2023
“Hermanito”, cuốn sách về cuộc phiêu lưu của Ibrahima Balde, thường được Đức Phanxicô trích dẫn
“Cuốn Hermnanito (Em Trai), các bạn hãy đọc nó và các bạn sẽ thấy bi kịch của những người di cư”. Trên chuyến bay đưa ngài trở về từ JMJ ở Lisbon vào Chúa Nhật ngày 6 tháng 8 năm 2023, Đức Phanxicô một lần nữa trích dẫn cuốn sách nhỏ này được xuất bản vào năm 2021 bởi Amets Arzallus, người đã kể lại cuộc phiêu lưu kéo dài ba năm của Ibrahima Balde giữa đất nước của anh, là Guinea, và Tây Ban Nha.
Amets Arzallus và Ibrahima Balde
Được Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên trích dẫn kể từ năm 2001, “Hermanito” là một cuốn sách kể về cuộc phiêu lưu của một cậu bé người Guinea rời quê hương hơn tám năm trước. Ibrahima Balde là con cả trong gia đình. Kể từ khi cha qua đời, anh cảm thấy gánh nặng trách nhiệm gia đình đè nặng lên vai mình, đặc biệt là với em trai, người đã ra đi hướng đến Libya trước đó với ý định vượt Địa Trung Hải và đến châu Âu. Để hoàn thành sứ mệnh mà cha mình giao phó, làm hết sức có thể để đảm bảo việc học hành của em trai mình, đến lượt mình Ibrahima ra đi, không phải để di cư mà để tìm người em út trước khi nó bắt tay vào cuộc vượt biển. Cuộc hành trình về phía bắc đưa anh băng qua Mali, Algeria, đến Libya, mà không tìm thấy dấu vết nhỏ nhất của em trai mình. Ibrahima quyết định tiếp tục hành trình đến Tây Ban Nha, nơi anh đến vào năm 2018, ba năm sau khi rời Guinea. Sau đó, anh để tang em trai mình, và trở nên ám ảnh bởi mặc cảm tội lỗi liên quan đến sự thất bại trong việc tìm kiếm của mình.
Bốn năm lẩn trốn ở Tây Ban Nha
Ibrahima hiện làm việc trong một gara ở Madrid. Anh là thợ máy và có hợp đồng hợp lệ. Trong 4 năm, đơn xin tị nạn của anh đã bị từ chối. Do đó, anh sống bất hợp pháp, và được hỗ trợ và giúp đỡ bởi Amets Arzallus. Ngoài công việc là một nhà báo ở xứ Basque, nhà báo này còn tự nguyện giúp đỡ những người di. Amets giúp anh ta lập hồ sơ. Để làm điều này, hai người quyết định viết ra tất cả các giai đoạn trong cuộc phiêu lưu của Ibrahima với mục đích tạo thuận lợi cho việc tường thuật cuộc hành trình trước chính quyền Tây Ban Nha. Vô ích, vì đơn xin tị nạn đầu tiên thất bại. Bằng sự kiên trì, chính quyền Tây Ban Nha cuối cùng đã cấp cho anh giấy phép cư trú một năm và sẽ hết hạn vào tháng 4 năm 2024.
Câu chuyện của Ibrahima, lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Basque, sau đó bằng tiếng Tây Ban Nha và được dịch ra nhiều thứ tiếng kể từ đó, thật đáng buồn giống với câu chuyện của rất nhiều người di cư khác.
Amets và Ibrahima hiện sống cách nhau 400 km và là bạn rất thân. Họ gọi cho nhau nhiều lần một tuần. Câu chuyện này đã thay đổi cuộc đời của Amets: “Tôi nghĩ rằng mỗi người đều muốn sống và lên kế hoạch cho cuộc sống của mình ở quê hương, nơi gia đình họ sinh sống”, nhà báo xứ Basque nói, “nhưng khi biết trước những bất hạnh và tình hình kinh tế hay xã hội nơi những quốc gia như Guinea, người ta nhận ra rằng nhiều người buộc phải lên kế hoạch cho tương lai của họ ở nơi khác, bằng cách cố gắng đến châu Âu“. Amets nói rõ : Ibrahima đặc biệt thuộc về diện này. Khi họ gặp nhau ở Madrid, Ibrahima ngay lập tức nhấn mạnh rằng mục tiêu của anh không phải là đến châu Âu. “Điểm xuất phát này đã phần nào thay đổi định kiến, và nguyên mẫu của người di cư mà tôi có trong đầu”.
