2023
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh lễ kính Đức Mẹ Canh giữ ở Marseille
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh lễ kính Đức Mẹ Canh giữ ở Marseille
TRONG THÁNH LỄ KÍNH ĐỨC MẸ CANH GIỮ Ở MARSEILLE
Kinh Thánh kể rằng Vua David, sau khi thành lập vương quốc, đã quyết định vận chuyển Hòm bia Giao ước đến Giêrusalem. Sau khi triệu tập dân chúng, ông đứng lên và đi đón Hòm bia; và trong suốt cuộc hành trình, chính ông đã cùng với dân chúng nhảy múa trước Hòm bia, hân hoan vui mừng vì sự hiện diện của Chúa (xem 2 Sm 6,1-15). Đối lập với bối cảnh của cảnh này, thánh sử Luca kể cho chúng ta về cuộc viếng thăm người chị họ Êlisabét của Đức Maria: thực ra, Đức Maria cũng đứng lên và đi đến miền Giêrusalem, và khi Mẹ vào nhà bà Êlisabét, hài nhi mà bà đang mang trong bụng, đã nhảy mừng khi nhận ra sự xuất hiện của Đấng Mêsia, và bắt đầu nhảy múa giống như vua Đavít đã làm trước Hòm bia Giao Ước (xem Lc 1,39-45).Do đó, Đức Maria được giới thiệu như Hòm bia Giao Ước thật khi giới thiệu Chúa nhập thể vào thế giới. Mẹ là Trinh Nữ trẻ tuổi đi gặp cụ già không còn khả năng sinh con và khi mang Chúa Giêsu, Mẹ trở thành dấu chỉ cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, Đấng vượt qua mọi tình trạng vô sinh. Mẹ đi lên miền núi Giuđa, nói với chúng ta rằng Thiên Chúa tiến về phía chúng ta, tìm kiếm chúng ta bằng tình yêu của Người và làm cho chúng ta vui mừng hân hoan.
Nơi hai người phụ nữ này, Đức Maria và bà Êlisabét, cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đến với nhân loại được mặc khải: một người còn trẻ và người kia đã già, một trinh nữ và một người vô sinh, tuy nhiên cả hai đều thụ thai theo cách “không thể được”. Đây là công việc của Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta; Người biến những điều dường như không thể thành có thể, Người tạo ra sự sống ngay cả trong tình trạng vô sinh.
Thưa anh chị em, với tấm lòng chân thành, chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có tin rằng Thiên Chúa đang hoạt động trong cuộc đời chúng ta không? Chúng ta có tin rằng Chúa, một cách kín đáo và thường không thể đoán trước, hành động trong lịch sử, thực hiện những điều kỳ diệu và cũng đang hoạt động trong các xã hội của chúng ta vốn bị đánh dấu bởi chủ nghĩa thế tục của thế gian và một sự thờ ơ tôn giáo nào đó không?
Có một cách để nhận biết liệu chúng ta có lòng tin cậy nơi Chúa hay không. Tin Mừng kể rằng “khi bà Êlisabét vừa nghe lời chào của Đức Maria thì hài nhi đã nhảy mừng trong lòng bà” (c. 41). Đây là dấu hiệu: nhảy mừng. Bất cứ ai tin, ai cầu nguyện, ai chào đón Chúa đều nhảy múa trong Thần Khí, và cảm thấy có điều gì đó đang chuyển động trong lòng, và vui mừng “nhảy múa”. Và tôi muốn tập trung vào điều này: sự nhảy mừng của đức tin.
Kinh nghiệm đức tin trước hết tạo ra sự nhảy mừng trước sự sống. Nhảy mừng có nghĩa là được “chạm vào nội tâm”, có cảm giác hồi hộp bên trong, cảm thấy có điều gì đó đang chuyển động trong lòng mình. Nó trái ngược với một trái tim phẳng lì, lạnh lùng, sống một cuộc sống lặng lẽ, khép mình trong sự thờ ơ và trở nên không thể rung động, trở nên cứng rắn, vô cảm với mọi thứ và mọi người, thậm chí trước sự vất bỏ bi thảm sự sống con người, sự sống mà ngày nay bị từ chối nơi rất nhiều người di cư, cũng như nơi nhiều trẻ em chưa chào đời và nơi nhiều người già bị bỏ rơi. Một trái tim lạnh lùng và phẳng lặng kéo cuộc sống trôi đi một cách máy móc, không có đam mê, không có động lực, không có mong muốn. Và chúng ta có thể phát bịnh với tất cả những điều này trong xã hội châu Âu của chúng ta: sự hoài nghi, sự chán nản, sự cam chịu, sự không chắc chắn, một cảm giác buồn bã chung chung. Có người gọi đó là “những đam mê buồn”: đó là cuộc sống không có những sự nhảy mừng.
Tuy nhiên, những người được sinh ra trong đức tin đều nhận ra sự hiện diện của Chúa, như hài nhi trong bụng bà Êlidabét. Họ nhận ra hoạt động của Người khi mỗi ngày mới bắt đầu và nhận được đôi mắt mới để nhìn vào thực tế; ngay cả giữa những mệt mỏi, những vấn đề và đau khổ, họ vẫn thấy Chúa viếng thăm mỗi ngày và cảm thấy được Người đồng hành và nâng đỡ. Đối mặt với mầu nhiệm của đời sống cá nhân và những thách đố của xã hội, những người có đức tin đều có một bước nhảy vọt, một đam mê, một ước mơ để vun đắp, một mối quan tâm thúc đẩy họ dấn thân một cách cá nhân. Họ biết rằng Chúa hiện diện trong mọi sự, đang kêu gọi và mời gọi họ làm chứng cho Tin Mừng bằng sự hiền lành, để xây dựng một thế giới mới khi sử dụng những hồng ân và đặc sủng đã nhận được.
Kinh nghiệm đức tin, ngoài sự nhảy mừng trước sự sống, còn tạo ra sự nhảy mừng hướng đến tha nhân. Thật vậy, trong mầu nhiệm Thăm Viếng, chúng ta thấy rằng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa không diễn ra qua những biến cố ngoại thường trên trời, mà qua sự đơn sơ của một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến trước cửa một gia đình, trong cái ôm dịu dàng giữa hai người phụ nữ, trong sự gặp gỡ của hai người đang mang thai đầy kinh ngạc và hy vọng. Và trong cuộc gặp gỡ này có sự quan tâm của Đức Maria, sự ngạc nhiên của bà Êlidabét, niềm vui chia sẻ.
