2023
Trở nên tá điền tốt
8.10 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm
Is 5:1-7; Tv 80:9-12,13-14,15-16,19-20; Pl 4:6-9; Mt 21:33-43
Trở nên tá điền tốt
Qua dụ ngôn những người tá điền nổi loạn chúng ta thấy ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa đã rào giậu và chăm sóc cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi loạn chính là dân Do Thái, dân tộc đã được Thiên Chúa chọn lựa và trao ban cho muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ được sai đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri mà Thiên Chúa biểu lộ thánh ý của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và tàn bạo đối với những người được Thiên Chúa sai đến. Nào là đánh đập, nào là giết đi.
Sau cùng ông chủ đã phải sai phái chính người con trai duy nhất của mình đến với họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau những biến cố đáng buồn đã xảy ra. Người con duy nhất này là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết chết trên thập giá. Cái chết khổ đau này làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực lạ lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá góc tường là nơi câu móc những bức tường của toà nhà, nó nắm giữ một vai trò, một vị trí rất quan trọng.
Cuối cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân Do Thái, để chọn cho mình một dân riêng mới, đó là Giáo Hội, để đem lại cho Ngài nhiều hoa trái.
Câu chuyện trên cũng làm cho chúng ta nhớ tới hinh ảnh vườn nho của tiên tri Isaia. Vườn nho này được chủ hết sức chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho đặc biệt, thế nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải nổi giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã không làm cho vườn nho của Ta. Ta mong ước có được những trái ngon trái ngọt, vậy tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua trái dại?
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng tâm hồn chúng ta chỉ là một cây nho cằn cỗi? Thiên Chúa cũng đã đổ xuống cho chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con người chúng ta vẫn không thể đâm bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần phải dừng lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống, trước khi nó đã quá muộn.
Chúa trao cho nhân loại vườn nho của Ngài, vườn nho đã được Ngài chu đáo tạo mọi điều kiện để trổ sinh hoa lợi: Ngài đã rào giậu, xây bồn đạp nho, xây cả tháp canh… Ngài cho nhân loại canh tác, nhưng thay vì nộp hoa lợi cho chủ, chúng ta lại muốn chiếm đoạt cả vườn nho. Tất cả phải quy về Chúa, là nguồn gốc và là chủ mọi sự, chúng ta lại tự tiện sử dụng cho riêng mình, không nghĩ đến Chúa.
Chúng ta tưởng rằng chỉ có dân Do thái mới giết Chúa, còn chúng ta thì tốt. Nhưng không, chúng ta cũng phản bội, tiếp sức cho những người vô đạo, ủng hộ những hành động bạo lực, vô luân của thế gian. Nhiều người trong chúng ta đã sống như thánh Phao-lô đã nói: “như kẻ thù của thập giá”; chúng ta tôn thờ thân xác và nhục dục, chạy theo tiền của, chà đạp lương tâm. Phải chăng chúng ta cũng là những tá điền sát nhân?
Chúng ta đang ở vào một thời điểm quan trọng của một thời mới. Thời con người tiến bộ về khoa học, và muốn chiếm đoạt vương quyền của Thiên Chúa. Con người của thế kỷ hai mươi mốt này, đa số muốn loại trừ Thiên Chúa, làm như Thiên Chúa cản bước tiến của họ. Họ muốn trở thành “siêu nhân” và muốn giết chết Thiên Chúa. Người chủ trương mạnh mẽ nhất là một triết gia người Đức, Ông Frederic Nietzsche. Ông đã tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết rồi!” Lạ thay! Thiên chúa vẫn sống, còn ông đã gởi thân vào ba tấc đất và chỉ còn là một bộ xương. Ảnh hưởng của phong trào này vẫn còn là một thách thức đối với chúng ta là những người tin Chúa.