Sự ra đời của cuốn sách
Amets thừa nhận: “Tôi thực sự không biết làm thế nào chúng tôi đi từ những ghi chú đến ý tưởng của cuốn sách”, và nói thêm: “Chúng tôi đã dành nhiều tháng ở đó”. Ban đầu, các ghi chú được thu thập để lập hồ sơ xin tị nạn của Ibrahima đã đòi hỏi một buổi sáng đối thoại. “Ibrahima không biết đọc biết viết khi đến Tây Ban Nha”, anh ấy phải được giúp đỡ, nhưng anh ấy có một khả năng đáng kinh ngạc để diễn đạt những gì anh ấy đã sống trong gần ba năm lưu lạc kể từ khi rời Guinea. “Khi chúng tôi yêu cầu một người di cư kể cho chúng tôi về những quốc gia mà anh ta đã đi qua trong hai hoặc ba năm, nơi anh ta đã trải qua rất nhiều sự tàn ác, rất nhiều bạo lực, thì điều đó không dễ dàng, cần phải có thời gian”. Amets và Ibrahima thực hiện một số cuộc hẹn để từng chút một xem lại số km đã trải qua. Amets nói tiếp : “Một mối quan hệ đã được tạo ra”. “Chúng tôi trở thành bạn bè và tôi phát hiện ra một câu chuyện mà tôi không ngờ tới”. Amets chưa bao giờ viết một cuốn sách nào trước “Hermanito”; hoạt động của anh ấy với tư cách là một nhà báo cho đến nay chỉ giới hạn anh ấy viết các bài báo và phóng sự. Nhưng ý tưởng rằng những ghi chép về cuộc phiêu lưu của Ibrahima sẽ rơi vào tay một viên cảnh sát tại đồn cảnh sát dưới một đống đơn xin tị nạn khiến anh không thể chịu nổi. “Ibrahima đã tin tưởng tôi, tôi đã viết một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Basque, tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ làm việc của tôi”.
Lương tâm mê ngủ
“Hàng ngày, trên đài, trên báo, chúng tôi nghe và đọc những bi kịch,” Amets Arzallus thở dài, và nói tiếp: “Tôi nghĩ chúng tôi đã được giáo dục để có một khoảng cách nào đó đối với những tin tức vô nhân đạo và khó tiêu hóa này”. Nhà báo và bây giờ là nhà văn cảm thấy bị mê hoặc và gần như mất nhân tính, buộc phải giữ khoảng cách với thực tế. Anh nói: “Tôi nghĩ cần phải tiến lại gần hơn một chút, cần phải cố gắng trở nên người hơn và học lại cách cảm nhận nỗi đau” của người khác. Cuộc trò chuyện tiếp tục và vạch lại những tin tức đầy kịch tính về những người di cư trên bờ biển Lampedusa, quần đảo Canary: “có bao nhiêu thảm kịch, bao nhiêu bi kịch, bao nhiêu vụ đắm tàu?“
Amets đưa ra lời chỉ trích gay gắt đối với chính sách di cư của phương Tây và đặc biệt là của châu Âu: “Có một trách nhiệm trực tiếp […] Chính sách di cư này, quá bạo lực và vô nhân đạo, được thể hiện bằng cách để mọi thứ ở một khoảng cách nào đó, để không quá làm xáo trộn lương tâm con người […]. Chúng ta phải ngừng nhìn vào thực tế như thể nó là hư cấu bởi vì nó là một thực tế khắc nghiệt, đơn thuần và khắc nghiệt, rất bạo lực. Chúng ta phải xoay xở để thay đổi thế giới, điều đó khả thi hơn”.
