2023
10 điều nhắn nhủ của ĐTC Phanxicô dành cho các bạn trẻ tại Lisbon-2023
Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết thúc chuyến đi đến Lisbon – Bồ Đào Nha dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2023, từ ngày 2-6 tháng 8 vừa qua. Trong các cuộc gặp gỡ khác nhau với các bạn trẻ, Đức Thánh Cha đã đưa ra những lời nhắn nhủ rất mạnh mẽ, hướng dẫn các bạn trẻ tiếp tục sống đức tin của mình giưa một thế giới đầy quyến rũ sai lầm và đang thay đổi từng ngày.
Dưới đây là một số trích đoạn từ các diễn từ, bài giảng của người kế vị thánh Phêrô dành cho những người trẻ.
|
2023
Hiệp hành tại Đại hội Giới trẻ Thế giới – Bản tin Hiệp hành ngày 11.08.2023
(Cập nhật lúc 20g50 ngày 11.08.2023)
17. Hiệp hành tại Đại hội Giới trẻ Thế giới
16. Phương thức làm việc tại Đại hội Thượng Hội Đồng Giám mục XVI
15. Thống kê danh sách tham dự viên Đại hội Thượng hội Đồng Giám mục XVI
14. Tóm lược Tài liệu làm việc Thượng Hội đồng cấp độ hoàn vũ (1)
13 – Ra mắt Tài liệu làm việc Thượng Hội Đồng cấp hoàn vũ
12 – Đức Mẹ Maria và Thượng Hội Đồng
11 – Thượng Hội Đồng kỹ thuật số?
10 – Giáo dân, tu sĩ có được tham gia Thượng Hội Đồng sắp tới?
09 – Họp báo đúc kết giai đoạn châu lục của Thượng Hội Đồng
08 – Linh đạo Hiệp hành là gì?
07 – Kết thúc giai đoạn châu lục THĐ & Linh đạo Hiệp hành
06 – Châu Á gửi gì cho Thượng Hội đồng sắp tới?
05 – Châu Mỹ Latinh bận tâm gì?
04 – Khóa họp Phi Châu ở Ethiopia
03 – Thượng Hội Đồng quan tâm gì ở giai đoạn châu lục?
2023
3 bước để rao giảng Tin Mừng cho những người thờ ơ
Làm thế nào chúng ta có thể Phúc Âm hóa nền văn hóa thờ ơ này?
Một giải pháp lâu dài cho vấn đề thờ ơ về tôn giáo bắt đầu từ mái ấm gia đình, trong bối cảnh gia đình. Cha mẹ Kitô hữu không chỉ có trách nhiệm dạy dỗ con cái về đức tin (và cách cầu nguyện), mà còn giúp chúng làm quen với những phản đối phổ biến đối với niềm tin Kitô giáo và chỉ dạy chúng cách hồi đáp. Họ cũng phải dạy con cái cách để suy nghĩ, nhấn mạnh sự trân trọng sâu sắc của Giáo Hội đối với khoa học và lý trí – và sự tương thích mật thiết giữa lý trí với đức tin. Thánh Augustinô đã viết câu Crede, ut intelligas: “Hãy tin để bạn có thể hiểu.”
Tình cảnh cấp bách của ngày hôm nay cũng đòi hỏi một số can thiệp ngay lập tức. Ít nhà tư tưởng Kitô giáo nào suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề thờ ơ đối với tôn giáo như Blaise Pascal, vì vậy hãy bắt đầu với cách tiếp cận mà ông đã vạch ra trong tác phẩm kinh điển Pensées (Suy tưởng) của mình:
Con người coi thường tôn giáo. Họ chê ghét tôn giáo và lo sợ rằng nó có thể là chân thật. Giải pháp cho vấn đề này trước hết [1] là chứng tỏ rằng tôn giáo không đi ngược lại với lý trí, nhưng đáng được trân trọng và lưu tâm. Tiếp theo là [2] làm cho tôn giáo có sức hấp dẫn, khiến cho những người tốt mong ước rằng tôn giáo này là chân thật, và sau đó [3] cho thấy rằng tôn giáo là chân thật.
