2020
Thư Chung năm 1999 của Hội đồng Giám mục Việt Nam
THƯ CHUNG NĂM 1999
Nhân dịp Năm Thánh 2000
HÃY VUI LÊN
Kính gởi: Các Linh mục, Tu sĩ, Chủng sinh
và toàn thể Anh Chị Em Giáo Dân
Anh chị em thân mến,
Năm 2000 đang mở ra trước mắt chúng ta viễn tượng về một thế giới mới đầy hy vọng và lo âu. Hy vọng vì những thành tựu khoa học mới đạt được, vì con người ngày càng được tôn trọng, vì những liên hệ quốc tế ngày càng phát triển… Lo âu vì tệ nạn xã hội lan tràn, vì những bùng nổ chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, vì những căn bệnh nan trị đang đe dọa thế giới, vì sự xuống cấp của các chuẩn mực đạo đức…
Để ta có đủ hành trang thiêng liêng, an tâm bước vào thiên niên kỷ mới, Mẹ Hiền Giáo Hội đã chuẩn bị cho ta hưởng một năm tràn trề hồng ân Thiên Chúa. Trước thềm Năm Thánh 2000, chúng tôi, các Giám mục trong cả nước Việt Nam đang họp Hội nghị Thường niên 1999, xin gửi đến anh chị em lời chào chúc: HÃY VUI LÊN ! …
1. TRONG BA NGÔI THIÊN CHÚA
Hãy vui lên, vì nhìn lại 2000 năm qua, ta thấy lịch sử nhân loại là lịch sử của tình yêu và hồng ân. Vũ trụ ngập tràn ơn lành của Thiên Chúa. Đời sống được bao phủ trong tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến nỗi “đã ban cho ta chính Con Một của Người để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Ơn Cứu độ đến nhờ Đức Giêsu Kitô chịu chết để đền tội cho ta: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội chúng ta.” (1Ga 4,10).
Vì vâng phục và vì yêu thương, Đức Giêsu Kitô đã chấp nhận sống kiếp người phàm. Người đến mở ra một kỷ nguyên mới: Nhân loại được vinh dự đón tiếp Thiên Chúa, xác phàm được mang lấy Thần linh, con người tội lỗi được đón nhận ân sủng.
Đức Giêsu Kitô mang đến một sự sống mới dồi dào phong phú (x. Ga 10,10). Khi trả lại cho con người địa vị làm con Thiên Chúa, Người đã nâng cao phẩm giá con người. Khi ban Thánh Thần, Người cho con người được tham dự vào chính nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc, nguồn mạch niềm vui của chính Thiên Chúa. Sự sống ấy luôn sung mãn. Hạnh phúc ấy luôn đầy tràn. Niềm vui ấy luôn tươi mới.
2. TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ
Hãy vui lên, vì hôm nay Đức Giêsu Kitô vẫn đang đến. Người hiện diện trong từng trang Kinh Thánh. Người đang ngỏ lời qua những biến cố lịch sử. Người đang nhắn nhủ qua những người anh em sống quanh ta. Người đang thì thầm trong sâu thẳm lòng ta.
Người đang đến qua Giáo Hội mà Người đã thiết lập. Qua Giáo Hội, Người tiếp tục hiện diện để cứu độ, chăm sóc, dạy dỗ và ban ơn cho ta.
Người hiện diện nơi những người bé nhỏ, nghèo hèn, cô đơn, bệnh tật, bị khinh miệt, bị loại trừ, sống ngoài lề xã hội (x Mt 25, 40).
Một cách đặc biệt, Người đang đến trong Bí tích Thánh Thể. Qua Bí tích Tình Yêu này, ta được tiếp xúc trực tiếp với Người, vì Người thực sự hiện diện để hiến mình cho ta, để tỏ bày với ta một tình yêu lớn lao, mãnh liệt đến hy sinh mạng sống vì ta. (Ep 5,12).
Trong Năm Thánh, Giáo Hội mời gọi ta hãy siêng năng đến với Bí tích Thánh Thể.
Đến để múc lấy sự sống thần linh trào ra từ trái tim yêu thương bị đâm thâu vì chúng ta. Sự sống ấy tuôn đổ vào tâm hồn ta một niềm vui thanh khiết và một niềm bình an sâu xa.
Đến để kết hiệp với Đức Giêsu Kitô một cách thân mật trọn vẹn: Ta ở trong Người và Người ở trong ta. Sự kết hiệp đem đến cho ta một niềm hạnh phúc vô biên nhưng đồng thời cũng mời gọi ta vào cuộc khổ nạn để cùng được vượt qua với Người.
Đến để hưởng nếm tình yêu của Người, một tình yêu tự hiến, yêu thương, phục vụ, hy sinh đến cùng. Nơi Bí tích Thánh Thể, ta múc lấy niềm vui tự hiến, để rồi đến lượt ta ra đi hiến mình cho tha nhân.