“Hermanito” và Đức Thánh Cha
Khi nghe và đọc thấy rằng Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên trích dẫn cuốn sách này “là một sự ngạc nhiên lớn. Chúng tôi không thể ngờ được, tôi thậm chí còn không biết làm thế nào Đức Thánh Cha có được cuốn sách. Tôi đã khó tin nó. Tôi luôn ngạc nhiên”. Khi Đức Thánh Cha dùng “Hermanito” để nói về thảm kịch của những người di cư, của Tunisia, của Libya, hay thậm chí của chính sách đối ngoại của Châu Âu vốn có xu hướng muốn hạn chế di cư, thì “không còn là tôi đã nói. Thực tế là Đức Giáo hoàng có một tiếng vang hoàn toàn khác, và mọi thứ được hiểu theo một cách khác”. “Dù thế nào đi nữa, tôi xin cảm ơn”, Amets kết luận, vui mừng nhận thấy rằng cuốn sách nhỏ bé có lẽ có thể góp phần “đánh thức lương tâm”.
Tý Linh
(theo Jean Charles Putzolu, Vatican News)
2023
Tuyên xưng niềm tin
27.8 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Is 22:19-23; Tv 138:1-2,2-3,6-8; Rm 11:33-36; Mt 16:13-20
Tuyên xưng niềm tin
Nhìn vào bối cảnh dân Israel thời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy toàn dân đang trông chờ một Đấng Mêsia. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện với những lời giảng dạy mới mẻ, đầy quyền năng, thì dân chúng lầm tưởng Người là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hoặc là một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Chúa Giêsu không quan tâm đến việc dân chúng nghĩ gì về mình mà chỉ nhằm đến các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô liền tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời đúng như Chúa Giêsu muốn, nhưng Ngài cho biết, không phải tự ông biết điều đó, mà do Chúa Cha mạc khải.
Tin Mừng cho chúng ta xác tín sâu xa về Giáo Hội trần thế mà Chúa Giêsu đã thiết lập, là con đường đưa tới Nước Trời. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô mà không cần đến Giáo Hội là liều lĩnh, đưa tới nguy cơ lần đường lạc lối. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải cho chúng ta.
Dư luận nói Thầy là ai ? Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? Chắc chắn không ai nghĩ là Thầy Giêsu có ý thăm dò đám đông để biết Thầy nổi tiếng tới đâu, hoặc có ý đong đo sự nhạy bén nơi các học trò. Đúng, Thầy muốn nói với muôn thế hệ về giá trị tình yêu, Thiên Chúa sẽ thông ban cho nhân loại qua các môn đệ của Ngài. Ở đời người ta cho rằng, thành công không hệ tại giầu sang địa vị, cũng không phải có con cháu xinh đẹp, tài giỏi, chung chung, họ vẫn quan niệm thành công là phải có bầu khí bình an, niềm vui, các thành viên gia đình đều chu toàn được bổn phận và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ, cho con cái loài người xác tín, chính Phêrô đã phản ứng nhanh nhất trong số các học trò, không phải vì Phêrô tài giỏi đức độ, mà do ông được yêu thương nhiều hơn.
Câu trả lời vô thưởng vô phạt: hình như, có thể, có lẽ, bao giờ cũng chỉ là câu đối đáp xã giao, vậy vậy thôi. Nói được những lời ngọt ngào yêu thương trên môi miệng, đã là thành công đối với con người mang tính giới hạn rồi. Chúa Giêsu ngay từ ban đầu, Ngài đã muốn các môn đệ theo Chúa phải chứng minh bằng sức mạnh của ý chí, của con tim, đặc biệt phải ý thức đó là tình yêu của Chúa Cha soi sáng. Đọc lại diễn tiến cuộc đối thoại giữa tình Thầy trò Giêsu, thiết tưởng các học trò bị bất ngờ với câu hỏi khó: “phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Xem ra, Thầy Giêsu phải ngạc nhiên vì một ngư phủ mang tên Phêrô đã phản ứng thật chính xác: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ở đời, người ta chỉ vội vàng không để vụt mất cơ hội làm giầu, không bỏ lỡ cơ hội để được nổi tiếng: phúc bất trùng lai, dịp may, điều thuận lợi, đến rất ít, do đó phải biết tận dụng. Chúa Giêsu thì không trì hoãn niềm vui cho Phêrô, cho các học trò: “hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Sau khi công bố về ơn ban đặc biệt mà Phêrô đã nhận biết Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Thầy Giêsu đã lập Hội Thánh trên nền đá Phêrô, trên sự bé nhỏ hèn mọn, khác với sự thông thái khôn ngoan như các luật sĩ biệt phái. Ngay tự ban đầu, chắc chắn Phêrô đã mập mờ, không hiểu được hết giá trị của tình yêu và trách nhiệm với sứ vụ vừa được trao ban. Phêrô đã lấy tư cách vị trí đứng đầu trong nhóm 12, trấn an, can ngăn Thầy, và Thầy Giêsu đã quở trách, nhắc ông: Phêrô, hãy đi đằng sau Thầy. Dao sắc không gọt được chuôi ; áo mặc sao qua khỏi đầu ?