1. Chứng tỏ rằng tôn giáo không đi ngược lại với lý trí, nhưng đáng được trân trọng và lưu tâm.
Có nhiều lý lẽ thuyết phục có thể được đưa ra để giải thích và bảo vệ đức tin Công giáo. Nhưng cách thức cơ bản hơn đối với một tôn giáo phù hợp với lý trí lại cần đến một bước đi nền tảng hơn: định nghĩa các thuật ngữ và loại bỏ những phù phiếm.
Những người theo chủ nghĩa hoài nghi thường vội vàng định nghĩa đức tin là điều gì đó giống như “bám lấy một sự tin tưởng mà không có lý do chính đáng” hoặc “tin vào điều gì đó bất chấp bằng chứng ngược lại chắc chắn hơn”. Cả hai định nghĩa này đều không hữu ích. Do đó, quy tắc số một là: đừng để những người hoài nghi định nghĩa các thuật ngữ của bạn cho bạn!
Khi được hiểu một cách đúng đắn, đức tin là sự đồng thuận được đưa ra dành cho một tuyên bố dựa trên thẩm quyền từ một người khác. Sự đồng thuận đích thực là những gì học sinh dành cho giáo viên, những gì nguyên đơn dành cho luật sư bào chữa và những gì các nhà sử học dành cho các cựu chiến binh. Nhưng sự tín nhiệm như vậy không tự đóng lại đối với việc nghiên cứu thêm. Lý trí được sử dụng để chứng thực niềm tin, và mặc dù những mầu nhiệm của đức tin thường được coi là những chân lý “có rào cản” mà lý trí không thể tiếp cận được; thay vào đó, chúng ta có thể xem các mầu nhiệm đó là những nguồn gốc phát sinh chân lý và sự hiểu biết sâu sắc. Mầu nhiệm là món quà không ngừng được trao ban cho trí tuệ con người. Như G.K. Chesterton nhận định rằng: “Những điều bí nhiệm của Thiên Chúa thì đem lại sự thỏa mãn nhiều hơn những lời giải đáp của con người.”
2. Làm cho Kitô giáo giáo trở nên hấp dẫn để những người thờ ơ mong ước tôn giáo này là chân thật.
Kitô giáo thật đẹp. Chúng ta có thể nói với mọi người về điều đó, nhưng thường thì tốt hơn là nên thể hiện nó.
Trong một bài thuyết trình vào năm 1970, Aleksandr Solzhenitsyn, tiểu thuyết gia người Nga và là người sống sót trong các trại lao động của Liên Xô, đã khẳng định rằng: “Sức thuyết phục của một tác phẩm nghệ thuật chân chính là hoàn toàn không thể chối cãi, và nó buộc ngay cả một trái tim chống đối cũng phải đầu hàng.” Cái đẹp thu hút người chiêm ngắm nó. Thông qua cái hữu hình, cái vô hình trở nên dễ nhận biết. Cái đẹp thì không mang dáng vẻ oai vệ – đến mức không có vũ trang – điều này làm cho nó trở thành khởi điểm hấp dẫn cho việc rao giảng Tin Mừng. Như Đức Giám mục Robert Barron đã nói: “Vẻ đẹp là đầu mũi tên của việc rao giảng Tin Mừng.”
Không có biểu tượng nào hấp dẫn hơn hình ảnh (eikon) về Thiên Chúa (theo cách dùng thuật ngữ Hy Lạp của Thánh Phaolô) cho bằng Đức Giêsu Kitô (x. Cl 1,15). Đặc biệt nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, con người đã có thể nhận thức được theo một cách thức mới đầy sâu sắc không chỉ về mức độ nghiêm trọng của tội lỗi, mà còn cả về tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao Thánh Phaolô quyết định “không muốn biết đến chuyện gì khác” nơi các tín hữu Côrintô mà ngài đang truyền bá Phúc Âm, “ngoại trừ Đức Giêsu Kitô và việc Người chịu đóng đinh” (1Cr 2,2). Chúng ta cần cho mọi người thấy rằng Đức Kitô chịu đóng đinh vẫn đang sống – và đúng thật là đang sống trong chính chúng ta.