Chúng ta hãy luôn nhớ điều này, ngay cả trong Giáo hội: Thiên Chúa có tính tương quan và thường xuyên đến thăm chúng ta qua những cuộc gặp gỡ giữa con người với nhau, khi chúng ta biết cách mở lòng ra với người khác, khi có sự rung động đối với sự sống của những người đi ngang qua cạnh chúng ta mỗi ngày và khi trái tim chúng ta vẫn dửng dưng và vô cảm trước những vết thương của những người mỏng manh yếu đuối hơn. Các thành phố đô thị của chúng ta và nhiều quốc gia Châu Âu như Pháp, trong đó các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau cùng tồn tại, theo nghĩa này, là một thách thức lớn chống lại sự thái quá của chủ nghĩa cá nhân, chống lại sự ích kỷ và khép kín tạo ra sự cô đơn và đau khổ. Chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu để có sự cảm động trước những người sống bên cạnh chúng ta, chúng ta hãy học nơi Người là Đấng, khi đối diện với đám đông mệt mỏi và kiệt sức, cảm thương và động lòng (x. Mc 6:34), đã trào dâng lòng thương xót trước thân xác bị thương tích của những người Chúa gặp. Như một trong những vị thánh vĩ đại của anh chị em, Thánh Vinh Sơn Phaolô, đã nói, “chúng ta phải cố gắng làm trái tim mình trở nên hiền dịu và khiến chúng nhạy cảm với những nỗi đau và sự khốn khổ của người khác. Chúng ta cần cầu nguyện xin Thiên Chúa ban cho chúng ta tinh thần thương xót thực sự, đó chính là Thần Khí của Người” để có thể nhận ra rằng người nghèo là “chúa và chủ của chúng ta” (Correspondance, entretiens, documents, Paris 1920-25, 341; 392-393).
Thưa anh chị em, tôi nghĩ đến biết bao “sự nhảy mừng” của nước Pháp, nghĩ đến một lịch sử phong phú về sự thánh thiện, văn hóa, các nghệ sĩ và các nhà tư tưởng, đã làm say mê nhiều thế hệ. Ngay cả ngày nay, cuộc sống của chúng ta, cuộc sống của Giáo hội, nước Pháp, châu Âu cũng cần điều này: cần ơn nhảy mừng, một bước nhảy vọt mới của đức tin, lòng bác ái và hy vọng. Chúng ta cần khám phá lại niềm đam mê và nhiệt huyết, khám phá lại sở thích dấn thân cho tình huynh đệ. Chúng ta cần một lần nữa dám mạo hiểm yêu thương gia đình của chúng ta và dám yêu những người yếu đuối nhất, và lại tìm thấy trong Tin Mừng một ân sủng biến đổi và làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Maria, người đã chấp nhận vất vả khi bắt đầu một cuộc hành trình và dạy chúng ta rằng đây là cách thế của Thiên Chúa: Thiên Chúa làm phiền chúng ta, khiến chúng ta phải chuyển động, khiến chúng ta “nhảy mừng”, như đã xảy ra với bà Elidabét. Và chúng ta muốn trở thành những Kitô hữu gặp gỡ Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện và gặp gỡ anh em của chúng ta bằng tình yêu; những Kitô hữu nhảy mừng, rung động, đón nhận ngọn lửa Thánh Thần và rồi để mình bị đốt cháy bởi những vấn nạn ngày nay, bởi những thách đố của Địa Trung Hải, bởi tiếng kêu của người nghèo, bởi “những điều không tưởng thánh thiện” của tình huynh đệ và hòa bình đang chờ được thực hiện.
Cùng với anh chị em, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ, Notre Dame de la Garde, để Mẹ gìn giữ cuộc sống của anh chị em, để Mẹ bảo vệ nước Pháp và toàn bộ Châu Âu và để Mẹ làm cho chúng ta nhảy mừng trong Thánh Thần. Tôi muốn cầu nguyện bằng những lời của Paul Claudel: “Con thấy nhà thờ, mở cửa… Con không có gì để dâng Mẹ và không có gì để cầu xin. Mẹ ơi, con chỉ đến để nhìn ngắm Mẹ. Nhìn ngắm Mẹ, khóc vì hạnh phúc khi biết rằng con là con của Mẹ và Mẹ đang ở đó. Mẹ Maria, ở bên Mẹ, ở nơi này, nơi có Mẹ… Bởi vì Mẹ luôn ở đó… Đơn giản bởi vì Mẹ là Đức Maria… Đơn giản vì Mẹ hiện hữu… Mẹ của Chúa Giêsu Kitô, xin tạ ơn Mẹ!” (“La Vierge à midi”, Poëmes de Guerre 1914-1916, Paris, 1922).
Nguồn tin: vaticannews.va/vi
2023
Phát hiện mới bên trong nhà thờ Mộ Thánh
Phát hiện mới bên trong nhà thờ Mộ Thánh
Trong vỏn vẹn 60 giờ, các nhà nghiên cứu được trao cơ hội ngàn năm có một để giám định phía trong nhà thờ Mộ Thánh Chúa, một trong những nơi thiêng liêng nhất của Kitô giáo. Và sau đây là những gì họ phát hiện.
Nhiều thế kỷ qua, nhà thờ Mộ Thánh Chúa (nhà thờ Mộ Thánh) trải qua vô số thách thức, từ những vụ tấn công đầy bạo lực, hỏa hoạn đến động đất. Nhà thờ bị phá hủy hoàn toàn vào năm 1009, và sau đó được xây dựng lại. Sự thay đổi về cấu trúc theo dòng lịch sử khiến giới học giả thời nay đặt nghi vấn nơi này có đúng là điểm chôn cất Chúa Giêsu vốn được một phái đoàn Rome tìm ra cách đây 17 thế kỷ hay không.