Hãy vui lên vì Người sẽ lại đến trong vinh quang. Người là tương lai của ta, một tương lai huy hoàng và vững chắc. Người là hy vọng, là cùng đích của ta. Ơn cứu độ của ta đạt đến đỉnh điểm nơi Người, khi Người quy tụ muôn loài dưới quyền thủ lãnh của Người. (x. Ep, 1, 3 – 10).
3. SÁM HỐI – GIAO HOÀ – CANH TÂN
Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh, ta cần có một số chuẩn bị.
Việc đầu tiên phải làm là sám hối. Vì trong quá khứ ta đã sai phạm nhiều. Có những lầm lỗi của cá nhân các tín hữu, các tu sĩ , các linh mục, các giám mục. Có những lầm lỗi tập thể của cả Giáo Hội, của từng giáo phận, của mỗi giáo xứ. Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa. Có những lầm lỗi vô tình khiến ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân ta và cho mọi người.
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh em. Phải hòa giải với anh em vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa, khiến anh em lìa xa Chúa và Giáo Hội. Phải hòa giải với anh em vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. (x. Mt 6,14-15). Phải hòa giải với anh em vì đó là ước nguyện của Đức Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần (x. Ga 17,21)
Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống. Sám hối càng sâu xa, đổi mới càng mãnh liệt. Với con người mới, ta hân hoan hưởng trọn niềm vui trong tình nghĩa với Thiên Chúa là Cha và với anh em con cùng một Cha trên trời. Với con người mới, ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ, để thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới, ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới với ơn thánh, với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.
4. DÂN CHÚA MỪNG NĂM THÁNH
Các linh mục, tu sĩ và chủng sinh hãy vui lên. Anh chị em được Thiên Chúa mời gọi cách đặc biệt để làm việc trong cánh đồng truyền giáo của thiên niên kỷ thứ III. Thiên Chúa muốn mở đầu thiên niên kỷ bằng một năm hồng ân. Anh chị em hãy tích cực cộng tác với Người bằng cách làm chứng về tình yêu của Người, một tình yêu vô vị lợi, dấn thân, phục vụ, quên mình. Hãy ra đi khắp các nẻo đường đem hồng ân Thiên Chúa đến cho mọi người. Hãy trở nên muối men chịu vùi sâu trong âm thầm, trong hy sinh để làm đẹp cuộc đời. Hãy biến thiên niên kỷ tới thành một thời gian của tình yêu thương, tình đoàn kết, tình bác ái huynh đệ.
Các cụ cao tuổi hãy vui lên, vì một lần nữa quý cụ được diễm phúc đón nhận dồi dào ơn Chúa ban qua Năm Thánh Cứu Độ này. Một lần nữa quý cụ được cảm nghiệm tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Thời gian qua mau nhưng Thiên Chúa luôn bền vững: “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một” (Dt 13,8). Quý cụ hãy bước vào Năm Thánh hăng hái mạnh dạn, như những chứng nhân về tình yêu trung thành của Thiên Chúa.
Các người cha trong gia đình, hãy vui lên! Vì Thiên Chúa đã ban cho quý ông được vinh dự phản chiếu dung nhan Người trên trần gian. Thiên Chúa là Cha nhân lành, đã muốn ban cho con cái muôn vàn ơn phúc trong Năm Thánh 2000 này – quý ông hãy giúp con cái đón nhận ân phúc của Thiên Chúa, và kiên tâm hướng dẫn con cái bước vào thiên niên kỷ mới trong sự nhận biết và niềm tin yêu đối với Cha trên trời.
Các bà mẹ hãy vui lên, vì Thiên Chúa đã dùng quý bà như chứng tá về tình yêu chăm sóc của Người đối với nhân loại. Tấm lòng từ mẫu, trái tim dịu dàng và sự kiên nhẫn hiền hòa của quý bà đã giúp bao thế hệ trẻ nên người đức hạnh. Trong ân phúc của Năm Thánh 2000, quý bà hãy tích cực cộng tác với Thiên Chúa làm cho thế giới trong thiên niên kỷ tới trở thành một thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người và sự bao dung tha thứ.
Các bạn trẻ hãy vui lên và hãy tin tưởng bước vào thiên niên kỷ mới. Hồng ân của Năm Thánh sẽ làm đẹp tuổi trẻ của các bạn. Đức Kitô chính là tuổi thanh xuân của các bạn. Hãy đến gặp Người để Người đổi mới các bạn. Hãy mở rộng tâm hồn để lắng nghe lời Người. Hãy mở rộng trái tim để Người rót vào một tình yêu mãnh liệt đượm màu vị tha, phục vụ, quên mình. Với tình yêu tươi mới của Đức Kitô, các bạn hãy mạnh dạn bước vào Năm Thánh 2000, để xây dựng một mùa xuân mới cho thế giới, một mùa xuân luôn tươi trẻ vì luôn chan chứa tình yêu.