Qua dụ ngôn ông chủ và các tá điền trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu muốn chúng ta cộng tác với Người tuỳ theo những nén bạc Chúa trao vì vậy mỗi người phải ra công làm việc để để sinh lời cho Nước Chúa là Giáo hôi, gia đình hay xã hội chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu, Đấng làm việc liên liên lỉ theo thánh ý Chúa Cha (Ga 5,17), đem lại ơn cứu độ cho con người, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng ra công làm việc để mưu cầu hạnh phúc, giúp đỡ chia sẻ với người khác và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
Mỗi người, tuỳ theo hoàn cảnh, địa vị và ơn ban riêng Chúa ban, phải làm việc và sinh ích lợi cho mọi người. Bậc làm cha mẹ thì lo làm tròn bổn phận của người làm cha làm mẹ, giữ gìn gia đình hạnh phúc. Kẻ làm con cái lo sao chữ đạo hiếu cho tròn. Người sống đời dâng hiến làm việc bằng cách tuân giữ kỷ luật tu trì và rao giảng Tin Mừng cứu độ hầu mưu ích cho các linh hồn và sáng danh Chúa.
Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng ta trong đời sống thường ngày dù’ nhỏ hay lớn đều nêu cao tinh thần tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận sinh lợi cho Nước Chúa là làm sao cho Tin Mừng được mọi người biết đến, yêu thích và sống theo để mọi người cùng nhau xây dựng đức tin và hạnh phúc ngay đời này và đời sau.
2023
Thứ Hai Tuần XXVII – Mùa Thường Niên
Thứ Hai Tuần XXVII – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Et 13,9.10-11
Lạy Chúa,
Chúa an bài mọi sự theo thánh ý của Ngài
mà không ai cưỡng nổi.
Ngài tạo thành vũ trụ
cùng muôn loài hiện hữu dưới bầu trời.
Chính Ngài là Chúa Tể càn khôn.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Gn 1,1 – 2,1.11
Ông Giô-na đứng dậy để tránh nhan Đức Chúa.
Khởi đầu sách ngôn sứ Giô-na.
1 1 Có lời Đức Chúa phán với ông Giô-na, con ông A-mít-tai, rằng : 2 “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta.” 3 Ông Giô-na đứng dậy nhưng là để trốn đi Tác-sít, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống Gia-phô và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tác-sít. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tác-sít với họ, tránh nhan Đức Chúa. 4 Nhưng Đức Chúa tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. 5 Thuỷ thủ sợ hãi ; họ kêu cứu, mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hoá trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt. Còn ông Giô-na thì đã xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ say. 6 Viên thuyền trưởng lại gần và nói với ông : “Sao lại ngủ thế này ? Dậy ! Kêu cầu thần của ông đi ! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng.” 7 Rồi họ bảo nhau : “Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai hoạ này.” Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Giô-na. 8 Họ bảo ông : “Vì ông là người đã đem tai hoạ này đến cho chúng ta, thì xin ông cho chúng tôi biết : Ông làm nghề gì ? Ông từ đâu đến, quê ở nước nào, và thuộc dân nào ?” 9 Ông nói với họ : “Tôi là người Híp-ri, Đấng tôi kính sợ là Đức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền.” 10 Những người ấy sợ, sợ lắm ; họ nói với ông : “Ông đã làm gì thế ?” Thật vậy, do ông kể lại mà họ được biết là ông đang trốn đi để tránh nhan Đức Chúa. 11 Họ hỏi ông : “Chúng tôi phải xử với ông thế nào để cho biển lặng đi, không còn đe doạ chúng tôi nữa ?” Quả thật, biển càng lúc càng động mạnh. 12 Ông bảo họ : “Hãy đem tôi ném xuống biển thì biển sẽ lặng đi, không còn đe doạ các ông nữa, vì tôi biết là tại tôi mà các ông gặp cơn bão lớn này.” 13 Những người ấy cố chèo vào đất liền, nhưng không thể được vì biển càng lúc càng dữ dội, khiến họ kinh hồn bạt vía. 14 Họ kêu cầu Đức Chúa và thưa : “Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô tội trên đầu chúng con ; vì lạy Đức Chúa, chính Ngài đã hành động tuỳ theo sở thích.” 15 Sau đó họ đem ông Giô-na ném xuống biển. Biển dừng cơn giận dữ. 16 Những người ấy sợ Đức Chúa, sợ lắm ; họ dâng hy lễ lên Đức Chúa cùng với lời khấn hứa.
