2023
Bài phát biểu của Đức Thánh Cha tại buổi tưởng niệm các thủy thủ và người di cư mất tích trên biển
Anh chị em thân mến,
Cám ơn anh chị em vì đã hiện diện nơi đây. Trước mặt chúng ta là biển cả, nguồn sống nhưng nơi đây lại gợi lên bi kịch đắm tàu gây chết người. Chúng ta quy tụ để tưởng nhớ những người đã không đến được, những người không được cứu. Chúng ta đừng quen coi những vụ đắm tàu là những câu chuyện thời sự và những cái chết trên biển là những con số: không, đó là những tên tuổi, là những khuôn mặt và những câu chuyện, là những cuộc đời tan vỡ và những giấc mơ không thực hiện được. Tôi nghĩ đến nhiều anh chị em chết đuối trong sợ hãi, cùng với niềm hy vọng đang mang trong lòng. Trước một thảm kịch như thế, không cần lời nói nhưng cần hành động. Tuy nhiên, trước hết chúng ta cần thể hiện lòng nhân đạo: thinh lặng, nước mắt, lòng trắc ẩn và cầu nguyện. Giờ đây, xin anh chị em dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ những anh chị em này của chúng ta: chúng ta hãy để cho lòng mình được đánh động trước những bi kịch của họ.
Có rất nhiều người phải chạy trốn khỏi các cuộc xung đột, nghèo đói và thảm họa môi trường, trong khi tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn, giữa những ngọn sóng Địa Trung Hải, họ bị từ chối dứt khoát. Và thế là vùng biển xinh đẹp này đã trở thành một nghĩa trang khổng lồ, nhiều anh chị em bị tước đoạt quyền có một ngôi mộ. Trong lời chứng của cuốn sách “Fratellino”, nhân vật chính, khi kết thúc cuộc hành trình đầy khó khăn đưa anh từ Cộng hòa Guinea đến châu Âu, đã nói: “Khi ở trên biển, bạn đang ở ngã ba đường. Một bên là sự sống, một bên là cái chết. Không có lựa chọn nào khác” (A. Arzallus Antia – I. Balde, Fratellino, Milano 2021, 107). Anh chị em thân mến, trước mắt chúng ta cũng có một ngã ba đường: một là tình huynh đệ, mang lại những điều tốt đẹp cho cộng đồng nhân loại; và bên kia là sự thờ ơ, làm đẫm máu Địa Trung Hải. Chúng ta đang ở ngã ba của nền văn minh.
Chúng ta không thể cam chịu nhìn con người bị đối xử như những hàng hoá để trao đổi, bị cầm tù và tra tấn một cách tàn bạo; chúng ta không còn có thể chứng kiến những thảm kịch đắm tàu, do nạn buôn người đầy hận thù và sự thờ ơ cuồng tín. Những người có nguy cơ bị chết đuối khi bị bỏ rơi trên sóng phải được cứu. Đó là nghĩa vụ của nhân loại, đó là nghĩa vụ của nền văn minh!
Trời Cao sẽ chúc lành cho chúng ta, nếu trên đất liền và trên biển chúng ta biết chăm sóc những người yếu đuối nhất, nếu chúng ta biết vượt qua tình trạng tê liệt của sợ hãi và sự thờ ơ đang kết án tử người khác bằng bao tay nhung. Thật vậy, Thiên Chúa đã chúc phúc cho tổ phụ chúng ta là Abraham. Ông được kêu gọi rời bỏ quê hương: “Ông ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11, 8). Là khách và là người hành hương nơi đất khách, ông đã chào đón những lữ khách đi ngang qua lều của ông (St 18): “bị lưu lạc khỏi quê hương, vô gia cư, chính Abraham là nhà và quê hương của tất cả mọi người” (S. Pietro Crisologo, Discorsi, 121). Và “như một phần thưởng cho lòng hiếu khách, ông đã có được dòng dõi con cháu” (S. Ambrogio di Milano, De officiis, II, 21). Vì vậy, cội rễ của ba tôn giáo độc thần Địa Trung Hải là lòng hiếu khách, tình yêu thương đối với những người xa lạ nhân danh Thiên Chúa. Và điều này rất quan trọng, giống như tổ phụ Abraham, chúng ta mơ về một tương lai thịnh vượng. Chúng ta đừng quên điệp khúc của Kinh Thánh: “trẻ mồ côi, góa phụ và người di cư”. Trẻ mồ côi, góa phụ và người xa lạ: đây là những người Chúa truyền lệnh cho chúng ta bảo vệ.