Kết quả giám định được thực hiện từ các biện pháp khoa học cho thấy hang động đá vôi nằm bên trong nhà thờ đích thực là tàn tích của ngôi mộ do những người La Mã cổ đại phát hiện khi xưa. Mẫu vôi vữa lấy từ bề mặt đá vôi và phiến đá cẩm thạch đặt bên trên lối vào phần mộ có niên đại khoảng năm 345. Theo các tài liệu lịch sử, Mộ Chúa được những người La Mã tìm ra và bảo tồn vào năm 326, thời của Constantine, hoàng đế La Mã đầu tiên cải đạo sang Kitô giáo.
Cơ hội vô giá nghiên cứu bên trong Mộ Thánh
Tháng 10.2016, Mộ Chúa được mở ra lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ. Lúc đó Edicule, nhà nguyện nhỏ bao quanh ngôi mộ, trải qua đợt trùng tu lớn do đội ngũ liên ngành đông đảo của Đại học Bách khoa Quốc gia Athens (Hy Lạp) thực hiện. Trong quá trình này, một vài mẫu vữa được thu thập tại nhiều vị trí khác nhau bên trong Edicule để tiến hình giám định niên đại. Kết quả gần đây đã được Trưởng giám sát khoa học Antonia Moropoulou, người dẫn đầu dự án trùng tu Edicule, chia sẻ cho Tạp chí National Geographic uy tín.
Thế kỷ thứ 4, hoàng đế Constantine cử đoàn sứ giả đến Giêrusalem để tìm tung tích Mộ Thánh. Năm 325, phái đoàn đến Giêrusalem và họ tìm thấy tàn tích của một đền thờ La Mã được xây dựng trước đó khoảng 200 năm. Vào thời điểm đoàn đến nơi, đền thờ đã bị san bằng. Nỗ lực khai quật bên dưới đền thờ cho phép tìm ra một ngôi mộ được đẽo vào một hang động bằng đá vôi. Phần bên trên của hang động bị lấy đi, để lộ ngôi mộ bên trong. Phái đoàn của hoàng đế Constantine quyết định xây dựng Edicule bao quanh ngôi mộ đó.
Ngôi mộ có hình dạng như một cái kệ bằng đá thuôn dài, hay còn gọi là “giường chôn cất”, được cho là nơi đặt thi thể của Chúa Giêsu sau khi Người chịu hình trên thập tự giá. Những dạng kệ dài và hốc được đẽo từ các hang động đá vôi là đặc điểm thường thấy bên trong mộ phần của giới Do Thái giàu có ở Giêrusalem vào thế kỷ thứ nhất. Phiến đá cẩm thạch dùng để che đậy ngôi mộ nhiều khả năng được đặt vào chỗ từ giữa thập niên 1300 hoặc trễ nhất là vào năm 1555, theo các ghi chép của khách hành hương.
Phát hiện nằm ngoài dự đoán
Khi ngôi mộ được mở ra vào đêm 26.10.2016, các nhà khoa học vô cùng ngạc nhiên về điều mà họ tìm thấy bên dưới phiến đá cẩm thạch: một phiến đá cẩm thạch khác, cũ hơn, nhưng bị vỡ, bên trên khắc dấu thánh giá.
Một số nhà nghiên cứu ban đầu cho rằng phiến đá cũ hơn có lẽ được đặt vào vị trí trong giai đoạn Thập Tự Chinh (1095-1291). Tuy nhiên, những chuyên gia khác lại cho rằng có thể phiến đá đã nằm đó lâu hơn thế, và nó đã bị vỡ khi nhà thờ sụp đổ năm 1009. Thế nhưng, chẳng ai nghĩ rằng đó lại là chứng cứ đầu tiên cho thấy từng có một đền thờ La Mã được xây dựng ở nơi này.
Các kết quả giám định mới nhất tiết lộ nhiều khả năng phiến đá xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ tư, theo sắc lệnh của hoàng đế Constantine. Đây quả là phát hiện bất ngờ và nhận được sự hoan nghênh của những người nghiên cứu lịch sử nhà thờ Mộ Thánh. “Rõ ràng niên đại của phiến đá phản ánh điều mà Hoàng đế Constantine đã làm khi xưa”, theo nhà khảo cổ học Martin Biddle, người từng công bố nghiên cứu chuyên đề về lịch sử Mộ Thánh năm 1999. “Quả là phát hiện vô cùng ấn tượng”, ông nhận định.
Trong quá trình trùng tu Edicule, vốn kéo dài đến 1 năm, các nhà khoa học cũng có thể xác định được niên đại của nhiều tàn tích bên trong các bức tường của nhà nguyện nhỏ. Những mẫu vữa lấy từ phần còn lại của bức tường phía nam hang động có niên đại từ năm 335 đến 1570, cung cấp thêm chứng cứ về công trình xây dựng trong giai đoạn La Mã, cũng như cuộc trùng tu được ghi chép vào thế kỷ 16. Mẫu vữa lấy từ cửa vào ngôi mộ có niên đại từ thế kỷ 11, tương đồng với khung thời gian Edicule được xây dựng lại sau khi bị phá hủy năm 1009.
“Thật sự thú vị khi các mẫu vữa không những cung cấp chứng cứ về đền thờ đầu tiên ở Mộ Thánh, mà còn xác nhận trình tự xây dựng trong lịch sử của Edicule”, Trưởng giám sát công trình Moropoulou nhận xét.
Các kết quả báo cáo đã được công bố trên chuyên san về khảo cổ học Journal of Archaeological Science: Reports.
