2023
Đức Giáo hoàng nên được gọi bằng tước hiệu gì?
Một cái nhìn thú vị về những vị giáo hoàng không lấy tên mới và những vị đã lấy tên mới – tại sao, khi nào và điều gì tiếp theo sau đó.
Ngay sau khi một tân giáo hoàng được bầu chấp nhận vai trò của mình, ngài phải đối mặt với câu hỏi: “Ngài sẽ được gọi bằng tước hiệu gì?”
Ngày nay, người ta cho rằng bất cứ vị nào trở thành giáo hoàng đều sẽ nhận cho mình một tước hiệu giáo hoàng mới. Trên thực tế, gần nửa thiên niên kỷ đã trôi qua kể từ khi một vị giáo hoàng sử dụng tên thật (tên khai sinh) của mình.
Tuy nhiên, trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, các vị giáo hoàng đều đã sử dụng tên thật của mình. Quan niệm về việc nhận tước hiệu mới của giáo hoàng (tông hiệu) vốn bắt đầu vào năm 533, khi một linh mục tên là Mercurius được chọn làm giáo hoàng và ngài quyết định rằng thật không phù hợp đối với Giám mục Rôma khi sử dụng một tên gọi vốn dành để tôn vinh vị thần ngoại giáo là Mercury. Vì vậy, ngài đã bỏ qua tên thật của mình và trở thành Đức Giáo hoàng Gioan II.
Mặc dù không có nhiều thông tin về triều đại giáo hoàng kéo dài hai năm của ngài, nhưng dường như Đức Giáo hoàng Gioan II là một con người vững vàng về phương diện luân lý, khi ngài đã cầm giữ ít nhất một giám mục có thói trăng hoa trong một đan viện.
Vị thứ hai chọn cho mình một tước hiệu là Đức Giáo hoàng Gioan III. Với tên thật “Catelinus”, ngài vốn là con của một thành viên ưu tú của Viện nguyên lão Rôma. Triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài gần đúng 13 năm (17 tháng 7 năm 561 đến 13 tháng 7 năm 574), một thành tựu không nhỏ trong thời đại đó. Đức Giáo hoàng Gioan III dường như có sự thích nghi rất tốt. Và trong một thời kỳ đặc biệt hỗn loạn, ngài đã thực hiện trọng trách giáo hoàng của mình tại một địa điểm đặc biệt cách Rôma vài dặm.
Không có giáo hoàng tiếp theo nào nhận lấy tước hiệu mới cho đến thế kỷ thứ X.
Với tên thật “Octavian”, Đức Giáo hoàng Gioan XII rõ ràng là một thanh niên có mối quan hệ rộng rãi khi được chọn làm giáo hoàng ở độ tuổi 20 vào năm 955. Mặc dù đã trở thành Giám mục Rôma, nhưng “các công việc của Giáo Hội dường như không có sức hấp dẫn” đối với vị giáo hoàng này. Thay vào đó, ngài “sống cả đời trong sự phù phiếm và ngoại tình”. Sau khi nắm giữ cương vị giáo hoàng theo cách này hơn tám năm, ngài đã qua đời trong tình cảnh không mấy rõ ràng.
Vị thứ tư lấy tước hiệu mới là Đức Giáo hoàng Gioan XIV. Sinh ra vào thế kỷ thứ X với tên gọi Peter Canepanova, ngài không được bầu chọn bởi bất kỳ giáo sĩ hay cuộc bỏ phiếu phổ thông nào, mà theo quyết định riêng của Hoàng đế Rôma là Otto II.
Khi Otto II qua đời ngay sau đó, Đức Giáo hoàng Gioan XIV mất đi đồng minh chính (có lẽ là duy nhất) và bị tổn thương cả về chính trị lẫn thể chất. Một người chống đối giáo hoàng đã sớm xông đến để chiếm ngôi giáo hoàng và tống giam Đức Gioan XIV vào Castel Sant’Angelo, nơi ngài qua đời vì những nguyên nhân bất thường vào ngày 20 tháng 8 năm 984. Triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài suốt 8 tháng, bao gồm cả thời gian bị giam cầm.