Các em thiếu nhi hãy vui lên, vì các em là những mầm non được trồng vào thiên niên kỷ mới. Hãy đến lãnh nhận tình yêu thương và ân phúc Thiên Chúa dành riêng cho các em trong Năm Thánh này. Hãy tắm gội trong ơn thánh. Hãy nép mình vào tình yêu Thiên Chúa. Hãy chăm lo học tập và rèn luyện đạo đức, để nên giống như Đức Giêsu bé thơ càng thêm tuổi “càng thêm khôn ngoan, và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và loài người” (Lc 3,52). Như thế, các em sẽ có thể góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp trong ngàn năm đang tới.
Anh chị em đau yếu, khổ cực, buồn phiền, bị bỏ rơi hãy vui lên, vì anh chị em là hình ảnh của Đức Giêsu Kitô trong cuộc khổ nạn. Những đau khổ anh chị em đang phải gánh chịu là hiệp thông với những đau khổ của Đức Giêsu Kitô, đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới. Lời cầu nguyện của anh chị em có sức mạnh đặc biệt để kéo ơn Chúa xuống cho mọi người, và những hy sinh của anh chị em góp phần tích cực vào việc truyền giáo. Anh chị em chính là đối tượng của những ơn lành trong Năm Thánh như lời Kinh Thánh: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
5. NGỢI KHEN CHÚC TỤNG
Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa vì biết bao kỳ công Người đã thực hiện cho chúng ta. Chúc tụng ngợi khen vì kỳ công vĩ đại là Người đã sai Đức Giêsu Kitô đến với nhân loại và đã phục sinh Đức Giêsu Kitô từ trong kẻ chết. Chúc tụng ngợi khen vì chúng ta là những kỳ công của Thiên Chúa, vì Người luôn đổi mới ta, đặc biệt bằng tuôn đổ trên ta hồng ân của Năm Thánh cứu độ này.
6. TRUYỀN GIÁO
Trong niềm hân hoan vì được yêu thương và được cứu độ, ta hãy hăng hái ra đi làm chứng về tình yêu thương của Thiên Chúa.
Hãy đem Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ, đem niềm hy vọng đến cho những người thất vọng, đem niềm tin đến cho những người chưa tin, đem niềm vui đến cho những người sầu khổ, đem tình yêu đến cho những người bị loại trừ, đem sự hòa giải đến cho những người đang thù oán, đem sự giải thoát đến cho những người bị mặc cảm, đem sự kính trọng đến cho những người bị khinh khi, đem ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người.
7. THỰC HÀNH
Thông thường, khi đề cập đến Năm Thánh, người ta thường nghĩ đến ơn toàn xá. Thực ra ơn toàn xá chỉ là một phần thực hành của Năm Thánh. Theo những quy định của Tòa Thánh, để được hưởng ơn toàn xá, cần phải sạch tội. Nhất là phải có thái độ dứt khoát với mọi quyến luyến tội lỗi. Vì thế, cần phải xưng tội riêng. Có thể xưng tội trước ngày lãnh ân xá một tháng, nhưng chính ngày lãnh ơn toàn xá, phải rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, như bằng chứng của sự hiệp nhất với Giáo Hội.
Đó là những điều kiện thông thường để được hưởng ơn toàn xá. Tuy nhiên, thường phải làm một việc Hội Thánh chỉ định kèm theo.
Ngày 29/11/1998 Tòa Xá Giải đã công bố những việc làm có thể giúp hưởng ơn toàn xá trong năm thánh. Đó là:
1/ Hành hương: viếng một nhà thờ hay một nơi được chỉ định
Nếu tín hữu viếng nhà thờ Chánh tòa, một nhà thờ hay một nơi Đấng Bản Quyền chỉ định, ở đó họ sốt sắng tham dự thánh lễ hoặc một cử hành phụng vụ hay một việc đạo đức nào đó (như đi Đàng Thánh Giá, chầu Thánh Thể, lần hạt, cầu nguyện), và kết thúc bằng một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng hay một lời kêu cầu dâng lên Đức Mẹ, một kinh Tin Kính hay một công thức tuyên xưng đức tin hợp pháp nào khác.
Nếu có ngăn trở bất khả kháng không thể hành hương được, tín hữu có thể viếng nhà nguyện hoặc nhà thờ tại địa phương của mình.