LING LANG
2023
Phỏng vấn Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân – Tân Tổng Giám mục Phó Tổng Giáo phận Huế
PHỎNG VẤN ĐỨC CHA GIUSE ĐẶNG ĐỨC NGÂN – TÂN TỔNG GIÁM MỤC PHÓ TỔNG GIÁO PHẬN HUẾ
2023
DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA TẠI PHIÊN KẾT THÚC “CUỘC GẶP GỠ ĐỊA TRUNG HẢI”
Trong diễn văn tại phiên kết thúc “Cuộc gặp gỡ Địa Trung Hải”, Đức Thánh Cha tập trung sư tư nghĩ về ba thực tế đặc trưng cho Marseilles: biển, cảng và ngọn hải đăng. Ngài mời gọi mọi người tiếp tục tiến bước, trở thành một biển tốt, để đối diện với sự nghèo đói ngày nay bằng sức mạnh của sự hợp tác và liên đới; một bến cảng để chào đón những người tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn; một ngọn hải đăng của hòa bình, để ngang qua nền văn hóa gặp gỡ, băng qua những vực thẳm đen tối của bạo lực và chiến tranh.
các Thị trưởng và Chính quyền đại diện các thành phố và vùng lãnh thổ giáp Biển Địa Trung Hải,
Tôi xin gửi lời chào thân ái và lòng biết ơn đến quý vị, vì đã nhận lời mời của Đức Hồng Y Aveline đến tham dự các cuộc gặp gỡ này. Cám ơn quý vị vì công việc và vì những suy tư quý giá mà quý vị đã chia sẻ. Sau Bari và Firenze, hành trình phục vụ các dân tộc Địa Trung Hải đang tiến triển: ở đây cũng vậy, các lãnh đạo Giáo hội và dân sự cùng nhau không phải để bàn luận các lợi ích chung, nhưng được thúc đẩy bởi mong muốn chăm sóc mọi người nam nữ. Cám ơn quý vị đã làm điều đó với người trẻ, hiện tại và tương lai của Giáo hội và xã hội.
Thành phố Marseille rất cổ. Được thành lập bởi các thuỷ thủ Hy Lạp đến từ Tiểu Á, truyền thuyết kể về câu chuyện tình yêu giữa một thủy thủ di cư và một công chúa bản địa. Ngay từ đầu, nó đã thể hiện một đặc điểm đa dạng hỗn hợp và mang tính quốc tế: chào đón sự giàu có của biển và mang lại quê hương cho những người không còn quê hương. Marseille nói với chúng ta rằng, mặc dù khó khăn, chung sống là có thể và là nguồn vui. Trên bản đồ, giữa Nice và Montpellier dường như được vẽ giống một nụ cười; và tôi thích nghĩ về nó theo cách này, như “nụ cười của Địa Trung Hải”. Do đó, tôi muốn đề nghị với quý vị một số suy nghĩ về ba thực tế đặc trưng cho Marseilles: biển, cảng và ngọn hải đăng.
1. Biển. Một làn sóng các dân tộc đã làm cho thành phố này trở thành một bức tranh khảm hy vọng, với truyền thống đa sắc tộc và đa văn hóa vĩ đại, được đại diện bởi hơn 60 Lãnh sự quán hiện diện trên lãnh thổ. Marseille là một thành phố vừa đa dạng vừa khác biệt, vì chính sự đang dạng của nó, kết quả của cuộc gặp gỡ với thế giới, làm cho lịch sử của nó trở nên khác biệt. Ngày nay chúng ta thường nghe nói rằng lịch sử Địa Trung Hải là sự đan xen của các cuộc xung đột giữa các nền văn minh, tôn giáo và tầm nhìn khác nhau. Chúng ta không bỏ qua các vấn đề, nhưng chúng ta cũng đừng để bị lừa dối: sự trao đổi giữa các dân tộc đã làm cho Địa Trung Hải trở thành cái nôi của nền văn minh, một vùng biển tràn ngập kho báu, đến mức, như một sử gia vĩ đại người Pháp đã viết, nó không phải là “một phong cảnh, mà là vô số cảnh quan. Không phải một biển, nhưng là hàng loạt biển…. từ nhiều thiên niên kỷ, mọi thứ đã hội tụ ở đó, làm phức tạp và phong phú thêm lịch sử của nó” (F. Braudel, La Méditerranée, Paris 1985, 8). Biển của chúng ta (Mare Nostrum) là một nơi gặp gỡ: giữa các tôn giáo có cùng tổ phụ Abraham; giữa tư tưởng Hy Lạp, Latinh và Ả Rập; giữa khoa học, triết học và luật pháp, và giữa nhiều thực tại khác. Biển đã chuyển tải cho thế giới giá trị cao cả của con người, được ban cho tự do, mở ra cho sự thật và cần ơn cứu độ, coi thế giới như một kỳ quan cần được khám phá và một khu vườn để sinh sống, trong dấu chỉ của một Thiên Chúa lập giao ước với con người.
Một thị trưởng vĩ đại đã nhìn thấy ở Địa Trung Hải không phải là một vấn đề xung đột, nhưng là phản ứng của hòa bình, thực sự là “khởi đầu và nền tảng của hòa bình giữa tất cả các quốc gia trên thế giới” (G. La Pira, Parole a conclusione del primo Colloquio Mediterraneo, 6 ottobre 1958). Ông nói: “Câu trả lời… là có thể nếu chúng ta xem xét ơn gọi chung, và có thể nói là vĩnh viễn mà Đấng Quan Phòng đã giao phó trong quá khứ, hiện tại, và theo một nghĩa nào đó, sẽ trao trong tương lai cho các dân tộc và quốc gia sống trên bờ hồ mầu nhiệm này của Tiberia mở rộng, là Địa Trung Hải” (Discorso di apertura del I Colloquio Mediterraneo, 3 ottobre 1958). Vào thời Chúa Giêsu, Hồ Tiberia, hay Biển Galilê, là nơi tập trung nhiều nhóm dân cư, tín ngưỡng và truyền thống. Chính ở đó, tại “Galilê của dân ngoại” (Mt 4,15), băng qua Con Đường Biển, phần lớn đời sống công khai của Chúa Giêsu đã diễn ra. Một bối cảnh đa dạng, và trong nhiều phương diện không ổn định, đã là nơi công bố các Mối Phúc, nhân danh một Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, Đấng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất công” (Mt 5,45). Đó cũng là một lời mời gọi mở rộng biên giới của trái tim, vượt qua các rào cản dân tộc và văn hóa. Đây là câu trả lời đến từ Địa Trung Hải: Biển Galilê vĩnh cửu này mời gọi chúng ta chống lại sự chia rẽ của các cuộc xung đột với “sự cùng chung sống của những khác biệt” (T. Bello, Benedette inquietudini, Milan 2001, 73). Biển của chúng ta, ở giao lộ giữa Bắc và Nam, giữa Đông và Tây, tập trung những thách đố của toàn thế giới, như “năm bờ biển” mà quý vị đã suy tư: Bắc Phi, Cận Đông, Biển Đen-Aegea, Balkan và châu Âu Latinh. Đó là tiền đồn của những thách đố liên quan đến tất cả mọi người: Chúng ta hãy nghĩ về khí hậu, với Địa Trung Hải đại diện cho một điểm nóng nơi những thay đổi được cảm nhận nhanh hơn. Nói tóm lại, vùng biển này, một môi trường cung cấp một cách tiếp cận độc đáo đối với sự phức tạp, là một “tấm gương của thế giới” và mang trong mình một ơn gọi toàn cầu hướng tới tình huynh đệ, con đường duy nhất để ngăn chặn và vượt qua các cuộc xung đột.