Được sinh ra vào năm 972 với tên thật Bruno xứ Carinthia, Đức Giáo hoàng Grêgôriô V là con của một công tước và được phong làm giáo hoàng bởi Hoàng đế Rôma là Otto III, người anh em họ của ngài. Triều đại giáo hoàng của ngài bắt đầu vào ngày 03 tháng 5 năm 996 và kết thúc gần ba năm sau đó với cái chết đột ngột và đáng ngờ vào ngày 18 tháng 02 năm 999.
Ngay sau triều đại giáo hoàng của Đức Grêgôriô V, các giáo hoàng về sau sẽ lấy một tước hiệu mới theo thông lệ. Kết quả là chỉ có hai vị giáo hoàng trong thời hiện đại giữ nguyên tên thật của mình.
Đầu tiên là Đức Giáo hoàng Adrianô VI. Đậy là vị giáo hoàng người Hà Lan duy nhất trong hai thiên niên kỷ qua với tên thật Adriaan Florensz Boeyens. Là con của một người thợ mộc, ngài trở thành giáo sư thần học lâu năm và làm người giám hộ cho Hoàng đế Rôma tương lai là Charles V.
Vào ngày 09 tháng 01 năm 1522, Đức Giáo hoàng Adrianô VI được chọn như một sự thỏa hiệp giữa các phe nhóm các hồng y đang tranh cãi, nhiều vị hồng y sau đó đã tỏ ra phẫn nộ đối với vị giáo hoàng mới này khi rõ ràng ngài là người thực sự nghiêm túc trong việc xóa bỏ tham nhũng và tiêu xài hoang phí.
Đức Giáo hoàng Adrianô VI là một vị giáo hoàng chính trực, người thực sự muốn cải tổ một Giáo Hội đang sa lầy trong bãi cát lún của sự giả tạo, buông thả và xa hoa, cũng như trong bối cảnh các hoàng tử Công giáo đang gây chiến với nhau, mối đe dọa ngày càng tăng từ Đế quốc Ottoman và một cuộc Cải cách Tin lành mới manh nha.
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất của ngài là các hồng y muốn tiếp tục sống như các hoàng tử thời Phục hưng. Hai mươi tháng sau triều đại giáo hoàng của mình, ngài qua đời vào ngày 14 tháng 9 năm 1523, ở tuổi 64 – kiệt sức, phẫn uất và liêm khiết.
Vị gần đây nhất giữ nguyên tên thật của mình là Đức Giáo hoàng Marcellô II. Sinh năm 1501 với tên gọi Marcello Cervini degli Spannocchi, ngài là con trai của một người giữ quỹ giáo hoàng.
Khi triều đại giáo hoàng của ngài bắt đầu vào ngày 09 tháng 4 năm 1555, Đức Marcellô II đã lâm bệnh. Ngài qua đời vì đột quỵ ba tuần sau đó.
Với việc Đức Marcellô II đã có một triều đại giáo hoàng ngắn ngủi như vậy, chúng ta có thể tự hỏi rằng liệu việc giữ lại tên thật của giáo hoàng có bị xem là điều chẳng may hay không. Dù sao đi nữa cũng không có vị tân giáo hoàng nào giữ lại tên thật của mình kể từ thời điểm đó.
Tác giả: Ray Cavanaugh
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2023
“Hermanito”, cuốn sách về cuộc phiêu lưu của Ibrahima Balde, thường được Đức Phanxicô trích dẫn
“Cuốn Hermnanito (Em Trai), các bạn hãy đọc nó và các bạn sẽ thấy bi kịch của những người di cư”. Trên chuyến bay đưa ngài trở về từ JMJ ở Lisbon vào Chúa Nhật ngày 6 tháng 8 năm 2023, Đức Phanxicô một lần nữa trích dẫn cuốn sách nhỏ này được xuất bản vào năm 2021 bởi Amets Arzallus, người đã kể lại cuộc phiêu lưu kéo dài ba năm của Ibrahima Balde giữa đất nước của anh, là Guinea, và Tây Ban Nha.
