thức hóa hôn phối cho những đôi bạn đã và đang muốn tiếp tục chung sống vợ chồng chung thủy, cha sở có thể tùy nghi cho miễn rao.
Điều 13
§1. Cha sở nào có nhiệm vụ hoặc đảm nhận việc thiết lập hồ sơ, phải lập tờ rao và gởi đi các nơi liên quan để nhờ rao, kể cả cha sở của nơi người ngoài Công giáo cư trú, hoặc nơi một bên đã cư ngụ trong một thời gian khá lâu (trên 1 năm).
Việc rao có thể thực hiện sớm, trước khi đôi bạn hội đủ những điều kiện khác, như học giáo lý, đăng ký kết hôn dân sự…
§2. Khi nhận tờ xin rao hôn phối, cha sở có bổn phận phải rao và báo kết quả rao sớm hết sức, mặc dù không có ai trong đôi bạn thuộc quyền mình.
Điều 14
Trong trường hợp không nhận được kết quả rao vì một lý do nào đó, cha sở nơi chứng hôn vẫn có quyền cho cử hành kết hôn, miễn là đã điều tra và thấy chắc chắn không có ngăn trở.
Điều 15
Trong trường hợp không thể chứng minh tình trạng thong dong của một người bằng những giấy tờ pháp lý, hoặc có giấy tờ pháp lý mà còn có hồ nghi, cha sở có thể khôn ngoan điều tra riêng, qua thân nhân của người sắp kết hôn, hoặc hai nhân chứng đáng tin.
VIII. Giáo lý hôn nhân
Điều 16
§1. Trước khi kết hôn, đôi bạn buộc phải học giáo lý hôn nhân. Việc học giáo lý có thể thực hiện ở bất cứ giáo xứ nào, hoặc tại một cơ sở được Đấng Bản quyền chuẩn nhận.
§2. Chỉ có cha sở hoặc cơ sở được chuẩn nhận mới có quyền cấp chứng chỉ giáo lý hôn nhân.
§3. Các chứng chỉ giáo lý hôn nhân này được công nhận trong toàn Giáo Hội tại Việt Nam và có giá trị vô thời hạn.
Điều 17
Cha sở nơi dạy giáo lý hôn nhân hoặc giáo lý dự tòng, có thể đón nhận học viên, mặc dù không có giấy giới thiệu của cha sở nơi học viên có cư sở hoặc thường trú. Tuy nhiên, vì liên đới trách nhiệm, cha sở nơi dạy giáo lý nên yêu cầu học viên xin giấy giới thiệu của cha sở nơi người ấy thường trú.
Trong trường hợp bất khả kháng không thể xin giấy giới thiệu, cha sở nơi dạy giáo lý có bổn phận đón nhận học viên, sau đó gởi giấy cho cha sở riêng của đương sự để kính tường hoặc nhờ điều tra.
Điều 18
Thời gian khóa giáo lý hôn nhân kéo dài từ một đến ba tháng. Có thể rút ngắn nhưng vẫn bảo đảm những điều căn bản.
IX. Giáo lý dự tòng
Điều 19
Trong trường hợp học giáo lý dự tòng để kết hôn, thời gian dự tòng nên là sáu tháng, ít nhất là ba tháng.
Vì tôn trọng quyền tự do tôn giáo, chỉ nênkhuyên chứ không được ép buộc người ngoài Công giáo theo đạo như là điều kiện để kết hôn. Nếu đương sự muốn, nên chấp nhận cho kết hôn với chuẩn khác đạo.
X. Thẩm quyền miễn chuẩn – cấm kết hôn
Điều 20
Đấng Bản quyền địa phương có quyền miễn chuẩn, bất kể hôn nhân được cử hành trong giáo phận mình hay giáo phận khác, cho những người thuộc quyền mình đang ở bất cứ nơi nào, và mọi người, Công giáo hay không Công giáo, đang cư ngụ trong địa hạt mình.
Để thuận tiện, cha sở nơi cử hành hôn phối, khi thiết lập hồ sơ và điều tra, nên giúp đôi bạn xin Đấng Bản quyền của mình chuẩn các ngăn trở hôn phối mà Tông Toà không dành riêng cho mình.
Nếu việc kết hôn được cử hành ở một giáo xứ thứ ba nhưng việc thiết lập hồ sơ và điều tra lại được thực hiện bởi cha sở của một trong đôi bạn, thì nên xin Đấng Bản quyền của một trong đôi bạn chuẩn ngăn trở hôn phối.
Điều 21
Cha sở không có quyền cấm kết hôn, cũng không được phép đặt thêm quy định có giá trị như những luật cấm hay hạn chế việc kết hôn.
Việc không chu toàn các nghĩa vụ trong giáo xứ không được coi như những lý do để từ chối việc ban các bí tích cho những người xin lãnh nhận cách thích đáng.