Vì thế, là những người tin, chúng ta phải là gương mẫu trong việc chào đón nhau và trong tình huynh đệ. Tương quan giữa các nhóm tôn giáo thường không dễ dàng, với bệnh dịch tư tưởng cực đoan đang ăn mòn đời sống thực tế của các cộng đoàn. Nhưng về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại điều một người của Thiên Chúa sống cách đây không xa đã viết: “Đừng ai giữ trong lòng cảm giác căm ghét người lân cận, nhưng hãy yêu thương, bởi vì ai ghét dù chỉ một người cũng sẽ không có bình an với Chúa. Thiên Chúa không lắng nghe lời cầu nguyện của người này chừng nào họ còn nuôi sự tức giận trong lòng” (S. Cesario di Arles, Discorsi, XIV, 2).
Ngày nay, Marseille cũng vậy, nơi có đặc điểm đa nguyên tôn giáo phong phú, cũng đang phải đối diện trước một ngã ba đường: gặp gỡ hoặc xung đột. Và tôi xin cám ơn tất cả anh chị em đang trên đường gặp gỡ: cám ơn vì sự dấn thân liên đới và cụ thể của anh chị em đối với việc thăng tiến và hội nhập con người. Thật tuyệt vời khi Marseille-Espérance có mặt ở đây, một tổ chức đối thoại liên tôn nhằm thúc đẩy tình huynh đệ và sự chung sống hòa bình. Chúng ta nhìn vào những người tiên phong và chứng nhân của cuộc đối thoại, như Jules Isaac, người đã sống gần đây, vừa kỷ niệm 60 năm ngày mất của ông. Anh chị em là Marseille của tương lai. Hãy tiến về phía trước không nản lòng, để thành phố này có thể trở thành một bức tranh hy vọng cho nước Pháp, châu Âu và thế giới.
Như một niềm hy vọng, cuối cùng tôi muốn trích dẫn một số lời mà David Sassoli đã nói ở Bari, nhân cuộc gặp gỡ trước đây về Địa Trung Hải: “Tại Baghdad, trong Ngôi nhà Khôn ngoan của Caliph Al Ma’mun, người Do Thái, các Kitô hữu và người Hồi giáo gặp nhau để đọc sách thánh và các triết gia Hy Lạp. Ngày nay, tất cả chúng ta, những người tin và tín đồ, đều cảm thấy cần phải tái xây dựng ngôi nhà đó để tiếp tục cùng nhau chống lại ngẫu tượng, phá bỏ những bức tường, xây những cây cầu, mang lại thực chất cho một chủ nghĩa nhân văn mới. Nhìn sâu vào thời gian của chúng ta và yêu thương nhiều hơn ngay cả khi khó yêu thương, tôi tin rằng đó là hạt giống được gieo trong những ngày này, vốn rất liên hệ đến số phận của chúng ta. Đừng sợ những vấn đề mà Địa Trung Hải mang đến cho chúng ta. […] Đối với Liên minh châu Âu và đối với tất cả chúng ta, sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào điều này” (Discorso in occasione dell’Incontro di riflessione e spiritualità “Mediterraneo frontiera di pace”, 22/02/2020).
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cùng nhau đối diện với những vấn đề, đừng để niềm hy vọng bị đánh chìm, hãy cùng nhau tạo nên một bức tranh hòa bình!