2/ Việc bác ái tông đồ
Thăm viếng những người đang sống trong cảnh túng nghèo quẫn bách, bệnh tật, tù đày, già cả, cô đơn, khuyết tật… là hành hương về với Đức Kitô (x. Mt 25, 34-36). Việc này có thể thực hiện bất cứ lúc nào, và mỗi lần đều được ơn toàn xá. Nhưng nên nhớ mỗi ngày chỉ có thể lãnh được một ơn toàn xá. Nên nhường những ân xá cho các linh hồn nơi luyện ngục. Đó chính là một việc bác ái đẹp lòng Chúa.
3/ Việc sám hối, hy sinh
+ Những việc sám hối, hy sinh được coi như linh hồn của Năm Toàn Xá. Đó có thể là kiêng khem trọn ngày những gì không cần thiết, hoặc giữ chay theo luật Hội Thánh.
+ Cũng có thể hy sinh bằng cách dùng một số tiền để giúp người nghèo hay đóng góp vào những công trình tôn giáo, xã hội.
+ Dùng thời giờ rảnh rỗi làm những việc có ích lợi cho cộng đồng.
Tất cả những việc ấy đều có thể giúp ta nhận được ơn toàn xá.
8. NOI GƯƠNG ĐỨC MARIA
Hãy vui lên. Lời chào chúc ấy hướng lòng ta về Đức Maria như mẫu gương về việc biết đón nhận ơn Chúa. Hai ngàn năm trước, Đức Maria đã ngoan ngoãn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, khiêm tốn phục tùng thánh ý Chúa Cha, nên đã đón nhận được tràn đầy ơn phúc và đã được đón nhận chính Đức Giêsu Kitô nguồn mạch mọi ơn phúc. Bước vào Năm Thánh, chúng ta hãy biết noi gương Người, kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu, tìm vâng phục thánh ý Chúa Cha, theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để xứng đáng lãnh nhận những ơn rất phong phú mà Chúa muốn ban cho ta.
Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng ta sống trọn vẹn Năm Thánh cứu độ trong tình yêu mến. Xin các Ngài dâng lời cầu nguyện và các việc lành của chúng ta lên Thiên Chúa.
Kính chúc anh chị em được hưởng trọn vẹn những ơn ích do Năm Thánh đem lại và biết dùng ơn Chúa ban để hăng hái phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại.
Nha Trang, ngày 16 tháng 10 năm 1999
Tổng Thư ký HĐGMVN Chủ tịch HĐGMVN
(đã ký) (đã ký)
+ Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
2020
Thư Chung năm 1998 của Hội đồng Giám mục Việt Nam
THƯ CHUNG NĂM 1998
HƯỚNG VỀ NĂM THÁNH 2000
Kính gửi các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các chủng sinh và toàn thể anh chị em giáo dân.
1. Anh chị em thân mến,
Họp nhau trong Chúa Thánh Thần, các Giám mục chúng tôi hân hoan gởi đến anh chị em lời chào hỏi thân tình nhất trong Chúa Kitô, đồng thời cũng gửi đến anh chị em một số thông tin về cuộc Đại Hội thứ bảy (1998) của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN), và về Hội Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục Châu Á (THĐGM/CA). Tiếp đến chúng tôi sẽ triển khai một số điểm trong sứ điệp của THĐGM gửi cho mọi thành phần Dân Chúa tại Châu Á và sau hết để hướng tâm hồn vào việc chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000.
I. THÔNG TIN
A. Về Đại hội thứ 7 của HĐGMVN
2. Đại hội năm nay đã họp tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội từ ngày 11 đến ngày 17 tháng 10 năm 1998. Hiện diện có 25 Hồng Y, Tổng Giám mục, Giám mục và 2 linh mục Giám quản; 7 Giám mục vắng mặt vì lý do tuổi tác hay sức khỏe. Đại hội đã diễn ra tốt đẹp và là một thời gian ân sủng đặc biệt cho chúng tôi. Chúng tôi đã cầu xin ánh sáng Chúa Thánh Thần và cảm nhận thật sâu xa tình liên đới với anh chị em.
Trong Đại Hội, chúng tôi đã chia sẻ với nhau đặc biệt về các vấn đề sau đây:
a. Những sinh hoạt mục vụ tại các Giáo phận.
b. Thành quả của THĐGM Châu Á diễn ra tại Roma từ ngày 19-4-1998 đến ngày 14-5-1998.
c. Thành công của Đại hội La Vang và chương trình ngày lễ bế mạc trong năm 1999.
d. Việc chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000.
đ. Cuối cùng chúng tôi đã bầu Ban Thường Vụ mới của HĐGMVN nhiệm kỳ 1998-2001.