2 1 Bấy giờ, Đức Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Giô-na. Ông ở trong bụng cá ba ngày ba đêm.
11 Rồi Đức Chúa bảo con cá, nó liền mửa ông Giô-na ra trên đất liền.
Đáp ca
Gn 2,3.4.5.8 (Đ. x. c.7c)
Đ.Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống.
3Từ cảnh ngặt nghèo, tôi kêu lên Đức Chúa,
Người đã thương đáp lời.
Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu,
Ngài đã nghe tiếng con.
Đ.Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống.
4Ngài đã ném con vào vực sâu, giữa lòng biển,
làn nước mênh mông vây bọc con,
sóng cồn theo nước cuốn,
Ngài để cho tràn ngập thân này.
Đ.Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống.
5Con đã nói : “Con bị đuổi đi khuất mắt Chúa rồi !
Nhưng con vẫn hướng nhìn về thánh điện của Chúa.”
Đ.Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống.
8Khi mạng sống con hầu tàn,
con đã nhớ đến Đức Chúa
và lời cầu nguyện của con đã tới Ngài,
tới đền thánh của Ngài.
Đ.Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống.
Tung hô Tin Mừng
- Ga 13,34
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Lc 10,25-37
Ai là người thân cận của tôi ?
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
25 Khi ấy, có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi Người rằng : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” 26 Người đáp : “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” 27 Ông ấy thưa : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28 Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”
29 Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng : “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” 30 Đức Giê-su đáp : “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới chỗ nạn nhân, thấy vậy thì động lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu xức vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” 37 Người thông luật trả lời : “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chính Chúa đã thiết lập lễ tế này để chúng con dâng lên mà tỏ lòng thần phục tôn kính; xin Chúa thương chấp nhận và thánh hoá chúng con, xin cho chúng con được hưởng dồi dào ơn cứu chuộc. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì lượng từ bi, Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã sai Ðấng Cứu Chuộc đến với chúng con. Người vô tội mà Chúa muốn Người sống như chúng con, để Chúa yêu thương nơi chúng con/ điều Chúa quý mến nơi Con Chúa. Nhờ sự vâng phục của Người, chúng con được phục hồi để lãnh nhận những ơn Chúa mà chúng con đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng.
Vì thế, lạy Chúa cùng với toàn thể Thiên thầnvà các thánh, chúng con tuyên xưng Chúa và hân hoan tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Ac 3,25
Chúa nhân hậu từ bi
với những kẻ một niềm trông cậy,
và tha thiết kiếm tìm Người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa lãnh nhận Mình và Máu Ðức Kitô, xin cho chúng con được nên một với Người và no say tình Chúa. Chúng con cầu xin…
2023
Bệnh Phung trong Kinh Thánh
Bệnh Phung trong Kinh Thánh
Bệnh cùi (leprosy) được Kinh Thánh nhắc tới rất nhiều lần. Bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn (1922-1975) gọi nó là bịnh phong (Lêvi 13:2). Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ gọi nó là phong hủi (Dân Số 5:2).
Ngày xưa, theo Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), người Việt gọi bệnh này là cùi, hủi, phung, phung cùi, phung hủi (xem: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, 1895, tome I: tr. 202, 451; và 1896, tome 2: tr. 210).
Cũng ngày xưa, Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương (1838-1914) là một nhân vật tai mắt ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Tương truyền, nhân một Tết Nguyên Ðán nọ, đại gia họ Ðỗ ra câu đối, có treo giải thưởng cho ai khéo đối. Họ Đỗ thách đối như sau:
Ðất Chợ Lớn có nhà họ Ðỗ, đỗ một nhà, ngũ phước tam đa.