Amets Arzallus và Ibrahima Balde
Được Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên trích dẫn kể từ năm 2001, “Hermanito” là một cuốn sách kể về cuộc phiêu lưu của một cậu bé người Guinea rời quê hương hơn tám năm trước. Ibrahima Balde là con cả trong gia đình. Kể từ khi cha qua đời, anh cảm thấy gánh nặng trách nhiệm gia đình đè nặng lên vai mình, đặc biệt là với em trai, người đã ra đi hướng đến Libya trước đó với ý định vượt Địa Trung Hải và đến châu Âu. Để hoàn thành sứ mệnh mà cha mình giao phó, làm hết sức có thể để đảm bảo việc học hành của em trai mình, đến lượt mình Ibrahima ra đi, không phải để di cư mà để tìm người em út trước khi nó bắt tay vào cuộc vượt biển. Cuộc hành trình về phía bắc đưa anh băng qua Mali, Algeria, đến Libya, mà không tìm thấy dấu vết nhỏ nhất của em trai mình. Ibrahima quyết định tiếp tục hành trình đến Tây Ban Nha, nơi anh đến vào năm 2018, ba năm sau khi rời Guinea. Sau đó, anh để tang em trai mình, và trở nên ám ảnh bởi mặc cảm tội lỗi liên quan đến sự thất bại trong việc tìm kiếm của mình.
Bốn năm lẩn trốn ở Tây Ban Nha
Ibrahima hiện làm việc trong một gara ở Madrid. Anh là thợ máy và có hợp đồng hợp lệ. Trong 4 năm, đơn xin tị nạn của anh đã bị từ chối. Do đó, anh sống bất hợp pháp, và được hỗ trợ và giúp đỡ bởi Amets Arzallus. Ngoài công việc là một nhà báo ở xứ Basque, nhà báo này còn tự nguyện giúp đỡ những người di. Amets giúp anh ta lập hồ sơ. Để làm điều này, hai người quyết định viết ra tất cả các giai đoạn trong cuộc phiêu lưu của Ibrahima với mục đích tạo thuận lợi cho việc tường thuật cuộc hành trình trước chính quyền Tây Ban Nha. Vô ích, vì đơn xin tị nạn đầu tiên thất bại. Bằng sự kiên trì, chính quyền Tây Ban Nha cuối cùng đã cấp cho anh giấy phép cư trú một năm và sẽ hết hạn vào tháng 4 năm 2024.
Câu chuyện của Ibrahima, lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Basque, sau đó bằng tiếng Tây Ban Nha và được dịch ra nhiều thứ tiếng kể từ đó, thật đáng buồn giống với câu chuyện của rất nhiều người di cư khác.
Amets và Ibrahima hiện sống cách nhau 400 km và là bạn rất thân. Họ gọi cho nhau nhiều lần một tuần. Câu chuyện này đã thay đổi cuộc đời của Amets: “Tôi nghĩ rằng mỗi người đều muốn sống và lên kế hoạch cho cuộc sống của mình ở quê hương, nơi gia đình họ sinh sống”, nhà báo xứ Basque nói, “nhưng khi biết trước những bất hạnh và tình hình kinh tế hay xã hội nơi những quốc gia như Guinea, người ta nhận ra rằng nhiều người buộc phải lên kế hoạch cho tương lai của họ ở nơi khác, bằng cách cố gắng đến châu Âu“. Amets nói rõ : Ibrahima đặc biệt thuộc về diện này. Khi họ gặp nhau ở Madrid, Ibrahima ngay lập tức nhấn mạnh rằng mục tiêu của anh không phải là đến châu Âu. “Điểm xuất phát này đã phần nào thay đổi định kiến, và nguyên mẫu của người di cư mà tôi có trong đầu”.
Sự ra đời của cuốn sách
Amets thừa nhận: “Tôi thực sự không biết làm thế nào chúng tôi đi từ những ghi chú đến ý tưởng của cuốn sách”, và nói thêm: “Chúng tôi đã dành nhiều tháng ở đó”. Ban đầu, các ghi chú được thu thập để lập hồ sơ xin tị nạn của Ibrahima đã đòi hỏi một buổi sáng đối thoại. “Ibrahima không biết đọc biết viết khi đến Tây Ban Nha”, anh ấy phải được giúp đỡ, nhưng anh ấy có một khả năng đáng kinh ngạc để diễn đạt những gì anh ấy đã sống trong gần ba năm lưu lạc kể từ khi rời Guinea. “Khi chúng tôi yêu cầu một người di cư kể cho chúng tôi về những quốc gia mà anh ta đã đi qua trong hai hoặc ba năm, nơi anh ta đã trải qua rất nhiều sự tàn ác, rất nhiều bạo lực, thì điều đó không dễ dàng, cần phải có thời gian”. Amets và Ibrahima thực hiện một số cuộc hẹn để từng chút một xem lại số km đã trải qua. Amets nói tiếp : “Một mối quan hệ đã được tạo ra”. “Chúng tôi trở thành bạn bè và tôi phát hiện ra một câu chuyện mà tôi không ngờ tới”. Amets chưa bao giờ viết một cuốn sách nào trước “Hermanito”; hoạt động của anh ấy với tư cách là một nhà báo cho đến nay chỉ giới hạn anh ấy viết các bài báo và phóng sự. Nhưng ý tưởng rằng những ghi chép về cuộc phiêu lưu của Ibrahima sẽ rơi vào tay một viên cảnh sát tại đồn cảnh sát dưới một đống đơn xin tị nạn khiến anh không thể chịu nổi. “Ibrahima đã tin tưởng tôi, tôi đã viết một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Basque, tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ làm việc của tôi”.