Tôi rất vui khi thấy ở đây có nhiều anh chị em ra biển để cứu những người tị nạn. Và nhiều anh chị em bị ngăn cản làm điều này. Họ nói tàu đang thiếu cái này, thiếu cái kia…Đó là cử chỉ thù ghét chống lại người anh em. Cám ơn tất cả những gì anh chị em đã làm.
2023
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn
Giáo hội đã cử hành Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn kể từ năm 1914. Ngày này được ấn định cử hành vào Chúa nhật cuối cùng của tháng 9, và hằng năm Đức Thánh Cha đều có sứ điệp cho ngày này.
Các sứ điệp nhân Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn:
2023
Các thiếu nhi được mời gọi lần chuỗi Mân Côi vào Chúa nhật 18/10
Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ (ACN) mời gọi các thiếu nhi trên toàn thế giới, vào ngày 18/10/2023, cùng cầu nguyện với chuỗi Mân Côi, tiếp tục với ý chỉ “Một triệu trẻ em lần chuỗi Mân Côi có thể thay đổi thế giới”, và năm nay với điểm nhấn mạnh “Vai trò của các thiên thần trong đời sống Kitô hữu”.
Trong thông cáo, Đức Hồng Y Mauro Piacenza, Chủ tịch Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ viết: “Kinh Mân Côi được Chúa đề cao và việc cầu nguyện này cần thiết hơn bao giờ hết, vì hai lý do: thứ nhất, vì Mẹ Thiên Chúa đã yêu cầu điều này một cách cụ thể trong các lần hiện ra đã được Giáo hội công nhận; thứ hai, bởi vì Kinh Mân Côi là một phần kinh nghiệm của Giáo hội và của nhiều vị thánh trong Giáo hội, như đã được Huấn quyền xác nhận và phù hợp với tâm tình đức tin Kitô giáo của chúng ta”.
Trong chiến dịch năm nay, Tổ chức mời gọi các thiếu nhi suy niệm đoạn Tin Mừng, trong đó Thánh Giuse được thiên thần báo trong giấc ngủ hãy rời Ai Cập để cứu sự sống Hài Nhi Giêsu.
Đức Hồng Y Mauro Piacenza viết tiếp: “Thế giới chúng ta phải khôi phục khái niệm thiên thần bản mệnh, đấng mà chúng ta có thể hướng đến để được giúp đỡ, để chúng ta có thể nhận ra và phân biệt nhiều thách đố trong thời đại chúng ta. Chẳng phải chúng ta bắt đầu dạy con cái cầu nguyện với thiên thần bản mệnh, vốn là một yếu tố quan trọng trong đời sống của Giáo hội trong nhiều thế kỷ sao?”
Trong các chiến dịch trước đây, các nhóm từ các quốc gia đã phản hồi rất tích cực trước lời mời tham gia sáng kiến này. Vào năm 2022, trong một buổi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đã khuyến khích các tín hữu tham gia chiến dịch cùng các thiếu nhi và phó thác cho sự chuyển cầu của Đức Mẹ cho dân tộc Ucraina và những người khác đang đau khổ vì chiến tranh cũng như mọi hình thức bạo lực và nghèo đói.
Nguồn gốc của sáng kiến cầu nguyện này có từ năm 2005 tại Caracas của Venezuela. Trong khi một nhóm trẻ em đọc kinh Mân Côi trong một đền thánh ở Caracas thì một số phụ nữ có mặt ở đó đã cảm nhận được sự hiện diện của Đức Trinh nữ Maria. Một người trong số họ đã nhớ lại lời hứa của cha thánh Piô: “Nếu một triệu trẻ em cùng nhau đọc kinh Mân Côi thì thế giới sẽ thay đổi”.