Anh chị em thân mến, giữa biển xung đột ngày nay, chúng ta ở đây để tăng cường sự đóng góp của Địa Trung Hải, để Địa Trung Hải một lần nữa có thể trở thành một phòng thí nghiệm hòa bình. Bởi vì đây là ơn gọi của nó, trở thành một nơi mà các quốc gia và thực tại khác nhau gặp nhau trên nền tảng nhân loại mà tất cả chúng ta chia sẻ, không phải của các ý thức hệ chống lại nó. Quả thực, Địa Trung Hải thể hiện một lối suy nghĩ không đồng nhất và mang tính hệ tư tưởng, nhưng đa diện và nhất quán của sự việc; một tư tưởng sống động, cởi mở và thích nghi, một lối suy nghĩ mang tính cộng đồng. Chúng ta rất cần điều này vào thời điểm hiện tại, khi chủ nghĩa dân tộc cổ hủ và hiếu chiến muốn làm cho giấc mơ của cộng đồng các quốc gia tan biến. Nhưng – chúng ta hãy nhớ – với vũ khí, người ta gây ra chiến tranh chứ không phải hòa bình, và với lòng tham quyền lực, người ta quay trở lại quá khứ, thay vì xây dựng tương lai.
Vậy chúng ta bắt đầu từ đâu để hòa bình bén rễ? Trên bờ Biển hồ Galilê, Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách ban hy vọng cho người nghèo, công bố họ được chúc phúc: Người lắng nghe nhu cầu của họ, chữa lành vết thương cho họ, trên hết công bố cho họ Tin Mừng Nước Trời. Chúng ta cần bắt đầu lại từ đó, từ tiếng khóc thường im lặng của người bé nhỏ nhất, chứ không phải từ người may mắn hơn, những người không cần giúp đỡ nhưng vẫn lên tiếng. Chúng ta, Giáo hội và cộng đồng dân sự, hãy bắt đầu lại bằng cách lắng nghe người nghèo, những người “cần được ôm lấy, không tính toán” (P. Mazzolari, La parola ai poveri, Bologna 2016, 39), vì họ là những gương mặt chứ không phải những con số. Sự thay đổi hướng đi trong các cộng đồng chúng ta nằm ở việc đối xử với họ như anh chị em mà chúng ta biết những câu chuyện, chứ không phải là những vấn đề rắc rối; nó nằm ở việc chào đón họ, chứ không phải che giấu họ; ở việc hoà nhập, chứ không phải loại trừ họ; ở việc mang lại cho họ phẩm giá. Ngày nay, biển chung sống của con người bị ô nhiễm bởi sự bất ổn, điều này cũng làm tổn hại Marseille xinh đẹp. Và nơi nào có bất ổn ở đó có tội phạm. Nơi nào thiếu việc làm cùng với tình trạng nghèo đói về vật chất, giáo dục, văn hóa và tôn giáo, thì nơi đó mở đường cho các băng đảng và nạn buôn bán bất hợp pháp. Chỉ cam kết của các thể chế thôi thì chưa đủ, chúng ta cần một bước nhảy vọt lương tâm để nói “không” với sự bất hợp pháp và nói “có” với tình liên đới, vốn không phải là một giọt nước trong đại dương, nhưng là yếu tố không thể thiếu để làm sạch nước của nó.
Thực tế, những tệ nạn xã hội thực sự không phải ở việc gia tăng các vấn đề, nhưng là ở việc giảm sự quan tâm. Ngày nay ai là người gần gũi với những người trẻ bị bỏ rơi, những người dễ dàng trở thành con mồi cho tội phạm và mại dâm? Ai gần gũi với những người làm việc như một nô lệ để giúp họ tự do hơn? Ai quan tâm đến những gia đình đang lo sợ tương lai và lo lắng cho những người con sẽ sinh ra? Ai lắng nghe tiếng than thở của những người già cô đơn, những người, thay vì được coi trọng, lại bị gạt sang một bên với lý do giả tạo là một cái chết được cho là xứng nhân phẩm và ngọt ngào, nhưng thực tế lại mặn hơn nước biển? Ai nghĩ đến những em bé chưa được sinh ra, bị từ chối nhân danh quyền tiến bộ sai lầm, thay vào đó lại thoái lui trong nhu cầu ích kỷ cá nhân? Hôm nay chúng ta có thảm kịch lẫn lộn trẻ em với chó con… Thư ký của tôi nói với tôi rằng khi đi ngang qua Quảng trường Thánh Phêrô, ngài thấy một người phụ nữ nào đó bế em bé… nhưng thực ra không phải là em bé, trong xe đẩy là những chú chó con… Sự lẫn lộn này nói với chúng ta về điều gì đó tồi tệ… Ai có lòng trắc ẩn nhìn xa hơn bờ biển của mình để lắng nghe những tiếng kêu đau đớn cất lên từ Bắc Phi và Trung Đông? Biết bao nhiêu người sống đắm chìm trong bạo lực và chịu đựng những hoàn cảnh bất công và bách hại! Tôi nghĩ đến rất nhiều Kitô hữu, thường bị buộc phải rời bỏ đất đai của mình hoặc sống ở đó nhưng không được công nhận quyền, không được hưởng quyền công dân đầy đủ. Xin vui lòng, chúng ta hãy dấn thân để những người là một phần của xã hội có thể trở thành công dân thực sự. Và rồi có một tiếng kêu đau đớn inh ỏi, và đó là biến biển của chúng ta thành biển chết, Địa Trung Hải từ cái nôi của nền văn minh đến ngôi mộ của nhân phẩm. Đó là tiếng kêu nghẹt thở của những anh chị em di dân, những người mà tôi muốn dành sự chú ý khi suy tư về hình ảnh thứ hai mà Marseilles mang lại cho chúng ta: bến cảng.