XI. Theo đạo Công giáo sau kết hôn
Điều 22
§1. Giáo Hội công nhận giá trị của hôn nhân đã được cử hành bởi một thể thức “công” theo luật hay tục lệ của người ngoài Công giáo, cũng quen gọi là hôn nhân tự nhiên, nghĩa là công nhận hôn nhân đó thành sự.
§2. Một khi hôn nhân đã thành sự, đã trở nên vợ chồng thì không được cử hành hôn nhân lần thứ hai trong đạo Công giáo. Vì vậy, khi một hoặc cả hai người trong đôi bạn, đã kết hôn thành sự theo thể thức ngoài Công giáo, nay xin được thâu nhận vào thông công đầy đủ với Giáo Hội Công giáo hoặc xin được rửa tội, thì không được cử hành kết hôn lại.
§3. Nếu chỉ một người trong đôi bạn người lương ấy theo đạo, họ không phải xin chuẩn hôn nhân khác đạo. Nếu cả hai người trong hôn nhân đó được rửa tội, hôn nhân của họ tự động được nâng lên phẩm giá bí tích.
XII. Ghi sổ – Sổ sách
Điều 23
§1. Cha sở nơi cử hành hôn phối buộc phải gửi giấy chứng nhận hôn phối cho các cha sở của nơi mà đôi bạn đã được rửa tội, để các ngài ghi chú vào sổ rửa tội, cho dù họ không còn có cư sở ở đó nữa.
Cũng cần gởi cho cha sở nơi đôi bạn có cư sở những chứng thư hoặc chứng nhận cần thiết về bí tích, để ngài lập sổ Gia đình Công giáo.
§2. Các chứng nhận bí tích của Kitô hữu, cách riêng là bí tích Hôn phối, cho dù là sổ hay chứng nhận, luôn phải có chữ ký, ngày tháng và nơi lãnh nhận bí tích Rửa tội.
Điều 24
Việc cấp sổ Gia đình Công giáo thuộc nhiệm vụ và thẩm quyền của cha sở; không tùy thuộc vào việc đã nhập xứ hay đang tạm trú, hoặc có hay không đóng góp cho giáo xứ.
Điều 25
§1. Các hồ sơ hôn nhân: chứng thư, giấy giới thiệu, giấy rao, kết quả rao,… được phép gởi qua các phương tiện kỹ thuật số với các bản scan màu hoặc bản chụp ảnh, miễn là được làm một cách đúng đắn, rõ ràng.
§2. Phải được gửi trực tiếp từ văn phòng giáo xứ/giáo phận này đến văn phòng giáo xứ/giáo phận kia.
§3. Khi có hồ nghi về sự giả dối, liên lạc với những người có thẩm quyền của đương sự.
+ Đaminh Nguyễn Văn Mạnh
Giám mục Giáo phận Đà Lạt
Chủ tịch Uỷ ban Mục vụ Gia đình
(đã ấn ký)
Tổng Giám mục TGP Sài Gòn – Tp HCM
Chủ tịch HĐGM Việt Nam
2024
Ơn gọi của tôi
Biến cố thứ nhất: Sự ra đi mãi mãi của người anh trai duy nhất và sự xuất hiện ba người con trai kết nghĩa trong gia đình tôi.
Anh trai tôi đã ra đi mãi mãi khi tôi chỉ mới 10 tuổi, em gái tôi 8 tuổi. Sự ra đi quá sớm và quá đột ngột của anh đã làm gia đình tôi bị đảo lộn rất nhiều. Bố mẹ tôi rất đau lòng và buồn phiền. Lúc đó, dù chỉ là một đứa trẻ con nhưng tôi cảm thấy mình bị thua thiệt với bạn bè cùng trang lứa. Tôi đã luôn cầu nguyện và hi vọng rằng một ngày nào đó anh trai sẽ quay về với gia đình tôi. Tôi tự nhủ rằng: “Chúa chỉ gọi anh có việc và ít hôm nữa Chúa sẽ trả anh lại cho tôi”
Thời gian trôi qua, bố mẹ tôi cũng dần nguôi ngoai nỗi buồn, riêng tôi, chưa một giây phút nào tôi quên được hình ảnh của anh trai mình, và rồi Chúa đã “trả anh về cho tôi”, không phải một mà là ba. Chúa đã ban cho gia đình tôi ba người con nuôi. Trong ba người anh trai đó thì có hai anh là tu sĩ, một người đại chủng viện và một người tu dòng. Hai anh đã thúc bách và giúp tôi có thêm động lực để tôi yêu thích và ao ước đi tu.