B. Về Hội Nghị THĐGM Châu Á
3. Anh chị em đã nghe nhiều về Hội Nghị này. Đây là một biến cố quan trọng cho lục địa Châu Á rộng lớn, vừa đa dạng về tôn giáo, vừa phong phú về văn hóa, nếp sống và phong tục, đồng thời cũng đang phải đối diện với nhiều vấn đề mới phát sinh do sự biến đổi nhanh chóng trong các lãnh vực.
Ở đây chúng tôi chỉ muốn nêu lên mấy nét chính về phần đóng góp của HĐGMVN.
a. Thời gian chuẩn bị Hội nghị, Đức Cha Phaolô Nguyễn văn Hòa đã được mời tham gia Ủy ban trù bị trung ương. HĐGMVN đã gửi một bản góp ý được dư luận thế giới chú ý.
b. Trong Hội nghị, các Giám mục Việt Nam đã trình bày những kinh nghiệm đạt được trong lãnh vực giáo lý, những thực hành mục vụ theo chiều hướng hội nhập văn hóa và đáp ứng các nhu cầu của xã hội. Tựu trung chúng tôi đã nêu lên mấy chủ đề:
1.- Làm sao nói với Thiên Chúa Cha và Hội Thánh trong khung cảnh nền văn hóa của xã hội Việt Nam vốn lấy gia đình làm nền tảng.
2.- Làm sao nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần nơi mọi người thành tâm thiện chí, đặc biệt nơi các tôn giáo bạn (x. GH 16).
3.- Làm sao để việc tôn kính ông bà, tổ tiên giúp người ta nhận biết Thiên Chúa, và hiểu rõ hơn về đạo hiếu của người Công giáo Việt Nam.
Chúng tôi cũng đã góp tiếng nói của mình vào trong sứ điệp của THĐ gởi đến mọi thành phần Dân Chúa tại Châu Á.
II. TRIỂN KHAI MỘT SỐ ĐIỂM TRONG SỨ ĐIỆP CỦA THĐGM/CA
Trong bức thư này chúng tôi muốn nêu lên mấy điểm chính yếu của sứ điệp của THĐ và gợi ý để anh chị em ứng dụng vào cuộc sống cụ thể của chúng ta.
4. Vai trò của giáo dân
Hàng giáo dân có một vai trò quan trọng trong Hội Thánh. Có nhiều dấu hiệu chứng tỏ Thánh Thần đang chuẩn bị giáo dân đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong ngàn năm sắp tới. Nhiều cá nhân và đoàn thể tín hữu đang tham gia năng động và hăng say trong công cuộc Phúc âm hóa cũng như xây dựng Hội Thánh tại các địa phương.
Từ thời Hội Thánh sơ khai tại Việt Nam, chính giáo dân Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc linh hoạt đời sống cộng đoàn tín hữu. Lý do không phải vì thiếu linh mục, mà chủ yếu là do người giáo dân đã ý thức về vai trò của mình trong Hội Thánh.
Từ Công Đồng Vatican II đến nay, vai trò của người giáo dân càng ngày càng được khẳng định rõ hơn. Anh chị em hãy nhiệt thành hơn trong việc phục vụ cộng đoàn giáo xứ và giáo dục thanh thiếu niên nên người Kitô hữu chân chính, nhằm xây dựng cộng đoàn giáo xứ thành một gia đình có Thiên Chúa là Cha và tất cả là anh chị em trong Chúa Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần liên kết.
5. Sứ mạng của anh chị em là đem ánh sáng Tin Mừng vào mọi lãnh vực của cuộc sống qua các sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Sứ mạng ấy đòi anh chị em phải tích cực dấn thân trong mọi ngành nghề để xây dựng cộng đồng xã hội với một tâm hồn đầy Chúa Kitô.
Xã hội chúng ta đang bị tấn công bởi nhiều tệ nạn, do tác động của lối sống hưởng thụ và của nạn nghèo đói. Hiện tượng có nhiều người bỏ thôn quê ra thành thị đặt ra nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề luân lý. Chính anh chị em phải tự bảo vệ mình và con cái, đồng thời giúp người khác tránh khỏi các tệ nạn xã hội và sống xứng phẩm giá con người. Nhờ có mặt trong mọi lãnh vực nên anh chị em mới có thể góp phần bảo vệ môi trường, môi trường thiên nhiên và nhất là môi trường đạo đức.
Chính sự tích cực dấn thân như thế của anh chị em cùng với đồng bào cả nước là cơ sở thực tiễn cho một cuộc đối thoại, có khả năng đưa tới sự hiểu biết, tôn trọng và yêu thương nhau giữa những con người Việt Nam, dù có tín ngưỡng hay không, dù theo tôn giáo này hay tôn giáo khác. Yêu thương và hiệp nhất là đặc điểm của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô và cũng là điểm gặp gỡ sâu xa nhất giữa Tin Mừng và văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa vốn lấy nghĩa đồng bào và đạo hiếu trung làm nền tảng cho đạo đức xã hội.