Lương tâm mê ngủ
“Hàng ngày, trên đài, trên báo, chúng tôi nghe và đọc những bi kịch,” Amets Arzallus thở dài, và nói tiếp: “Tôi nghĩ chúng tôi đã được giáo dục để có một khoảng cách nào đó đối với những tin tức vô nhân đạo và khó tiêu hóa này”. Nhà báo và bây giờ là nhà văn cảm thấy bị mê hoặc và gần như mất nhân tính, buộc phải giữ khoảng cách với thực tế. Anh nói: “Tôi nghĩ cần phải tiến lại gần hơn một chút, cần phải cố gắng trở nên người hơn và học lại cách cảm nhận nỗi đau” của người khác. Cuộc trò chuyện tiếp tục và vạch lại những tin tức đầy kịch tính về những người di cư trên bờ biển Lampedusa, quần đảo Canary: “có bao nhiêu thảm kịch, bao nhiêu bi kịch, bao nhiêu vụ đắm tàu?“
Amets đưa ra lời chỉ trích gay gắt đối với chính sách di cư của phương Tây và đặc biệt là của châu Âu: “Có một trách nhiệm trực tiếp […] Chính sách di cư này, quá bạo lực và vô nhân đạo, được thể hiện bằng cách để mọi thứ ở một khoảng cách nào đó, để không quá làm xáo trộn lương tâm con người […]. Chúng ta phải ngừng nhìn vào thực tế như thể nó là hư cấu bởi vì nó là một thực tế khắc nghiệt, đơn thuần và khắc nghiệt, rất bạo lực. Chúng ta phải xoay xở để thay đổi thế giới, điều đó khả thi hơn”.
“Hermanito” và Đức Thánh Cha
Khi nghe và đọc thấy rằng Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên trích dẫn cuốn sách này “là một sự ngạc nhiên lớn. Chúng tôi không thể ngờ được, tôi thậm chí còn không biết làm thế nào Đức Thánh Cha có được cuốn sách. Tôi đã khó tin nó. Tôi luôn ngạc nhiên”. Khi Đức Thánh Cha dùng “Hermanito” để nói về thảm kịch của những người di cư, của Tunisia, của Libya, hay thậm chí của chính sách đối ngoại của Châu Âu vốn có xu hướng muốn hạn chế di cư, thì “không còn là tôi đã nói. Thực tế là Đức Giáo hoàng có một tiếng vang hoàn toàn khác, và mọi thứ được hiểu theo một cách khác”. “Dù thế nào đi nữa, tôi xin cảm ơn”, Amets kết luận, vui mừng nhận thấy rằng cuốn sách nhỏ bé có lẽ có thể góp phần “đánh thức lương tâm”.
Tý Linh
(theo Jean Charles Putzolu, Vatican News)
2023
Tuyên xưng niềm tin
27.8 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Is 22:19-23; Tv 138:1-2,2-3,6-8; Rm 11:33-36; Mt 16:13-20
Tuyên xưng niềm tin
Nhìn vào bối cảnh dân Israel thời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy toàn dân đang trông chờ một Đấng Mêsia. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện với những lời giảng dạy mới mẻ, đầy quyền năng, thì dân chúng lầm tưởng Người là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hoặc là một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Chúa Giêsu không quan tâm đến việc dân chúng nghĩ gì về mình mà chỉ nhằm đến các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô liền tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời đúng như Chúa Giêsu muốn, nhưng Ngài cho biết, không phải tự ông biết điều đó, mà do Chúa Cha mạc khải.