Ngọc Yến
Nguồn:vaticannews.va
2023
Giáo lý loan báo Tin Mừng 22 – Mọi người đều đóng vai chính trong sứ vụ loan báo Tin Mừng
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 20/9/2023, Đức Thánh Cha nhận xét rằng Thánh Daniel Comboni đã đi trước thời đại khi nhận ra sự cần thiết của việc loan báo Tin Mừng với sự tham gia của các giáo sĩ, giáo lý viên và lãnh đạo giáo dân địa phương. Ngài nói rằng chứng tá của thánh nhân cho thấy rằng mọi người đều tham gia và giữ vai chính trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 20/9, Đức Thánh Cha tiếp tục trình bày với các tín hữu về chứng tá của lòng say mê loan báo Tin Mừng, cụ thể là chứng tá của Thánh Daniel Comboni, vị tông đồ cho Châu Phi, với tầm nhìn truyền giáo mang tính ngôn sứ và tập trung vào sức mạnh giải phóng của Tin Mừng.
Trong bối cảnh xã hội đánh dấu bởi sự ác độc của chế độ nô lệ, Thánh Daniel Comboni đã rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại như nguồn tự do đích thực, không chỉ giải thoát khỏi tội lỗi mà còn khỏi mọi hình thức nô lệ làm hạ thấp phẩm giá con người của chúng ta.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng thánh nhân đã đi trước thời đại khi nhận ra sự cần thiết của việc loan báo Tin Mừng với sự tham gia của các giáo sĩ, giáo lý viên và lãnh đạo giáo dân địa phương, dựa trên sứ điệp Tin Mừng và lời kêu gọi xây dựng một trật tự xã hội công bằng, liên đới và nhân đạo. Ngài cũng nhấn mạnh rằng đối với Thánh Daniel Comboni, lòng bác ái Kitô giáo, được thể hiện trong tình liên đới của chúng ta với những người đau khổ, là nguồn cảm hứng và động lực tối thượng đằng sau mọi hoạt động truyền giáo. Ngài cầu xin tình yêu của thánh nhân đối với Giáo hội, sự dấn thân của thánh nhân đối với sứ mạng phổ quát của Giáo hội và mối quan tâm mục vụ của thánh nhân đối với tương lai của các dân tộc Châu Phi tiếp tục truyền cảm hứng cho những nỗ lực truyền giáo của Giáo hội trong thời đại chúng ta.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong loạt bài giáo lý về lòng say mê loan báo Tin Mừng, hôm nay chúng ta tập trung vào chứng tá của Thánh Daniel Comboni. Ngài là một tông đồ nhiệt thành cho Châu Phi. Về những dân tộc đó, ngài đã viết: “Họ đã chiếm lấy trái tim chỉ sống vì họ của tôi” (Scritti, 941), “Tôi sẽ chết với Châu Phi trên môi miệng” (Scritti, 1441). Và ngài đã nói với họ như thế này: “ngày hạnh phúc nhất trong những ngày của tôi sẽ là ngày mà tôi có thể cống hiến cả cuộc đời mình cho anh chị em” (Scritti, 3159). Đây là cách diễn tả của một người yêu mến Thiên Chúa và những người anh em mà họ phục vụ trong sứ mạng, những người mà họ không bao giờ mệt mỏi nhớ rằng “Chúa Giêsu Kitô cũng đã chịu đau khổ và chết vì họ” (Scritti, 2499; 4801).
Hãy ngừng bóp nghẹt Châu Phi!