Không chỉ dừng lại ở những lời khuyến khích, đời sống của hai anh cũng là tấm gương giúp tôi chọn đời sống tu trì. Mặt khác, bố mẹ tôi cũng rất muốn tôi đi tu, vì thế luôn nêu gương tốt để tôi có cơ hội và thời gian gần Chúa và dâng mình cho Chúa. Lúc đầu, tôi thích đi tu vì bố mẹ, vì hai anh trai và vì những bộ áo dòng rất đẹp mà các Soeur mặc…Có lẽ Chúa đã dùng các biến cố ấy để hun đúc ơn ơn gọi trong tôi.
Biến cố thứ hai: biến cố biến đổi thật sự cuộc sống của tôi và thúc bách tôi dấn thân trên con đường tu trì một cách xác tín hơn. Đó là lời cầu xin với thánh Antôn trước ngày tôi đi thi đại học.
Hôm đó là thứ ba, tôi cùng bố đi lễ tại đền thánh Antôn Trại Gáo. Tôi đã đến bên đền thánh Antôn để xin một thỉnh cầu. Nếu tôi nói ra thỉnh cầu này chắc các bạn sẽ rất buồn cười. Tôi xin với Ngài rằng: “Thánh Antôn ơi, gia đình con rất khó khăn, con không có điều kiện ôn thi đại học như các bạn, con đã đi làm và công ty cho con nghỉ bốn ngày để thi đại học vì thế hôm nay con đến đây xin Ngài một thỉnh cầu là cho con được đậu đại học. Nếu như con đậu đại học con sẽ đi tu”. Không biết vì thánh nhân thương hay vì may mắn, tôi đâu đại học trong niềm vui và sự hạnh phúc không biết phải diễn tả như thế nào. Tôi nhận ra tình Chúa yêu tôi và tình yêu ấy đã trổ bông trong cuộc đời tôi. Tôi quyết định thực hiện lời hứa với Chúa trở thành một nữ tu.
Tôi vun trồng ơn gọi của mình mỗi ngày bằng việc sống giản dị, yêu thương và tham gia các công việc của giáo xứ một cách nhiệt thành. Tình thương Chúa dành cho tôi không chỉ dừng lại ở kết quả đại học, mà nó còn lớn hơn nữa qua những cơ hội và chọn lựa Chúa dành cho tôi khi tôi là một sinh viên. Tôi có cơ hội được đi nhiều nơi, tham gia các giờ cầu nguyện lớn, các hội từ thiện và các buổi tĩnh tâm về ơn gọi. Không phải là trực tiếp nhưng bằng một cách nào đó tôi cảm nhận được rằng Chúa luôn mời gọi và giúp tôi trong sự chọn lựa của mình. Có những lúc tôi cũng muốn bỏ cuộc nhưng hình như Chúa không muốn thế. Ngài gửi đến cho tôi sứ giả đó là Bố linh hướng của tôi. Bố đã giúp tôi lấy lại niềm tin ở Chúa, cho tôi yêu việc học và một lần nữa ước mơ đi tu trở lại trong tôi.
Biến cố thứ ba: cũng là biến cố đưa tôi đến chọn lựa cuối cùng, trở thành một thỉnh sinh của dòng Đa Minh Rosa Lima. Sinh viên năm thứ ba, vào dịp tập huấn giáo lý viên toàn Giáo hạt, một Soeur dòng Đa Minh đã giúp chúng tôi trong đợt tập huấn ấy. Qua con người của Soeur tôi thấy được sự nhanh nhẹn, yêu thương, thánh thiện và tôi thích bộ áo dòng của Soeur. Sau đợt tập huấn, tôi bắt đầu tìm hiểu về dòng Đa Minh, lúc đầu tôi tìm hiểu dòng Đa Minh Tam Hiệp nhưng rút cuộc tôi lại trở thành thỉnh sinh dòng Đa Minh Rosa Lima. Thật sự tôi cũng không hiểu vì sao tôi quyết định như thế này, nhưng tôi cảm nhận tất cả là thánh ý Chúa.
Chúa có lí do của Ngài khi gọi tôi bước chân vào đây. Không phải tôi tài giỏi, thánh thiện hơn người khác nhưng tất cả là vì tình yêu. Ơn gọi tu trì đối với tôi là một mầu nhiệm và tôi luôn tự hỏi mình rằng: “Tại sao Chúa chọn tôi?”. Đến hôm nay tôi vẫn chưa tìm cho mình được câu trả lời phù hợp với suy nghĩ của bản thân. Phải chăng tôi đi tu vì bộ áo dòng, vì hai anh trai của mình, vì thánh lễ an táng đông Cha, vì thần tượng Soeur Đa Minh? Có lẽ tất cả đều đúng nhưng có lẽ lí do đúng nhất vẫn là sự quan phòng của Chúa dành cho tôi. Ơn gọi đi tu của tôi là vậy đó, đơn sơ và một chút mầu nhiệm. Chúa gọi mỗi chúng ta một cách khác nhau đúng không bạn? Cầu mong mỗi người chúng ta sẽ luôn biết lắng nghe và đáp trả đúng lời mời gọi của Chúa.