6. Để chuẩn bị và giúp cho anh chị em dấn thân như thế, anh chị em cần tích cực hợp tác với các linh mục để tổ chức và tham gia các chương trình giáo lý đặc biệt cho từng lứa tuổi, lấy việc chia sẻ kinh nghiệm sống Lời Chúa làm sợi dây liên kết, giúp cảm thông và nâng đỡ nhau.
Hơn nữa, “sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc” (x. Thư chung 1980) vốn thấm nhuần một truyền thống tôn giáo thiên về chiêm niệm, anh chị em cũng được mời gọi khám phá và sống chiều kích chiêm niệm của Chúa Kitô một cách sâu xa hơn. Là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi đi theo Ngài không phải chỉ trong hoạt động mà cả trong chiêm niệm nữa. Chiêm niệm không phải chỉ dành riêng cho các tu sĩ, mà là một chiều kích của ơn gọi Kitô hữu. Chiêm niệm trước hết là đào sâu lòng khao khát Thiên Chúa (x. Tv 41, 2-3). Muốn thế ta hãy lắng nghe và suy niệm Lời Chúa theo gương Mẹ Maria đã ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2,19).
Lòng khao khát Thiên Chúa như thế sẽ là sức mạnh giúp chúng ta sống cuộc sống dương thế, là ánh sáng soi cho chúng ta biết chọn lựa, quyết định trong mọi hoàn cảnh: “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105).
7. Vai trò của gia đình
“Gia đình là Hội Thánh tại gia giữa lòng cộng đồng Kitô. Gia đình là trường học đầu tiên. Cha mẹ là những người giáo dục đầu tiên. Sách giáo khoa đầu tiên là những quan hệ trong gia đình, giữa cha mẹ với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa gia đình này với gia đình khác”. (SĐTHĐGM/CA. Số 5).
Gia đình là Hội Thánh tại gia, là đơn vị căn bản của Hội Thánh. Gia đình là cộng đoàn thờ phượng và sống đạo, là nơi thể hiện và phát triển lòng tin, cậy, mến. Những bài học đầu tiên về cầu nguyện, về mến Chúa yêu người, đều được học và dạy ở dưới mái gia đình.
Việc cầu nguyện trong gia đình và việc kiểm điểm đời sống hằng ngày giúp cho gia đình yêu thương và sống hiệp nhất. Chính bầu khí yêu thương đầm ấm trong gia đình: vợ chồng chung thủy, con cái hiếu thảo, anh chị em hòa thuận, là trường dạy yêu mến. Người ta học biết yêu thương nhờ được yêu thương.
Vậy các gia đình hãy canh tân việc đọc kinh cầu nguyện, đặc biệt dành thời giờ cho việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa như THĐGM/CA nhắc nhở: “Lời Chúa cần có chỗ trung tâm trong đời sống chúng ta và phải nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta. Sách Thánh không phải là một cuốn sách thông thường, nhưng đúng hơn là Tiếng Nói hằng sống của Thiên Chúa hằng sống” (số 5). Chúng tôi khuyến khích việc liên đới giữa các gia đình, nhất là các gia đình trẻ, để giúp nhau vượt qua khó khăn và phát triển đời sống gia đình.
8. Vai trò của phụ nữ
“Một trong những dấu chỉ có ý nghĩa của thời đại chúng ta hôm nay là sự thức tỉnh của ý thức người phụ nữ về phẩm giá của họ và về sự bình đẳng với nam giới” (SĐTHĐGM/CA. số 5).
Trong xã hội Việt Nam, người phụ nữ đã đóng góp rất nhiều, và nhiều khi có vai trò quyết định: quán xuyến mọi việc trong gia đình, nuôi dạy con cái, nhiều người đã có công với cả xã hội và Đất Nước. Nhưng hiện nay vẫn còn tồn tại não trạng “trọng nam khinh nữ”, vẫn còn những tệ nạn làm hạ phẩm giá người phụ nữ, như nạn phá thai và mãi dâm. Trong Hội Thánh, người phụ nữ luôn góp phần trong việc giáo dục con cái và xây dựng cộng đoàn và đã cống hiến những người con ưu tú để phục vụ Hội Thánh: trong đời sống gia đình, đời tu trì và linh mục. Song chúng ta chưa phát huy đủ vai trò của phụ nữ trong cộng đoàn, trong các công tác phục vụ Giáo Hội.
9. Vai trò của giới trẻ
Thượng Hội Đồng Giám Mục về Châu Á đã nói về giới trẻ như sau: “Giới trẻ là tương lai của Châu Á và của Hội Thánh. Nhu cầu hiện nay là Hội Thánh cống hiến cho giới trẻ sự huấn luyện mà họ cần đến… Trong nhiều Giáo Hội địa phương, các bạn trẻ đã chứng tỏ có nhiều khả năng trong công cuộc Phúc âm hóa và chuẩn bị một tương lai tốt đẹp hơn cho Hội Thánh và xã hội” (SĐTHĐGM/CA. số 5).