Ngài tuyên bố điều này trong bối cảnh đặc trưng bởi sự kinh hoàng của chế độ nô lệ mà ngài đã chứng kiến. Chế độ nô lệ “đồ vật hóa” con người, giá trị của họ bị giảm xuống chỉ còn hữu ích cho ai đó hoặc thứ gì đó. Nhưng Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, đã nâng cao phẩm giá của mỗi con người và vạch trần sự giả dối của chế độ nô lệ ngày nay. Thánh Comboni, dưới ánh sáng của Chúa Kitô, đã nhận thức được tội ác của chế độ nô lệ; ngài cũng hiểu rằng tình trạng nô lệ xã hội bắt nguồn từ tình trạng nô lệ sâu xa hơn, tình trạng nô lệ của trái tim, tình trạng nô lệ tội lỗi mà Chúa đã giải thoát chúng ta. Vì vậy, là Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi đấu tranh chống lại mọi hình thức nô lệ. Tuy nhiên, thật không may, chế độ nô lệ, giống như chủ nghĩa thực dân, không phải là chuyện của quá khứ. Ở Châu Phi được thánh Comboni yêu quý, ngày nay bị xâu xé bởi nhiều cuộc xung đột, “cuộc xung đột chính trị đã nhường chỗ cho một ‘chủ nghĩa thực dân kinh tế’ cũng tương đương với chủ nghĩa nô lệ (…). Đó là một bi kịch mà thế giới kinh tế tiên tiến nhất thường nhắm mắt, bịt tai và bịt miệng”. Do đó, tôi nhắc lại lời kêu gọi của mình: “Hãy ngừng bóp nghẹt Châu Phi: đây không phải là một mỏ để khai thác hay một vùng đất để bị cướp bóc” (Cuộc gặp gỡ các cấp chính quyền, Kinshasa, ngày 31 tháng 1 năm 2023).
“Hãy cứu Châu Phi bằng Châu Phi”
Chúng ta hãy quay trở lại câu chuyện của Thánh Daniel. Sau thời gian đầu ở Châu Phi, ngài phải rời nhiệm sở vì lý do sức khỏe. Quá nhiều nhà truyền giáo đã chết sau khi mắc bệnh sốt rét, căn bệnh trở nên phức tạp hơn do sự nhận thức chưa đầy đủ về tình hình địa phương. Tuy nhiên, nếu những người khác bỏ rơi châu Phi thì Thánh Comboni lại không như vậy. Sau một thời gian phân định, ngài cảm thấy Chúa đang truyền cảm hứng cho ngài bằng một cách truyền giáo mới, mà ngài tóm tắt bằng những lời này: “Hãy cứu Châu Phi bằng Châu Phi” (Scritti, 2741f).
Tất cả Kitô hữu là những nhân vật chính trong hoạt động truyền giáo
Đó là một trực giác mạnh mẽ, góp phần canh tân sự dấn thân truyền giáo: những người được rao giảng Tin Mừng không chỉ là “đối tượng”, mà còn là “chủ thể” của sứ mạng truyền giáo. Thánh Daniel muốn biến tất cả các Kitô hữu thành những nhân vật chính trong hoạt động truyền giáo. Với tinh thần này, ngài đã suy nghĩ và hành động một cách toàn diện, thu hút sự tham gia của các giáo sĩ địa phương và cổ vũ các giáo dân làm giáo lý viên. Các giáo lý viên là một gia sản của Giáo hội: là những người tiến bước trong việc loan báo Tin Mừng. Ngài cũng quan niệm sự phát triển con người theo cách này, quan tâm đến nghệ thuật và nghề nghiệp, phát huy vai trò của gia đình và phụ nữ trong việc biến đổi văn hóa và xã hội. Điều rất quan trọng, ngay cả ngày nay, là thăng tiến đức tin và sự phát triển con người từ bên trong bối cảnh truyền giáo, thay vì cấy ghép các mô hình bên ngoài hoặc giới hạn chúng vào “chủ nghĩa phúc lợi” không sinh kết quả! Dùng văn hóa làm con đường loan báo Tin Mừng. Loan báo Tin Mừng văn hóa và hội nhập Tin Mừng vào văn hóa: hai việc này đi đôi với nhau.