Mỗi ngày, từng người trong chúng ta vẫn đang tuyên xưng và xác tín niềm tin vào Thiên Chúa bằng việc tham dự Thánh lễ, chu toàn công việc hằng ngày trong tình bác ái, cùng yêu thương giúp đỡ mọi người. Nhưng đôi khi, chúng ta vẫn có những giây phút khước từ Thiên Chúa, vì chúng ta là con người thật và đầy yếu đuối trước mọi cám dỗ. Dầu vậy, mỗi ngày, Đức Giêsu vẫn yêu thương và mời gọi chúng ta hãy sống lời tuyên xưng của mình qua việc ăn năn sám hối mỗi khi lỡ lầm. Chính khi chúng ta nhận ra lỗi lầm của bản thân, biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và bắt đầu lại từ đầu, đó là sức mạnh cho chúng ta vững tin và nói được Thiên Chúa là ai đối với mình.
Thiên Chúa là ai mà tôi nên tin? Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ, nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa,” nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – ngôn ngữ @ gọi là bó tay chấm com. Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì chỉ gặp ngõ cụt, những người tin có kiếp luân hồi cũng bế tắc.
Thật vậy, một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế mà rồi cũng đành phải “bó tay” trước Thiên Chúa để trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh.
Khi ở trong chốn lao tù, ngôn sứ Gioan đã sai đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11, 4-6) Dấu chỉ sự thật mãi mãi bất biến, nếu không nhận ra bởi vì người ta cố ý nhắm mắt, cố chấp.
Khi xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng hỏi Ngài: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63; Mc 14, 61) Chúa Giêsu cũng không xác định mà lại nói: “Chính ngài vừa nói.” (Mt 26, 64) Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời.” (Lc 22, 67-68). Có thể chính chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc đặt vấn đề như vậy. Sự hoài nghi rất tinh vi nên không dễ nhận ra.
Đối với ta, Đức Kitô có đang sống hay không? Lặng nghe lời tuyên xưng của Tông đồ Phêrô, lòng ta vọng về câu hỏi ấy. Đức Kitô vẫn đang sống bên ta, ngay trong lòng ta, Người đã và đang dẫn ta bước đi trên hành trình cuộc đời. Có những lúc gặp sóng gió, thuyền đời ta lênh đênh mà chẳng thấy Người ở đâu, nhưng Người vẫn sống, bởi Người là Đấng Hằng Sống, Người là Thiên Chúa của tình yêu (1 Ga 4, 8).
2023
Chúa Nhật Tuần XXI – Mùa Thường Niên
Chúa Nhật Tuần XXI – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 85,1-3
Lạy Chúa, xin lắng tai và đáp lời con.
Xin cứu độ tôi tớ Ngài đây
hằng tin tưởng nơi Ngài.
Chính Ngài là Thiên Chúa của con.
Xin dủ lòng thương con, lạy Chúa,
vì con kêu cầu Chúa suốt ngày.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chúng con nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Chúng con cầu xin…
Bài đọc 1
Is 22,19-23
Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
19 Đức Chúa phán những lời này với ông Sép-na, tể tướng triều đình :
“Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ,
Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.
20Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta
là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu.
21Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó,
cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó,
quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó,
nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa.
22Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó.
Nó mở ra thì không ai đóng được,
nó đóng lại thì không ai mở được.
23Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột,
nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.”
Đáp ca
Tv 137,1-2a.2bc-3.6 và 8bc (Đ. c. 8bc)
Đ.Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
1Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ,
Ngài đã nghe lời miệng con xin.
Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa,2ahướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ.