Dó đó, sự thật hiển nhiên là giới trẻ hôm nay thế nào thì Đất Nước và Hội Thánh Việt Nam ngày mai sẽ như vậy. Bởi thế, chúng tôi xin các bạn trẻ hãy ý thức và đảm nhận vai trò của mình mà xây dựng “ngôi nhà chung tương lai” của nhân loại. Xây dựng ngôi nhà tương lai trước hết là xây dựng chính bản lãnh của chính mình hầu đạt tới mức trưởng thành. Nhờ đó thực thi nghĩa vụ cùng quyền lợi trong tinh thần tự do chân chính và có trách nhiệm cao độ.
Để xây dựng tương lai cho Đất Nước và Hội Thánh, các bạn cần trau dồi đạo đức và trí thức hầu tích cực phục vụ hơn. Các bạn nên nhớ rằng khi cầu tiến trong lãnh vực học thức, thì cũng phải cần kiện toàn trong lãnh vực nghề nghiệp để có thể phục vụ với tinh thần khiêm tốn vô vị lợi. Thời nào cũng cần đến những con người tài đức và trung hiếu, luôn biết coi trọng chữ tín.
Các bạn trẻ miền nông thôn cũng như các bạn trẻ ở thành thị đều cùng có trách nhiệm, tùy theo điều kiện sống đặc thù của mình, mà phát huy bản chất, tài năng và ơn gọi để tham gia việc thăng tiến xã hội về nhiều mặt kinh tế, văn hóa… Vì chính các bạn trẻ mới là chủ đề năng động trong công cuộc xây dựng hòa bình và hạnh phúc. Tông huấn “Kitô hữu giáo dân” (Christifideles laici) đã đánh giá giới trẻ cách xác đáng: “Nhờ sự nhạy bén, giới trẻ nhận thức sâu xa những giá trị về công bình, bất bạo động, hòa bình … Tâm hồn người trẻ biết rộng đón tình huynh đệ, tình bằng hữu và tình liên đới. Giới trẻ biết động viên để cổ võ việc nâng cao phẩm chất cuộc sống và bảo vệ thiên nhiên” (KHGD, số 46).
10. Trách nhiệm của các bạn trẻ thực cao quý và khó khăn, song các bạn vẫn luôn có Đức Kitô, Đấng luôn đồng hành với các bạn. Vì là Kitô hữu, các bạn sẽ đồng hành với Đức Kitô nhờ các hành trang thiêng liêng: đó là các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, bí tích Hòa giải. Thêm vào đó, các bạn trẻ còn được hỗ trợ bởi Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, một khi các bạn thành tín cầu nguyện và có thiện chí đón nhận những chỉ dẫn của các bậc phụ huynh từng trải kinh nghiệm.
Nói đến việc lắng nghe và hợp tác với các bậc hữu trách trong gia đình và Hội Thánh thì chúng tôi cũng nhận ra mối khó khăn do khoảng cách giữa giới trẻ và lớp người cao tuổi. Đó là những dị biệt về tầm nhận thức, về lối ứng xử, về nguyện vọng giữa các lứa tuổi, khiến các bạn trẻ đôi khi không mấy an tâm. Nhưng với truyền thống vốn biết dung nạp và sẵn có tinh thần hiếu đễ trong nếp sống gia đình Á Đông, các bạn trẻ có thể vận dụng đức mến Kitô giáo của mình để sống hài hòa như lời Thánh Phaolô đã khuyên nhủ sau đây: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7).
11. Về những anh chị em di dân lập nghiệp. “Cần phải chú ý đặc biệt đến những anh chị em lao động di dân” (SĐHĐGM/AC, số 5)
Hiện nay trên Đất Nước chúng ta, việc di dân lập nghiệp ngày càng gia tăng từ Bắc vào Nam, từ tỉnh này sang tỉnh khác, từ nông thôn đổ về thành thị. Hiện tượng này thực sự tạo nên những thách đố, nhất là đối với giới trẻ về các vấn đề luân lý, tình yêu, hôn nhân, gia đình. Họ đạo và các cộng đoàn tín hữu địa phương cần quan tâm giúp đỡ các anh chị em này trong tình yêu thương và tương trợ.
Nói đến trào lưu di dân lập nghiệp, chúng tôi không thể không đề cập đến nơi xuất phát của nó là nông thôn. Trong nỗ lực đô thị hóa và hiện đại hóa đất nước, nông thôn là khu vực còn đang chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế, văn hóa, xã hội. Các nước trên đường phát triển đều phải đương đầu với vấn đề này. Chính anh chị em ở nông thôn cần ý thức về điểm này để cùng nhau vươn lên.