3. Thứ ba, chứng tỏ rằng Kitô giáo thực sự là chân thật.
Một tôn giáo dù có hấp dẫn đến đâu thì cũng chẳng quan trọng nếu nó chỉ là giả tạo. Đây là chỗ để cho những tư tưởng hộ giáo xuất hiện. Đạo Công giáo đưa ra ba lời tuyên bố cơ bản về chân lý, mỗi lời tuyên bố đóng vai trò là những trụ cột trong toàn bộ hệ thống giáo lý của tôn giáo này.
Trụ cột đầu tiên là Thiên Chúa hiện hữu. Nhưng tại sao mọi người cần quan tâm đến điều này ngay từ đầu? Triết gia Richard Purtill viết: “Bước đầu tiên để trả lời là chỉ ra rằng nếu ý tưởng truyền thống về Thiên Chúa là chân thật, thì chúng ta sẽ không còn tồn tại nếu Thiên Chúa không nghĩ đến chúng ta và không muốn giữ cho chúng ta tồn tại. Thiên Chúa quan tâm đến chúng ta; điều đó tự nó là một lý do.” Thật vậy, việc một Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi và đang hoạt động trên thế giới này không phải là một khẳng định đơn thuần, mà có thể được hướng đi của lý trí bảo vệ một cách mạnh mẽ. (Ví dụ, hãy tìm hiểu về Ngũ đạo của Thánh Tôma Aquinô.)
Trụ cột thứ hai là Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa nhập thể – điều mà Người thể hiện rõ ràng bằng cách sống lại từ cõi chết như Người đã tiên báo. Sự phục sinh này là nền tảng của đức tin. Thánh Phaolô tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì chúng ta vẫn ở trong tội lỗi của mình.” (1Cr 15,17) May mắn cho các Kitô hữu là có nhiều lý do chính đáng để tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Antony Flew, một triết gia hoài nghi, đã thừa nhận: “Bằng chứng về sự Phục sinh tốt hơn so với những phép lạ được tuyên bố trong bất kỳ tôn giáo nào khác. Nó khác biệt rõ ràng về chất lượng và số lượng.” Người Công giáo nên làm quen với bằng chứng này và sẵn sàng chia sẻ về nó.
Cuối cùng, Giáo Hội Công Giáo tuyên bố là Giáo Hội do Đức Kitô thành lập. Chúng ta nhận thấy rằng việc bảo vệ cho tuyên bố này không chỉ là công việc thiết thực dành cho những nhà hộ giáo, mà còn là của các giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội, một số người trong số các ngài là môn đệ của các tông đồ. Từ Thánh Inhaxiô thành Antiôkia, Thánh Augustinô cho đến Thánh Gioan Đamascênô, tất cả các giáo phụ ở những thế kỷ đầu tiên đều tự minh chứng về tính hiển nhiên của đạo Công giáo trong các tác phẩm của mình. Do đó, Giáo Hội Công Giáo có Kinh Thánh và lịch sử Giáo Hội sơ khai đứng về phía mình.
Chúng ta vẫn phải lưu tâm đến thực tế về thách thức phía trước. Rao giảng Tin Mừng là một công việc khó khăn và không phải lúc nào hoa trái của nó cũng là điều hiển nhiên tức thì. Không có hạt đậu ma thuật nào sẽ tự động thức tỉnh tất cả những ai thờ ơ về mặt thiêng liêng và dẫn đưa họ đến với đức tin. Những cuộc hoán cải có xu hướng diễn ra theo từng bước nhỏ, và thường thì cả người rao giảng Tin Mừng lẫn những người được rao giảng Tin Mừng đều không biết rằng một cuộc hoán cải đã bắt đầu, trong khi thực tế là nó đã bắt đầu. Do đó, chúng ta phải kiên nhẫn tiến bước trong đức tin, đức cậy và đức mến, luôn ghi nhớ những lời của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô:
“Kẻ trồng kẻ tưới đều chẳng là gì cả, chỉ có Thiên Chúa là mới là Đấng làm cho lớn lên. Kẻ trồng người tưới đều bình đẳng như nhau, ai nấy hưởng công theo sức lao động của mình. Vì chúng ta là những người cùng nhau làm công việc của Thiên Chúa.” (1Cr 3,6-7)
2023
Chuyến tông du Mông Cổ của Đức Thánh Cha, đánh dấu cuộc gặp gỡ giữa Công giáo và Phật giáo
Mông Cổ đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Vatican vào năm 1992. Đây là quốc gia không giáp biển lớn nhất thế giới, với dân số chỉ 3,3 triệu người. Theo điều tra dân số quốc gia năm 2020, 52% dân số theo đạo Phật giáo, 41% tự nhận không theo tôn giáo nào, 3,2% theo Hồi giáo và 1,3% là Kitô hữu. Chuyến hành hương sắp tới của Đức Thánh Cha là cao điểm của hàng chục năm gặp gỡ giữa Phật giáo-Kitô giáo.