Tin Mừng cho chúng ta xác tín sâu xa về Giáo Hội trần thế mà Chúa Giêsu đã thiết lập, là con đường đưa tới Nước Trời. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô mà không cần đến Giáo Hội là liều lĩnh, đưa tới nguy cơ lần đường lạc lối. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải cho chúng ta.
Dư luận nói Thầy là ai ? Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? Chắc chắn không ai nghĩ là Thầy Giêsu có ý thăm dò đám đông để biết Thầy nổi tiếng tới đâu, hoặc có ý đong đo sự nhạy bén nơi các học trò. Đúng, Thầy muốn nói với muôn thế hệ về giá trị tình yêu, Thiên Chúa sẽ thông ban cho nhân loại qua các môn đệ của Ngài. Ở đời người ta cho rằng, thành công không hệ tại giầu sang địa vị, cũng không phải có con cháu xinh đẹp, tài giỏi, chung chung, họ vẫn quan niệm thành công là phải có bầu khí bình an, niềm vui, các thành viên gia đình đều chu toàn được bổn phận và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ, cho con cái loài người xác tín, chính Phêrô đã phản ứng nhanh nhất trong số các học trò, không phải vì Phêrô tài giỏi đức độ, mà do ông được yêu thương nhiều hơn.
Câu trả lời vô thưởng vô phạt: hình như, có thể, có lẽ, bao giờ cũng chỉ là câu đối đáp xã giao, vậy vậy thôi. Nói được những lời ngọt ngào yêu thương trên môi miệng, đã là thành công đối với con người mang tính giới hạn rồi. Chúa Giêsu ngay từ ban đầu, Ngài đã muốn các môn đệ theo Chúa phải chứng minh bằng sức mạnh của ý chí, của con tim, đặc biệt phải ý thức đó là tình yêu của Chúa Cha soi sáng. Đọc lại diễn tiến cuộc đối thoại giữa tình Thầy trò Giêsu, thiết tưởng các học trò bị bất ngờ với câu hỏi khó: “phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Xem ra, Thầy Giêsu phải ngạc nhiên vì một ngư phủ mang tên Phêrô đã phản ứng thật chính xác: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ở đời, người ta chỉ vội vàng không để vụt mất cơ hội làm giầu, không bỏ lỡ cơ hội để được nổi tiếng: phúc bất trùng lai, dịp may, điều thuận lợi, đến rất ít, do đó phải biết tận dụng. Chúa Giêsu thì không trì hoãn niềm vui cho Phêrô, cho các học trò: “hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Sau khi công bố về ơn ban đặc biệt mà Phêrô đã nhận biết Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Thầy Giêsu đã lập Hội Thánh trên nền đá Phêrô, trên sự bé nhỏ hèn mọn, khác với sự thông thái khôn ngoan như các luật sĩ biệt phái. Ngay tự ban đầu, chắc chắn Phêrô đã mập mờ, không hiểu được hết giá trị của tình yêu và trách nhiệm với sứ vụ vừa được trao ban. Phêrô đã lấy tư cách vị trí đứng đầu trong nhóm 12, trấn an, can ngăn Thầy, và Thầy Giêsu đã quở trách, nhắc ông: Phêrô, hãy đi đằng sau Thầy. Dao sắc không gọt được chuôi ; áo mặc sao qua khỏi đầu ?
Mỗi ngày, từng người trong chúng ta vẫn đang tuyên xưng và xác tín niềm tin vào Thiên Chúa bằng việc tham dự Thánh lễ, chu toàn công việc hằng ngày trong tình bác ái, cùng yêu thương giúp đỡ mọi người. Nhưng đôi khi, chúng ta vẫn có những giây phút khước từ Thiên Chúa, vì chúng ta là con người thật và đầy yếu đuối trước mọi cám dỗ. Dầu vậy, mỗi ngày, Đức Giêsu vẫn yêu thương và mời gọi chúng ta hãy sống lời tuyên xưng của mình qua việc ăn năn sám hối mỗi khi lỡ lầm. Chính khi chúng ta nhận ra lỗi lầm của bản thân, biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và bắt đầu lại từ đầu, đó là sức mạnh cho chúng ta vững tin và nói được Thiên Chúa là ai đối với mình.
Thiên Chúa là ai mà tôi nên tin? Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ, nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa,” nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – ngôn ngữ @ gọi là bó tay chấm com. Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì chỉ gặp ngõ cụt, những người tin có kiếp luân hồi cũng bế tắc.