Đ.Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
2bcXin cảm tạ danh Chúa,
vì Ngài vẫn thành tín yêu thương,
đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài
trên tất cả mọi sự.3Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại,
đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn.
Đ.Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
6Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn ;
đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết.8bcLạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
Đ.Lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.
Bài đọc 2
Rm 11,33-36
Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
33 Thưa anh em, sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào ! Quyết định của Người, ai dò cho thấu ! Đường lối của Người, ai theo dõi được ! 34 Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa ? Ai đã làm cố vấn cho Người ? 35 Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau ? 36 Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời ! A-men.
Tung hô Tin Mừng
Mt 16,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mt 16,13-20
Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
13 Khi ấy, Đức Giê-su đến miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng : “Người ta nói Con Người là ai ?” 14 Các ông thưa : “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, người khác lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” 15 Đức Giê-su lại hỏi : “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?” 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17 Đức Giê-su nói với ông : “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời : dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” 20 Rồi Người cấm các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa nhân từ, Chúa đã dùng hiến lễ duy nhất của Ðức Kitô để quy tụ một đoàn con đông đảo; xin thương tình ban cho Giáo Hội ơn hiệp nhất và bình an. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì chính Người, khi sinh ra đã đổi mới con người cũ, khi chịu khổ hình, đã tẩy xoá tội lỗi chúng con, khi từ cõi chết sống lại, đã khai lối vào chốn trường sinh, và khi lên cùng Chúa là Cha, Người đã mở cửa Nước Trời.
Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con hát bài ca chúc tụng Chúa và không ngừng tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 103,13-14
Lạy Chúa, đất chứa chan phước lộc của Ngài,
từ ruộng đất, Ngài sản sinh cơm bánh,
và rượu ngon làm phấn khởi lòng người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, xin cho chúng con hưởng trọn vẹn ơn cứu chuộc Chúa đã thương ban, để chúng con ngày thêm mạnh sức và hăng say nhiệt thành. Chúng con cầu xin…
2023
Khiêm hạ
26.8 Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mươi Mùa Quanh Năm
R 2:1-3,8-11; Tv 128:1-2,3,4,5; Mt 23:1-12
Khiêm hạ
Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người luật sĩ và biệt phải giả hình. Họ là những người nói nhiều làm ít, mồm miệng đỡ chân tay, nói hay nhưng làm dở. Họ lo tô vẽ dáng bề ngoài cho đạo đức mẫu mực nhưng lòng họ thì hám danh, phô trương và tham lam. Chúa phân biệt rõ hai phương diện: những gì họ nói thì đều là nói Lời Chúa, nên hãy nghe theo; nhưng những việc họ làm thì mâu thuẫn với những lời họ giảng dạy, cho nên đừng bắt chước.
Luật sĩ và biệt phái tượng trưng cho quyền bính trong dân. Họ có bổn phận phải giảng dạy dân chúng và người dân có nghĩa vụ tuân giữ những lời họ giảng dạy. Thế nhưng nhiều lần họ đã bị Đức Giêsu khiển trách, chỉ vì họ tự cho mình là tài giỏi, đạo đức, từ đó họ phê bình chỉ trích lên án người khác; làm gì họ cũng muốn cho người khác thấy và khen ngợi; họ ham muốn danh vọng chức quyền, luôn luôn lên mặt dạy đời, nhất là họ nói mà không làm.
Tuy thế, Chúa vẫn khuyên chúng ta tôn trọng họ vì họ có nghĩa vụ giảng dạy, và hãy thực hiện những lời họ giảng dạy. Vì thế Chúa phán: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ!”
“Các ngươi chất lên vai kẻ khác những gánh nặng…”
Thật vậy, nhiều tiến sĩ luật Do thái ưa nói về luật cách tỉ mỉ, nhưng lời nói của họ không đi đôi với việc làm, nói một đàng làm một nẻo, lo tô vẽ cho cái bên ngoài nhằm che đậy sự xấu xa lợi dụng trong lòng họ. Họ dạy luật thì để cho dân giữ, còn chính họ lại không làm gương, họ dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Phải chăng chỉ những luật sĩ và biệt phái thời xưa mới kiêu căng giả hình ? Phải chăng thời nay không còn hạng người đó nữa ? Nhan nhản trước mắt chúng ta: biết bao người ngoài miệng rêu rao là vị nhân vị nghĩa, mà kỳ thực, họ tham lam, ích kỷ, tự tôn, lợi dụng thế lực để bóc lột người khác; họ lường gạt xảo trá không những đối với con người mà cả với Chúa nữa.