Nguồn mạch của khả năng truyền giáo là lòng bác ái
Tuy nhiên, niềm đam mê truyền giáo vĩ đại của Thánh Comboni không chủ yếu là kết quả của sự dấn thân của con người: ngài không được thúc đẩy bởi lòng can đảm của mình hay chỉ được thúc đẩy bởi những giá trị quan trọng, ví dụ như tự do, công lý và hòa bình; lòng nhiệt thành của ngài phát sinh từ niềm vui Tin Mừng, xuất phát từ tình yêu Chúa Kitô và dẫn đến tình yêu dành cho Chúa Kitô! Thánh Daniel đã viết: “Một sứ mạng gian khổ và đòi nhiều nỗ lực như sứ mạng của chúng ta thì không thể tồn tại bằng vẻ hời hợt bề ngoài, hay bởi những người có vẻ đạo đức nhưng lại ích kỷ và chỉ biết có chính mình, những người không quan tâm đến sức khỏe và sự hoán cải của các linh hồn như lẽ ra họ phải làm.” Và ngài nói thêm: “chúng ta phải khơi dậy lòng bác ái của họ, điều bắt nguồn từ Thiên Chúa và từ tình yêu của Chúa Kitô; và khi bạn thực sự yêu mến Chúa Kitô, thì những thiếu thốn, đau khổ và tử đạo đều ngọt ngào” (Scritti, 6656). Ước muốn của ngài là được nhìn thấy những nhà truyền giáo nhiệt thành, vui vẻ, tận tâm: những nhà truyền giáo – ngài viết – “thánh thiện và có khả năng”. […] Trước hết, họ là những vị thánh, nghĩa là xa lánh tội lỗi, và khiêm nhường. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, còn cần có lòng bác ái, là điều làm cho họ có khả năng truyền giáo” (Scritti, 6655). Vì vậy, đối với Thánh Comboni, nguồn mạch của khả năng truyền giáo là lòng bác ái, đặc biệt là lòng nhiệt thành nhận lấy nỗi đau của người khác như nỗi đau của mình.
Luôn hiệp thông với Giáo hội
Hơn nữa, lòng say mê loan báo Tin Mừng của ngài không bao giờ khiến ngài hoạt động như một nghệ sĩ độc tấu, mà luôn hiệp thông với Giáo hội. “Tôi chỉ có một cuộc sống để thánh hiến cho sức khỏe của những linh hồn đó – ngài viết – tôi muốn có một ngàn cuộc sống để tiêu hao vì mục đích này” (Scritti, 2271).
Anh chị em thân mến, Thánh Daniel làm chứng cho tình yêu của vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng tìm kiếm những kẻ lạc lối và hiến mạng sống vì đoàn chiên. Lòng nhiệt thành của ngài rất mạnh mẽ và có tính ngôn sứ trong việc chống lại sự thờ ơ và loại trừ. Trong những lá thư của mình, ngài chân thành nhắc nhở Giáo hội thân yêu của mình, Giáo hội đã quên mất Châu Phi quá lâu. Ước mơ của Thánh Comboni là một Giáo hội chịu án chung với những người bị đóng đinh bởi lịch sử, để trải nghiệm sự phục sinh với họ.
Đừng quên người nghèo
Tôi đề nghị với anh chị em: Hãy nghĩ đến những người chịu đóng đinh trong lịch sử ngày nay: những người nam, người nữ, trẻ em, người già, tất cả, những người bị đóng đinh vì sự bất công và thống trị. Chúng ta hãy nghĩa đến họ và cầu nguyện cho họ. Chứng tá của ngài dường như lặp lại với tất cả chúng ta, những người nam nữ của Giáo hội: “Đừng quên người nghèo, hãy yêu thương họ, vì Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang hiện diện nơi họ, đang chờ đợi để được phục sinh”.
Đức Thánh Cha lặp lại: Đừng quên người nghèo: trước khi đến đây, tôi đã gặp các nhà lập pháp Brazil, những người làm việc vì người nghèo, những người cố gắng thăng tiến người nghèo bằng phúc lợi và công bằng xã hội. Và họ không quên người nghèo: họ làm việc vì người nghèo. Tôi nói với anh chị em: đừng quên người nghèo, vì họ sẽ là người mở cửa Thiên đàng cho anh chị em. Cảm ơn anh chị em.
Buổi tiếp kiến kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
Theo Vatican News (20/9/2023)