Thật vậy, một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế mà rồi cũng đành phải “bó tay” trước Thiên Chúa để trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh.
Khi ở trong chốn lao tù, ngôn sứ Gioan đã sai đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11, 4-6) Dấu chỉ sự thật mãi mãi bất biến, nếu không nhận ra bởi vì người ta cố ý nhắm mắt, cố chấp.
Khi xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng hỏi Ngài: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63; Mc 14, 61) Chúa Giêsu cũng không xác định mà lại nói: “Chính ngài vừa nói.” (Mt 26, 64) Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời.” (Lc 22, 67-68). Có thể chính chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc đặt vấn đề như vậy. Sự hoài nghi rất tinh vi nên không dễ nhận ra.
Đối với ta, Đức Kitô có đang sống hay không? Lặng nghe lời tuyên xưng của Tông đồ Phêrô, lòng ta vọng về câu hỏi ấy. Đức Kitô vẫn đang sống bên ta, ngay trong lòng ta, Người đã và đang dẫn ta bước đi trên hành trình cuộc đời. Có những lúc gặp sóng gió, thuyền đời ta lênh đênh mà chẳng thấy Người ở đâu, nhưng Người vẫn sống, bởi Người là Đấng Hằng Sống, Người là Thiên Chúa của tình yêu (1 Ga 4, 8).
2023
Chúa Nhật Tuần XXI – Mùa Thường Niên
Chúa Nhật Tuần XXI – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 85,1-3
Lạy Chúa, xin lắng tai và đáp lời con.
Xin cứu độ tôi tớ Ngài đây
hằng tin tưởng nơi Ngài.
Chính Ngài là Thiên Chúa của con.
Xin dủ lòng thương con, lạy Chúa,
vì con kêu cầu Chúa suốt ngày.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chúng con nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Chúng con cầu xin…
Bài đọc 1
Is 22,19-23
Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
19 Đức Chúa phán những lời này với ông Sép-na, tể tướng triều đình :
“Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ,
Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.
20Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta
là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu.
21Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó,
cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó,
quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó,
nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa.
22Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó.
Nó mở ra thì không ai đóng được,
nó đóng lại thì không ai mở được.
23Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột,
nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.”
Đáp ca
Tv 137,1-2a.2bc-3.6 và 8bc (Đ. c. 8bc)
Đ.Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
1Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ,
Ngài đã nghe lời miệng con xin.
Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa,2ahướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ.
Đ.Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
2bcXin cảm tạ danh Chúa,
vì Ngài vẫn thành tín yêu thương,
đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài
trên tất cả mọi sự.3Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại,
đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn.
Đ.Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
6Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn ;
đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết.8bcLạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
Đ.Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
Bài đọc 2
Rm 11,33-36
Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
33 Thưa anh em, sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào ! Quyết định của Người, ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được ! 34 Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ? 35 Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau ? 36 Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời ! A-men.
Tung hô Tin Mừng
Mt 16,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mt 16,13-20
Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
13 Khi ấy, Đức Giê-su đến miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng : “Người ta nói Con Người là ai ?” 14 Các ông thưa : “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, người khác lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” 15 Đức Giê-su lại hỏi : “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?” 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17 Đức Giê-su nói với ông : “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời : dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” 20 Rồi Người cấm các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa nhân từ, Chúa đã dùng hiến lễ duy nhất của Ðức Kitô để quy tụ một đoàn con đông đảo; xin thương tình ban cho Giáo Hội ơn hiệp nhất và bình an. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì chính Người, khi sinh ra đã đổi mới con người cũ, khi chịu khổ hình, đã tẩy xoá tội lỗi chúng con, khi từ cõi chết sống lại, đã khai lối vào chốn trường sinh, và khi lên cùng Chúa là Cha, Người đã mở cửa Nước Trời.
Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con hát bài ca chúc tụng Chúa và không ngừng tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 103,13-14
Lạy Chúa, đất chứa chan phước lộc của Ngài,
từ ruộng đất, Ngài sản sinh cơm bánh,
và rượu ngon làm phấn khởi lòng người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, xin cho chúng con hưởng trọn vẹn ơn cứu chuộc Chúa đã thương ban, để chúng con ngày thêm mạnh sức và hăng say nhiệt thành. Chúng con cầu xin…