Trong vô số những biểu hiện của căn bệnh sống theo vẻ bề ngoài, Đức Giê-su đặc biệt chú ý đến cách xưng hô; và dường như Ngài đặt những cách xưng hô bình thường của chúng ta thành vấn đề, vì chúng ta vẫn gọi người khác và người khác cũng vẫn gọi chúng ta là “thầy”, là “bà thầy” là “cha”, là “đức cha”, là “bề trên thứ cấp” hay “bề trên thượng cấp”… ; và những cách xưng hô tương đương đối với phái nữ.
Bởi lẽ, cách xưng hô diễn tả tương quan và những cách xưng hô như thế rất dễ làm cho tương quan của chúng ta trở thành lệch lạc, nghĩa là chúng ta có thể tự biến mình hay người khác thành thần linh, thành một thứ tuyệt đối hay không thể không có, thành trung tâm, thành mẫu mực, thành điểm qui chiếu mà mọi người phải hướng về. Bệnh vẻ bề ngoài ở dạng này có thể nó là nghiêm trọng nhất.
Như thế, rốt cuộc Chúa Giêsu không muốn chúng ta thay đổi cách xưng hô, cho dù đã có những thay đổi thực sự về cách xưng hô theo hướng tương quan huynh đệ của Tin Mừng, nhất là sau Công Đồng Vatinanô II, và chắc chắn đã có ảnh hưởng trên cách chúng ta tương quan với nhau.
Bởi vì, xét cho cùng, cách xưng hô vẫn dừng lại ở bên ngoài. Nhưng, sâu xa hơn nhiều vẻ bề ngoài, Đức Giêsu mời gọi chúng ta thay đổi cách chúng ta sống với nhau, ứng xử với nhau: dù chúng ta là ai, có chức vụ gì hay ở độ tuổi nào, tất cả chúng ta đều có một Cha, một vị Thầy, đồng thời là vị Lãnh Đạo, và do đó, chúng ta là anh chị em của nhau trong Chúa. Đó mới là Sự Thật và chúng ta được mời gọi sống theo Sự Thật này, theo khuôn mẫu của chính Chúa Giê-su.
Cuộc sống hôm nay, người người phải đương đầu với một thách đố và hoang mang rất lớn là “đồ giả”. Nhiều sự vật, với một cái võ bọc thật đẹp đẽ bắt mắt che đậy cái không thật chất bên trong của rất nhiều sự vật: bằng giả, thuốc giả, thức ăn giả, người giả…Đời sống nội tâm cũng thế, tâm hồn trống rỗng, không có chiều sâu, kinh nghiệm sống thiêng liêng hời hợt, người ta thường tìm cách khỏa lấp những yếu kém nội tâm của mình bằng những lối sống giả hình, bằng những lời nói khoác lác phô trương. Thường vì thiếu tự tin và không đủ khẳng định thực chất bên trong, người ta thường có khuynh hướng tạo một lớp võ đạo mạo bên ngoài:“ làm cốt để cho người ta thấy, nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, thích ngồi chỗ nhất ưa bái chào…”
Sống giả hình là tự đánh mất dần nhân cách là mình, và sống vong thân vì không tự tin thể hiện là chính mình, mà chỉ sống gượng và che đậy chính mình và như thế đánh mất niềm tin, sự quý trọng của mọi người dành cho mình. Sống giả hình không chỉ làm ảnh hưởng đến cá nhân, mà còn làm lẫn lộn những giá trị đạo đức, khiến cho thật giả bất phân, làm suy đồi văn hóa xã hội và gây nhiều hậu quả khôn lường khác.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người đặc biệt là hàng tư tế. Hàng tư tế là ai? là những lý thuyết gia về Thiên Chúa hay là những người sống kinh nghiệm của Thiên Chúa nếu không chỉ là “thùng rỗng kêu to”! là những người được trao quyền bính, liệu rằng quyền bính được trao ban là để phục vụ hay để người khác phục vụ mình?