Chuyến tông du sắp tới của Đức Thánh Cha đến Mông Cổ được chào mừng là cuộc viếng thăm đầu tiên của một Giáo hoàng đến đất nước này. Tuy nhiên hàng chục năm hoạt động truyền giáo và ngoại giao đã đặt nền móng cho cuộc hành hương này, sẽ diễn ra từ ngày 31/8 đến 04/9.
Chiều kích Phật giáo-Kitô giáo của cuộc gặp gỡ là một lý do quan trọng làm cho Đức Thánh Cha ưu tiên Mông Cổ. Chúng ta biết rằng Đức Thánh Cha quan tâm đến đối thoại liên tôn như một liều thuốc giải độc cho xung đột và kiểu biến những người chống đối thành những người xấu được quá nhiều chính trị gia thực hiện.
Bằng cách theo ba chặng đường dấn thân lâu dài của Giáo hội nhằm tìm ra điểm chung với các cộng đoàn Phật giáo, và sau đó chứng kiến cách Đức Thánh Cha đã tích cực thúc đẩy các xu hướng này, chúng ta thấy các nhà truyền giáo và các nhà ngoại giao hòa hợp như thế nào, đặc biệt là dưới sự dẫn dắt của ngài. Đó là một quan hệ đối tác mạnh mẽ sẽ được thể hiện ở Mông Cổ.
Qua Bộ Đối thoại Liên tôn, Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC), các tu viện và các tín đồ đã tăng cường dấn thân cho sự hiểu biết nhau nhiều hơn, đã đạt được tiến bộ to lớn hướng tới việc xây dựng một “nền văn hóa từ bi”. Đây là điều đã được nói đến trong một cuốn sách nói về cuộc gặp gỡ giữa Phật giáo và Công giáo do Đại học Urbaniana, xuất bản năm 2020.
Sứ điệp Vesak
Đức ông Indunil Kodithuwakku Janakaratne Kankanamalage, người gốc Sri Lanka, Tổng Thư ký Bộ Đối thoại Liên tôn cho biết ngài được sinh ra trong môi trường đối thoại liên tôn. Mẹ ngài lớn lên trong một gia đình Phật giáo và trở thành người Công giáo khi kết hôn. Những người hàng xóm và bạn học của Đức ông là các Phật tử, tín đồ Hồi giáo và các Kitô hữu. Ngài giải thích: “Tôi lớn lên trong một nền văn hóa đa nguyên và sự đa nguyên này đã định hình thái độ, nhận thức, thế giới quan của tôi”.
Trong khi giảng dạy môn truyền giáo tại Đại học Giáo hoàng Urbaniana, Đức ông Kodithuwakku đã đưa các sinh viên đến một ngôi chùa Phật giáo ở Roma để gặp gỡ các nhà sư Phật giáo. Ngài nói đối thoại liên tôn là một “quá trình tiến triển”, và cho rằng Công đồng Vatican II, đặc biệt Tuyên bố Nostra Aetate, là động lực chính để thúc đẩy tiến trình này, và vì thế vào năm 1986 các Phật tử tham gia buổi cầu nguyện Assisi do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II chủ sự.
Hai sáng kiến của Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn vào năm 1995 – sứ điệp Phật Đản đầu tiên và hội thảo thần học – đã đưa ra ví dụ về các cuộc gặp gỡ thường xuyên và tôn trọng xây dựng các mối quan hệ.