Vế thách đối dùng hai từ đồng âm: Đỗ (họ) và đỗ (thi đậu).
Ghét họ Đỗ quá tận tụy phục vụ thực dân Pháp cướp nước, có người gởi đến câu đối lại như sau:
Cù lao Rồng có lũ thằng phung, phun một lũ cửu trùng bát nhã.
Vế đối lại dùng hai từ đồng âm theo giọng miền Nam: phung (hủi, cùi) và phun (như trong miệng phun ra). Vì sao địa danh cù lao Rồng được nhắc tới? Cù lao này (cũng gọi cồn Tân Long) nằm trên sông Tiền thuộc Mỹ Tho; năm 1903 Toàn Quyền Đông Dương Paul Beau ra nghị định thành lập trên cù lao Rồng một trại phung cho Nam Kỳ. Năm 1940 trại phung này dời về Tuy Hòa.
Như thế, căn cứ vào những điều dẫn trên, gọi cùi, hủi, phung là theo tiếng Việt (hay Nôm); gọi phong là dựa theo chữ Hán, vì người Hoa gọi bệnh này là ma phong bệnh. Vậy, gọi phong hủi là ghép Hán (phong) với Việt (hủi).
*
Kinh Thánh nói nhiều tới bệnh phung vì bệnh này là hình ảnh minh họa cho sức hủy diệt của tội lỗi.
Cựu Ước (Lêvi chương 13) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê và Aharôn cách phân biệt giữa bệnh phung với các loại bệnh khác như: mụt, lác, đốm; ung nhọt; phỏng; chốc; mày đay; sói đầu. Bất kỳ ai bị nghi ngờ mắc bệnh phung đều phải đến gặp tư tế để xem xét (Lêvi 13:2-3). Nếu bị tư tế kết luận là đã mắc bệnh phung, người bệnh buộc phải theo quy chế là: áo xống phải xé tả tơi, đầu để tóc rối che mình đến râu mép và kêu lên: ‘Nhơ, nhơ!’ Chừng nào còn mang bệnh phung thì người ấy còn nhơ uế, và phải sống riêng biệt một mình. Chỗ ở phải để bên ngoài trại của những người không mắc bệnh (Lêvi 13:45-46).
Cựu Ước (Lêvi chương 14) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê và Aharôn cách tẩy uế người đã hết bệnh phung và nhà cửa bị nhơ uế vì phung hủi.
Năm 1873 bác sĩ Hansen (1841-1912, người Na Uy) có công tìm ra trực khuẩn leprae (cũng gọi vi khuẩn Hansen) là nguyên nhân gây bệnh phung, nhờ đó sau này y học có phương pháp chữa trị. Nhưng thời xưa, trước khi có được cách trị bệnh phung, người ta tin rằng Trời gieo bệnh này để trừng phạt kẻ phạm tội. Bị mọi người ghê tởm, khinh miệt, và ruồng bỏ, bệnh nhân không được quyền sống gần gũi cộng đồng. Cựu Ước (Dân Số 5:2-4) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê:
“ ‘Hãy truyền cho con cái Itxraen đưa ra khỏi trại mọi kẻ phung hủi (…). Dù là đàn ông hay đàn bà, các ngươi sẽ đưa chúng ra; tận bên ngoài trại, các ngươi sẽ đưa chúng ra, để chúng đừng làm nhơ uế trại, là nơi Ta ở giữa chúng.’ Và con cái Itxraen đã làm như thế: Họ đã đưa chúng ra ngoài trại. Yavê đã phán với Môsê làm sao, thì con cái Itxraen đã làm như thế.”
Theo cổ luật Do Thái, người mắc bệnh phung phải ở cách xa người không mắc bệnh (kể cả thân thích ruột thịt) khoảng 1,8 mét; nếu có gió thổi, thì khoảng cách phải là 45 mét (x. http://www.gotquestions.org/Bible-leprosy.html). Vì vậy, người bệnh phung phải sống chung với người đồng cảnh ngộ cho tới khi chết, nếu bệnh không thuyên giảm. Đây là biện pháp thi hành ở Do Thái thời xưa để ngăn ngừa bệnh phung lây lan.