2. Trong nhiều thế kỷ cảng Marseille là một cánh cửa mở rộng ra biển, Pháp và châu Âu. Từ đây, nhiều người đã ra đi để tìm việc làm và tương lai ở nước ngoài, và từ đây nhiều người đã vượt qua cánh cửa lục địa với hành trang đầy hy vọng. Marseille có một cảng lớn và là một cửa lớn, không thể đóng lại. Thế nhưng, một số cảng Địa Trung Hải đã đóng. Và hai cụm từ vang lên, khơi lên nỗi sợ hãi của mọi người: “xâm chiếm” và “khẩn cấp”. Nhưng những người mạo hiểm mạng sống trên biển không xâm chiếm, họ tìm kiếm sự chào đón. Đối với tình trạng khẩn cấp, hiện tượng di cư không phải là một vấn đề khẩn cấp nhất thời, lợi thế cho việc thúc đẩy tuyên truyền gây hoang mang, nhưng là một thực tế của thời đại chúng ta, một quá trình liên quan đến ba lục địa xung quanh Địa Trung Hải và phải được quản lý với tầm nhìn xa khôn ngoan: với trách nhiệm châu Âu có khả năng đối diện với những khó khăn khách quan. Và tôi đang nhìn, ở đây, trên bản đồ này, những bến cảng dành cho người di cư… Síp, Hy Lạp, Malta, Ý và Tây Ban Nha… Những bến cảng hướng về Địa Trung Hải và tiếp nhận người di cư. Biển chúng ta kêu gọi công lý, với bờ của nó một mặt lộ ra sự giàu có, chủ nghĩa tiêu thụ và lãng phí, trong khi mặt khác lại có nghèo đói và bấp bênh. Ở đây cũng vậy, Địa Trung Hải phản ánh thế giới, với phía Nam nhìn đến phía Bắc, với nhiều nước đang phát triển, bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn, các chế độ, chiến tranh và sa mạc hóa, nhìn đến những nước giàu có, trong một thế giới toàn cầu hóa trong đó tất cả chúng ta đều được kết nối nhưng sự khác biệt chưa bao giờ sâu sắc đến thế. Tuy nhiên, tình trạng này không phải là mới trong những năm gần đây, và không phải Giáo hoàng đến từ phía bên kia thế giới là người đầu tiên cảnh báo với sự khẩn cấp và lo ngại. Giáo hội đã nói về điều này với cung giọng chân thành trong hơn năm mươi năm qua.
Khi Công đồng Vatican II vừa kết thúc, Thánh Phaolô VI, trong Thông điệp Populorum Progressio, đã viết: “Ngày nay, các dân tộc đói khát chất vấn các dân tộc giàu có. Giáo hội cũng động lòng run rẩy trước tiếng kêu đau khổ này và kêu gọi mỗi người với tình thương đáp lại anh chị em mình” (số 3). Đức Giáo Hoàng liệt kê “ba bổn phận” của các quốc gia phát triển, “bắt nguồn từ tình huynh đệ nhân loại và siêu nhiên”: “bổn phận liên đới, nghĩa là viện trợ mà các quốc gia giàu có phải cung cấp cho các nước đang phát triển; bổn phận công bằng xã hội, nghĩa là điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các dân tộc mạnh và yếu; bổn phận bác ái đại đồng, nghĩa là thúc đẩy một thế giới nhân bản hơn cho tất cả mọi người, một thế giới trong đó tất cả mọi người đều có một cái gì đó để cho và nhận, không có việc sự tiến bộ của một số người lại gây nên một trở ngại cho sự phát triển của những người khác” (số 44). Dưới ánh sáng của Tin Mừng và những suy xét này, vào năm 1967, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh đến “bổn phận chào đón”, mà ngài đã viết là, “chúng ta không bao giờ kiên trì đủ” (số 67). Về vấn đề này, mười lăm năm trước, Đức Piô XII đã khuyến khích khi viết rằng “Gia đình Nazareth đã chạy trốn, những người di cư Giêsu, Maria và Giuse ở Ai Cập […] là kiểu mẫu, tấm gương và sự hỗ trợ cho tất cả những người di cư và hành hương thuộc mọi lứa tuổi và quốc gia, mọi người lánh nạn thuộc bất kỳ hoàn cảnh nào, bị thúc ép bởi sự bách hại hay bởi nhu cầu, buộc mình phải rời bỏ quê hương, những người thân yêu, […] và đi đến một vùng đất xa lạ” (Tông hiến Exsul Familia de spirituali emigrantium cura, ngày 1 tháng 8 năm 1952).