Rằm tháng Tư – tháng Năm là ngày lễ linh thiêng của các Phật tử trên toàn thế giới. Dưới sự hướng dẫn của Đức Hồng Y Francis Arinze, Hội đồng Toà Thánh Đối thoại Liên tôn, nay là Bộ Đối thoại Liên tôn, đã bắt đầu quan tâm đến lễ Phật Đản bằng cách gửi lời chúc mừng đến “những người bạn Phật giáo”, thông qua các sứ thần Tòa thánh ở hầu hết các quốc gia. Thư chúc mừng được dịch và phổ biến bằng các ngôn ngữ địa phương.
Gần đây nhất, vào ngày 21/4, Tổng trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn, Đức Hồng Y Miguel Angel Ayuso Guixot, và Đức ông Tổng Thư ký Kodithuwakku đã gửi lời chúc mừng lễ Phật Đản với chủ đề “Phật tử và Kitô hữu chữa lành vết thương của nhân loại qua lòng từ bi và bác ái”.
Đối thoại thần học
Chủ đề tương tự sẽ được khám phá tại hội thảo Phật giáo – Kitô giáo lần thứ bảy do Bộ Đối thoại Liên tôn tài trợ. Sự kiện sẽ diễn ra vào tháng 11 ở Bangkok, Thái Lan, tại Đại học Maha Chulalongkorn Raja Vidhyalaya, một trường đại học Phật giáo Tiểu thừa. Việc tổ chức sự kiện này cũng được điều phối bởi Đại học Phật giáo Mahamakut, gắn liền với truyền thống Đại thừa, vì vậy hai trường phái tư tưởng quan trọng nhất của Phật giáo đều sẽ đại diện.
Hội thảo chuyên đề Phật giáo-Kitô giáo đầu tiên do Bộ Đối thoại Liên tôn tài trợ được tổ chức vào năm 1995 tại tu viện Phật Quang Sơn ở Cao Hùng, Đài Loan. Ba năm sau, hội nghị chuyên đề thứ hai được tổ chức tại một tu viện Biển Đức ở Bangalore, Ấn Độ.
Đức ông Kodithuwakku nhận xét: “Chúng ta đang sống trong thời đại mà chủ nghĩa bộ lạc đang phát triển. Trong xã hội bộ lạc, người ta bị ràng buộc với nhóm của chính mình. Người ta chỉ nghĩ đến nhóm của mình. Những người khác có thể tồn tại, nhưng chỉ là thứ yếu. Trái lại, Đức Thánh Cha Phanxicô đang thúc đẩy một xã hội huynh đệ. Trong đó người này coi người kia như anh chị em, đó là điều ngược lại với xã hội bộ lạc. Và đối thoại tôn giáo, ngay từ đầu, đã thúc đẩy xã hội huynh đệ. Ngay cả khi tôi có nguồn gốc sâu xa trong bản sắc tôn giáo, thì chúng tôi cố gắng cởi mở với người khác bằng sự tôn trọng và hiểu biết. Điều này không có nghĩa là che giấu hoặc xoá bỏ sự khác biệt của chúng ta. Sự khác biệt vẫn còn. Các tôn giáo không giống nhau. Nhưng đồng thời, bạn tôn trọng sư đa dạng và dựa trên các giá trị phổ quát, bạn cố gắng biến thế giới này thành một nơi tốt đẹp hơn”.
Đức Hồng Y Marengo và Liên Hội đồng Giám mục Á châu
Một vị lãnh đạo Giáo hội khác đánh giá cao loạt hội thảo giữa Phật giáo và Kitô giáo là Đức Hồng Y Giorgio Marengo, Phủ doãn Tông tòa thủ đô Ulaanbaatar của Mông Cổ. Trong một cuộc phỏng vấn tại cuộc họp của Liên Hội đồng Giám mục Á châu năm 2022, Đức Hồng Y Marengo đã phản ánh về việc ngài tham gia các cuộc thảo luận Phật giáo- Kitô giáo.
Đức Hồng Y Marengo giải thích: “Điều này đã cho tôi cơ hội tuyệt vời để biết thêm về thế giới Phật giáo. Tôi đã tham dự lần gặp gỡ vào năm 2015 ở Bodh Gaya, Ấn Độ, và đối với tôi, đó thực sự là một sự mở rộng tầm mắt cho một chân trời rộng lớn hơn, bởi vì ở Mông Cổ, tôi chỉ biết thực tế của Phật giáo Mông Cổ. Cuộc họp năm 2015 tập trung nhiều hơn vào truyền thống Tiểu thừa”.