Tân Ước (Matthêu 8:2-4) chép rõ một phép mầu của Chúa như sau:
“Khi Ðức Giêsu ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Ngài. Và kìa, một người bị phung hủi tới gần, bái lạy Ngài và nói: ‘Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.’ Ngài giơ tay chạm vào anh ta và bảo: ‘Tôi muốn, anh sạch đi.’ Lập tức, anh ta được sạch bệnh phung hủi. Rồi Ðức Giêsu bảo anh ta: ‘Coi chừng, chớ nói với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.’”
Đó là người bệnh phung đầu tiên được Đức Giêsu chữa lành. Anh ta lành bệnh nhờ có đức tin vào Chúa. Phép mầu Chúa ban cho anh ta cũng làm chứng cho lời Thánh tông đồ Phaolô trong Thư Gửi Tín Hữu Êphêxô (8:2):
“Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ. Đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa…”
Người bệnh phung ấy đã dám cãi luật Do Thái, đã không chịu giữ khoảng cách tối thiểu 1,8 mét, và chỉ có đức tin mãnh liệt vào Chúa mới khiến anh ta chủ động tới gần Chúa, quỳ xuống lạy, cầu xin ơn Chúa: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Cùng với lời cầu xin ấy đầy xác tín ấy, hành động can đảm cãi luật Do Thái của anh ta cũng làm chứng cho lời dạy này ghi trong Thư Gửi Tín Hữu Do-Thái (4:16):
“Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.”
*
Một phép mầu thứ hai Chúa ban cho người phung được Thánh tông đồ Luca (17:11-19) chép như sau:
“Trên đường lên Giêrusalem, Ðức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: ‘Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!’ Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ: ‘Hãy đi trình diện với các tư tế.’ Ðang khi đi thì họ đã được sạch. Một người trong bọn, thấy mặt được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Ðức Giêsu mới nói: ‘Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?’ Rồi Người nói với anh ta: ‘Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.’ (Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ)
Chúa bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế” là để họ được các tư tế xem xét tình trạng sạch bệnh, không còn nhơ uế nữa, như Lêvi chương 13 quy định. Mười người có đức tin ấy đã vâng theo lời Chúa mà đi gặp các tư tế, và chính lúc đang đi như vậy thì họ sạch bệnh. Có lẽ khi ấy họ đi chưa mấy xa, nên một trong nhóm mười người đó bèn quay lại gặp Chúa, quỳ xuống tạ ơn.
Thánh Luca chép sự kiện Chúa làm phép mầu ngắn gọn như thế, nhưng chúng ta hiểu rằng chín người thọ ơn Chúa mà cứ vô tâm bỏ đi, không một lời cảm ơn vắn vỏi, thì họ vẫn cứ sạch bệnh. Phép mầu không mất đi trên da thịt họ, bởi vì Chúa đã cho thì không lấy lại. Nhưng, họ chỉ mới được cứu cho phần xác. Còn người Samari, người duy nhất biết vội vàng chạy ngược lại tìm Chúa để thành tâm cúi lạy tạ ơn thì sao? Anh được Chúa bảo gì?
Câu Luca 17:19 được linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch: “Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi.”
Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch không mấy khác: “Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Nhưng tôi lại thích câu Luca 17:19 trong bản King James hơn: “Arise, go thy way: thy faith hath made thee whole.”
Có lẽ đã noi theo bản King James nên trong truyện ngắn A Leper’s Thanksgiving, mục sư Ralph F. Wilson (Tiến Sĩ Thần Học Mỹ) viết rằng Chúa đã bảo anh chàng Samari là: “Rise and go. Your faith has made you whole.”
Khi chuyển ngữ truyện ngắn của mục sư Wilson (xem “Một Trong Mười”, nguyệt san CGvDT tháng 5-2016), tôi dịch: “Dậy mà đi đi. Đức tin của anh đã biến anh thành toàn vẹn.”