Tất nhiên, ai cũng thấy rõ những khó khăn trong việc chào đón. Người di cư phải được chào đón, bảo vệ hoặc đồng hành, thăng tiến và hội nhập. Đúng là không dễ để có được phong cách hay hòa nhập này, nhưng tiêu chuẩn chính không thể là duy trì hạnh phúc của chính mình, nhưng là bảo vệ phẩm giá con người. Chúng ta không được xem những người tìm nơi trú ẩn nơi chúng ta là một gánh nặng. Nếu chúng ta coi họ là anh chị em, họ sẽ xuất hiện với chúng ta trên hết như những món quà. Ngày mai chúng ta sẽ cử hành Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn. Chúng ta hãy để cho câu chuyện của rất nhiều anh chị em đang gặp khó khăn, những người có quyền di cư và không di cư chạm đến chúng ta, và chúng ta đừng khép mình trong sự thờ ơ. Lịch sử thách đố chúng ta thực hiện một bước nhảy vọt của lương tâm để ngăn chặn nạn đắm tàu của nền văn minh. Thực tế, tương lai sẽ không ở trong sự khép kín, đó là sự trở về quá khứ, một bước ngoặt trong con đường lịch sử. Chống lại tai họa khủng khiếp của việc bóc lột con người, giải pháp không phải là từ chối, nhưng là đảm bảo, theo khả năng của mỗi nước, một số lớn các lối vào hợp pháp và thường xuyên, bền vững nhờ sự tiếp nhận công bằng của lục địa châu Âu, trong bối cảnh hợp tác với các quốc gia xuất cư. Trái lại, nói “đủ rồi” là nhắm mắt lại; cám dỗ “cứu mình” hôm nay sẽ biến thành bi kịch vào ngày mai, khi các thế hệ tương lai sẽ cám ơn chúng ta nếu chúng ta có thể tạo ra các điều kiện cho sự hội nhập thiết yếu, trong khi họ sẽ đổ lỗi cho chúng ta nếu chúng ta chỉ ủng hộ sự đồng hóa lạnh lùng. Hội nhập là vất vả, nhưng nhìn xa trông rộng: nó chuẩn bị cho tương lai, sẵn sàng hoặc miễn cưỡng, cùng nhau hoặc từ chối nhau. Sự đồng hóa, vốn không tính đến khác biệt và vẫn cứng nhắc trong các mô hình của nó, chỉ làm cho ý tưởng chiếm ưu thế hơn thực tế và làm tổn hại tương lai, tăng khoảng cách và tạo thêm sự phân biệt, khiến sự thù địch và thiếu kiên nhẫn bùng phát. Chúng ta cần tình huynh đệ như cần cơm bánh. Chính cụm từ “anh em” trong từ nguyên Ấn-Âu của nó bắt nguồn từ một từ gốc liên quan đến dinh dưỡng và nuôi dưỡng. Chúng ta giữ vững chính mình chỉ bằng cách nuôi dưỡng những người yếu đuối nhất với niềm hy vọng, chào đón họ như anh chị em. Kinh Thánh nhắc nhở “Đừng quên lòng hiếu khách” (Dt 13, 2). Và từ Cựu Ước điều đó được lặp lại: bà góa, trẻ mồ côi và người khách lạ. Ba bổn phận bác ái: giúp đỡ người góa bụa, trẻ mồ côi và người ngoại quốc, người di cư.
Về vấn đề này, cảng Marseille cũng là một “cánh cửa đức tin”. Theo truyền thống, các Thánh Marta, Maria và Lazarô đã cập bến ở đây, những người đã gieo Tin Mừng ở những vùng đất này. Đức tin đến từ biển cả, như được nhắc lại bởi truyền thống của Marseille về Candlemas với đoàn diễu hành biển. Trong Tin Mừng, Lazarô là bạn của Chúa Giêsu, nhưng cũng là tên của nhân vật chính trong những dụ ngôn rất thời đại, mở ra trước mắt sự bất bình đẳng đang ăn mòn tình huynh đệ và nói với chúng ta về sự ưu ái của Chúa dành cho người nghèo. Là Kitô hữu, chúng ta tin vào Thiên Chúa làm người, vào Con người duy nhất và không thể bắt chước ở bờ Địa Trung Hải, Đấng đã tự gọi mình là đường, sự thật và sự sống (Ga 14, 6), chúng ta không thể chấp nhận rằng những con đường gặp gỡ bị khép lại, sự thật của tiền tài lấn át phẩm giá con người, sự sống bị biến thành cái chết! Giáo hội, khi tuyên xưng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô, “Đấng kết hợp cách nào đó với mỗi người” (Gaudium et Spes, 22), tin rằng, với Thánh Gioan Phaolô II, đường lối của Người là con người (Enc. Redemptor Hominis, 14). Hãy tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ những người yếu đuối nhất là kho báu của Người. Tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân là điều quan trọng: không phải tầm quan trọng xã hội hoặc con số lớn, nhưng là sự trung tín với Chúa và với nhân loại!
Đây là chứng tá Kitô giáo và thường cũng là chứng tá anh hùng; chẳng hạn, tôi nghĩ đến Thánh Charles de Foucauld, “người anh em đại đồng”, các vị tử đạo của Algeria, nhưng cũng nghĩ đến nhiều nhân viên bác ái ngày nay. Trong lối sống Tin Mừng gây sốc này, một lần nữa Giáo hội là nơi trú ẩn an toàn để cập bến và từ đó lại lên đường dệt các mối dây liên kết với người dân của mọi dân tộc, tìm kiếm khắp nơi những dấu vết của Chúa Thánh Thần và trao ban những gì mình đã lãnh nhận nhờ ân sủng. Đây là thực tại thuần khiết nhất của Giáo hội, ở đây – như Bernanos đã viết – “Giáo hội của các thánh”, đồng thời nói thêm rằng “sự vĩ đại của khôn ngoan, sức mạnh, kỷ luật linh hoạt, tráng lệ và uy nghi, tự nó chẳng là gì cả, nếu bác ái không làm cho nó sinh động” (Giovanna d’Arco eretica e santa, 1934). Tôi thích ca ngợi sự sáng suốt của người Pháp này, một tín hữu thiên tài và sáng tạo, đã khẳng định những sự thật này qua vô số cử chỉ và bài viết. Thánh Caesar thành Arles nói: “Nếu bạn có lòng bác ái, bạn có Thiên Chúa; và nếu bạn có Thiên Chúa, bạn còn thiếu điều gì?” (Sermo 22,2). Pascal nhận ra rằng “đối tượng duy nhất của Kinh Thánh là bác ái” (Pensieri, 301) và rằng “sự thật bên ngoài bác ái thì không phải là Thiên Chúa, nhưng là hình ảnh của Người và một thần tượng mà không cần phải yêu thương hay tôn thờ” (Pensieri, 767). Và Thánh Gioan Cassian, người đã qua đời ở đây, viết rằng “mọi sự, ngay cả những gì được coi là hữu ích và cần thiết, đều có giá trị thấp hơn sự tốt lành, đó là hòa bình và bác ái” (Conferenze spirituali XVI,6).