Ngài nói tiếp: “Sau đó, cuộc họp vào năm 2017 tại Đài Bắc, Đài Loan, một lần nữa, là một sáng kiến hiệu quả. Tôi đã yêu cầu ban tổ chức mời một tu sĩ Phật giáo từ Mông Cổ vì vị này đã không tham dự các cuộc họp trước đó. Vì vậy, đó cũng là một trải nghiệm về tình bạn. Nhà sư tham gia là một vị trụ trì nổi tiếng đứng đầu một tu viện lớn ở Mông Cổ. Những dịp này đã cho tôi cơ hội để tìm hiểu thêm về Phật giáo nói chung”.
Liên Hội đồng Giám mục Á châu có lịch sử phát triển quan hệ riêng với đa số tín đồ ở châu Á. Tại phiên họp khoáng đại đầu tiên vào năm 1974 ở Đài Bắc, Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu lấy hình ảnh Giáo hội Á châu như một Giáo hội đối thoại làm nguyên tắc hướng dẫn. Bốn năm sau, các Giám mục Á châu đã thành lập Văn phòng Đại kết và Liên tôn, văn phòng này đã thúc đẩy sự tham gia trong lĩnh vực này.
Những gì Liên Hội đồng Giám mục Á châu hiểu về Phật giáo được thể hiện tuyệt vời trong một tài liệu năm 1997 về cách Chúa Thánh Thần thúc đẩy đức tin: “Trong nhiều thế kỷ, Phật giáo đã nuôi dưỡng đời sống tâm linh của hầu hết các nước châu Á, mang lại những hoa trái tình thương, lòng trắc ẩn, niềm vui và sự bình an trong cuộc sống của hàng triệu người ở châu Á. Khi các Kitô hữu đến để chia sẻ điều gì đó về tầm nhìn và kinh nghiệm của Đức Phật như được thể hiện trong cuộc sống của mọi người… họ có thể cảm nhận gì ngoài hoạt động của Thánh Thần mà họ cũng đã trải nghiệm?”.
Đức Thánh Cha Phanxicô và tình huynh đệ
Chính một tu sĩ Phật giáo là người đầu tiên chúc mừng Đức cha Marengo khi Đức Thánh Cha Phanxicô chọn ngài làm thành viên Hồng y đoàn vào năm 2022.
Đức Hồng Y Marengo kể lại: “Tôi đang ở Ý và cử hành Thánh lễ Chúa nhật với hai linh mục Mông Cổ đi cùng tôi, và với một tu sĩ Phật giáo. Sau đó, chúng tôi đến thăm một cộng đoàn các nữ tu thừa sai Consolata, ở ngoài Roma. Chúng tôi đã có một cuộc gặp gỡ đẹp. Trong khi đó, thông báo về các tân hồng y đã được đưa ra tại buổi đọc kinh Truyền tin. Chúng tôi chỉ nhận được tin sau đó. Và nhà sư là người đầu tiên chúc mừng tôi. Tất nhiên đó là một bất ngờ lớn đối với tôi, nhưng chúng tôi biết đối với Đức Thánh Cha Phanxicô đối thoại liên tôn rất quan trọng”.
Như vậy, chuyến viếng thăm Mông Cổ của Đức Thánh Cha là đỉnh cao của gần 60 năm tăng trưởng tình huynh đệ với các anh chị em Phật tử của chúng ta.
Như Đức Hồng Y Miguel Ayuso Guixot, Tổng trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn nói: “Cùng với cuộc đối thoại về tình huynh đệ và sự tôn trọng của Đức Thánh Cha Phanxicô, các Phật tử và Kitô hữu từ khắp nơi trên thế giới đã có thể tìm ra những cách sáng tạo để chia sẻ niềm vui và mầu nhiệm cuộc sống và cộng tác vì công ích cho tất cả mọi người, và sự tồn tại của ngôi nhà chung của chúng ta”.