Tôi hiểu toàn vẹn (whole) là cả xác lẫn hồn. Chín người kia không toàn vẹn, vì chỉ mới được cứu chữa phần xác.
Trong bản tiếng Anh của Wilson, mục sư viết: “They [chín người bệnh khác] had received physical healing, indeed, but at Jesus’ feet, Bart had received a healing of his whole person.”
Wilson chỉ nói whole (toàn vẹn), không nói gì tới phần hồn, nhưng tôi hiểu mục sư hàm ngụ có phần hồn trong đó, bởi lẽ vế trước đã nói physical healing (chữa trị phần xác). Hiểu như vậy nên tôi dịch câu tiếng Anh dẫn trên là: “… họ [chín người bệnh khác] đã được chữa lành phần xác, nhưng quỳ dưới chân Đức Giêsu, Batôlômêô đã nhận được ơn chữa lành trọn cả thân tâm.” Nói trọn cả thân tâm thì cũng đồng nghĩa trọn cả xác lẫn hồn.
Mục sư Wilson rất thâm thúy khi kết thúc truyện ngắn lại viết câu này: “The gift of healing had sent him the message of God’s love, but thanks had brought him home.”
Tôi dịch: “Món quà cứu chữa đã gởi cho ông sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa, nhưng lòng biết ơn đã mang ông về lại quê nhà.”
Mặc dù home thường được hiểu là nhà, nhưng tôi chủ ý dịch là quê nhà. Bởi lẽ tôi tin rằng mục sư Wilson không hề ám chỉ ngôi nhà nào đó của Batôlômêô được dựng lên trên đất đai Samari. Tôi tin Wilson, cũng giống như những người tín hữu Cao Đài, hiểu rằng thế gian này chỉ là đất khách, là quê người, là chỗ tạm ghé để tạm trú trong vài mươi năm của một kiếp người mỏng manh dòn vỡ. Quê nhà đích thực của mỗi người chúng ta không phải ở thế gian, mà ở một nơi được các tôn giáo xưa nay gọi bằng nhiều danh từ khác nhau: Thiên Đàng, Nước Trời, Thượng Giới, Cực Lạc, Niết Bàn, Tịnh Thổ, v.v… Quê nhà đó còn được các tôn giáo hình tượng hóa là Thiên Chúa, Chúa, Trời, Thượng Đế, Ngọc Hoàng, Phật, v.v…
Những cảm nghĩ nói trên tôi không tiện diễn bày trong bản dịch Một Trong Mười. Do đó, tôi viết bài này như một tản mạn, cũng là để chia sẻ với nhau chỗ hòa điệu liên tôn. HK
2023
Ba tân linh mục Campuchia
Ba tân linh mục Campuchia
Đức cha Olivier Schmitthaeusler, thuộc Hội thừa sai Paris, Giám quản Tông tòa của Hạt đại diện Tông tòa Phnom Penh, đã truyền chức linh mục cho ba phó tế là thầy Gioan Baotixita Vy Samman, Antôn Thai Tatanak Bunly và Poul Vin Kann, vào ngày 23.9.2023 tại nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô. Đức cha Olivier bày tỏ niềm vui mừng vì ba tân linh mục là một món quà cho cộng đồng Công giáo Campuchia. Ngài nhắc đến trường Don Bosco, nơi cả ba tân linh mục đều theo học tại đó trước khi gia nhập Chủng viện Thánh Gioan Maria Vianney, đồng thời Đức cha cũng cảm ơn gia đình và tất cả những người đã cầu nguyện cho ba linh mục. Ba vị tân linh mục là dấu chỉ sự tăng trưởng và niềm hy vọng cho Giáo hội tại nước này. Giáo hội Công giáo tại Campuchia có khoảng 20.000 tín hữu, hiện có 14 linh mục bản xứ, khoảng 100 thừa sai phục vụ tại khoảng 80 giáo xứ toàn quốc, thuộc một giáo phận Đại diện Tông tòa và hai Phủ doãn Tông tòa.