Vì vậy, đúng thật các Kitô hữu không đứng sau bất kỳ ai về bác ái; và Tin Mừng bác ái là hiến chương của mục vụ. Chúng ta không được kêu gọi để hối tiếc về thời quá khứ hoặc tái xác định vai trò của Giáo hội trong xã hội, chúng ta được mời gọi làm chứng: không thêu dệt Tin Mừng bằng lời nói, nhưng để trao ban chính xác thịt; không để đo lường về khả năng tầm nhìn, nhưng để trao ban chính mình cách nhưng không, tin rằng “thước đo của Chúa Giêsu là tình yêu không thước đo” (Bài giảng, 23/2/2020). Thánh Phaolô, Tông Đồ dân ngoại, đã dành phần lớn cuộc đời trên các tuyến đường Địa Trung Hải, từ cảng này sang cảng khác, đã dạy rằng để chu toàn lề luật của Chúa Kitô, cần phải mang gánh nặng cho nhau (Gal 6, 2). Anh em Giám mục thân mến, chúng ta đừng tạo gánh nặng cho con người, nhưng chúng ta hãy giảm bớt lao nhọc của họ nhân danh Tin Mừng thương xót, để hân hoan loan truyền sự an ủi của Chúa Giêsu cho một nhân loại mệt mỏi và bị tổn thương. Ước gì Giáo hội là bến cảng hy vọng cho những người chán nản, bến cảng nghỉ ngơi lấy lại sức, nơi mọi người cảm thấy được khuyến khích để dấn thân vào cuộc sống với sức mạnh vô song của niềm vui của Chúa Kitô.
3. Điều này đưa tôi đến hình ảnh cuối cùng, đó là ngọn hải đăng. Nó chiếu sáng biển và làm cho người ta thấy bến cảng. Những vệt sáng nào có thể hướng dẫn hành trình của các Giáo hội Địa Trung Hải? Nghĩ về biển, vốn liên kết rất nhiều cộng đoàn tín hữu khác nhau, tôi tin rằng chúng ta có thể suy tư về những cách thức làm chúng ta hợp lực hơn, có lẽ cũng nên xem xét tính thiết thực của một Hội đồng Giám mục Địa Trung Hải có thể mang lại những khả năng lớn hơn cho việc đối thoại và đại diện trong khu vực. Ngoài ra khi nghĩ đến bến cảng và chủ đề di cư, sẽ rất hữu ích nếu hướng tới một kế hoạch mục vụ cụ thể được liên kết chặt chẽ hơn, để các Giáo phận mặt tiền có thể đảm bảo sự trợ giúp tinh thần và nhân bản tốt hơn cho các anh chị em gặp khó khăn.
Ngọn hải đăng, trong tòa nhà uy tín mang tên của nó, cuối cùng làm cho tôi nghĩ trước hết về tất cả những người trẻ: họ là ánh sáng chỉ đường cho tương lai. Marseille là một thành phố đại học lớn, nơi có bốn khuôn viên đại học; trong số khoảng 35.000 sinh viên theo học, có 5.000 là người nước ngoài. Bắt đầu dệt mối quan hệ giữa các nền văn hóa từ đâu, nếu không phải từ trường đại học? Ở đó, những người trẻ không bị mê hoặc bởi sự quyến rũ của quyền lực, nhưng bởi giấc mơ xây dựng tương lai. Ước gì các trường đại học Địa Trung Hải là các phòng thực nghiệm của những giấc mơ và công trường xây dựng của tương lai, nơi những người trẻ trưởng thành bằng cách gặp gỡ, làm quen với nhau và khám phá các nền văn hóa và bối cảnh gần gũi và khác biệt cùng một lúc. Bằng cách này, những định kiến được phá vỡ, vết thương được chữa lành và những lời hùng biện cực đoan được ngăn chặn. Những người trẻ được đào tạo tốt và hướng tới xây dựng tình huynh đệ sẽ có thể mở ra những cánh cửa đối thoại bất ngờ. Nếu chúng ta muốn họ cống hiến hết mình cho Tin Mừng và phục vụ chính trị cao cả, trước tiên chúng ta cần phải đáng tin cậy: quên mình, không quy chiếu về mình, tận tâm cống hiến không mệt mỏi cho người khác. Nhưng thách đố ưu tiên của giáo dục liên quan đến mọi độ tuổi đào tạo: bắt đầu từ trẻ em, bằng cách “hoà mình” với người khác, các em có thể vượt qua nhiều rào cản và định kiến, phát triển bản sắc riêng của mình trong bối cảnh làm phong phú lẫn nhau. Giáo hội có thể đóng góp tốt vào việc này, đặt các mạng lưới đào tạo của mình vào việc phục vụ và làm sinh động một “sự sáng tạo của tình huynh đệ”.
Thách đố cũng là nền thần học Địa Trung Hải, vốn phát triển một tư tưởng gắn bó với thực tại, “ngôi nhà” của nhân loại chứ không chỉ của dữ liệu kỹ thuật, có khả năng hiệp nhất các thế hệ bằng cách liên kết ký ức và tương lai, và thúc đẩy một cách độc đáo hành trình đại kết giữa các Kitô hữu và đối thoại giữa các tín hữu thuộc các tôn giáo. Thật đẹp khi mạo hiểm vào một nghiên cứu triết học và thần học, dựa trên các nguồn văn hóa Địa Trung Hải, phục hồi niềm hy vọng cho con người, một mầu nhiệm tự do cần Thiên Chúa và người khác để mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chính mình. Và cũng cần phải suy tư về mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm mà không ai có thể tuyên bố là sở hữu hoặc kiểm soát, và mầu nhiệm này phải được tách khỏi mọi hình thức bạo lực và sử dụng làm công cụ, ý thức rằng việc tuyên xưng sự cao cả của Người đòi hỏi nơi chúng ta sự khiêm nhường của những người tìm kiếm.
Anh chị em thân mến, tôi rất vui khi được ở Marseille! Có lần ngài Tổng thống mời tôi sang thăm Pháp và nói với tôi thế này: “Nhưng điều quan trọng là tôi phải đến Marseille!”. Và tôi đã làm được… Cám ơn anh chị em vì sự kiên nhẫn lắng nghe và về sự dấn thân của anh chị em. Hay tiếp tục tiến bước! Hãy là một biển tốt, để đối diện với sự nghèo đói ngày nay bằng sức mạnh của sự hợp tác và liên đới; anh chị em hãy là một bến cảng chào đón, để chào đón những người tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn; để trở thành một ngọn hải đăng của hòa bình, để ngang qua nền văn hóa gặp gỡ, băng qua những vực thẳm đen tối của bạo lực và chiến tranh. Xin cám ơn.