12 . Vai trò của giới trí thức
Với anh chị em trí thức đang dấn thân trong lãnh vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế, xã hội, y khoa, giáo dục … chúng tôi tự hào về những đóng góp của anh chị em cho xã hội. Chính sự có mặt của anh chị em trong các lãnh vực này là một cách làm chứng cho Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người và trao cho sứ mạng quản lý trái đất; đồng thời làm chứng rằng đức tin và khoa học chân chính không mâu thuẫn nhau. Chúng tôi ước mong rằng chính đức tin, đức cậy và đức mến vừa soi sáng vừa thúc đẩy anh chị em dấn thân tích cực hơn nữa để đem khoa học phục vụ sự sống và làm chứng cho Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót hằng muốn cho mọi người được sống và sống dồi dào.
Trong nhiều lãnh vực của cuộc sống, Hội Thánh cần sự đóng góp của anh chị em là những người có nhiều khả năng lãnh hội và suy tư.
13. Đối thoại tôn giáo và hội nhập văn hóa
Công Đồng Vatican II dạy rằng: trong các tôn giáo ngoài Kitô giáo có tiềm ẩn hạt giống Lời Chúa và ánh sáng chân lý. Vậy khi làm chứng tá cho đức tin Kitô giáo, chúng ta hãy tôn trọng các giá trị tinh thần và đạo đức của các tôn giáo bạn. Các thành phần Dân Chúa hãy đi vào con đường đối thoại và hợp tác với các tín đồ các tôn giáo hầu góp phần xây dựng một xã hội công bằng hơn, huynh đệ hơn (NK 2).
Chúng tôi đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hội nhập văn hóa, ngõ hầu Hội Thánh trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn về thực thể của mình và trở nên một công cụ hữu hiệu hơn cho sứ vụ của mình (SĐTHĐGM/CA số 5)
Hội nhập văn hóa không phải là chạy theo “mốt thời đại”, cũng không phải là hoài cổ, nhưng là tìm ra những điểm gặp gỡ giữa Tin Mừng và hồn dân tộc, để xây dựng một nếp sống diễn tả đức tin ngày càng phù hợp hơn với nền văn hóa dân tộc.
14. Vai trò của các tu sĩ
“Chứng tá của những cộng đoàn đan viện và chiêm niệm là hết sức cần thiết để mạc khải dung mạo đích thực của Chúa Giêsu; cũng thế, đời sống và việc làm của những người tận hiến nam nữ cũng rất cần thiết” (SĐTHĐGM/CA)
Suốt dòng lịch sử gần 400 năm của Hội Thánh tại Việt Nam, các tu sĩ đã đóng góp một phần rất quan trọng trong việc loan báo Tin Mừng. Từ khởi đầu, các thầy giảng và những chi em nữ tu Dòng Mến Thánh Giá đã xuất hiện. Đó là những hoa quả đầu mùa của đời sống thánh hiến càng phong phú và hiện nay như đang nở rộ.
Với các tu sĩ nam nữ, Tông huấn “Đời Sống Thánh Hiến” mời gọi anh chị em đem cả cuộc đời để làm vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi, tỏa ánh vinh quang của Chúa Giêsu Kitô. Chứng tá trước hết là chính đời sống anh chị em. Mọi hoạt động của anh chị em chỉ có ý nghĩa chứng tá khi xuất phát từ sự kết hợp sâu xa với Thiên Chúa Ba Ngôi và biểu lộ chính tình yêu của Thiên Chúa: “Người loan báo Tin Mừng phải là một nhà chiêm niệm trong hoạt động” (SVĐCC số 91).
Xã hội vẫn có những người làm công tác xã hội, giáo dục mà không cần phải là tu sĩ. Do đó, phần cống hiến đặc thù của anh chị em là Đức Kitô và tình yêu của Ngài (x.ĐSTH s.17-22)
Lời khấn nghèo khó nhắc nhở anh chị em theo gương Chúa Giêsu trở nên người nghèo sống giữa người nghèo, vì người nghèo, đặc biệt biết quan tâm đến mọi hình thức nghèo khổ còn đang tồn tại trên đất nước chúng ta.
Các tu sĩ sống đời chiêm niệm, có chức năng “biểu lộ Chúa Giêsu đang cầu nguyện trên núi” (GH, 46). Từ truyền thống xa xưa của tôn giáo, đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam, đời tu luôn gắn liền với chiêm niệm, biểu lộ lòng khao khát đi sâu vào huyền nhiệm Tuyệt Đối. Đó cũng là nét chung của các dân tộc Châu Á, nên THĐGM/CA đã nói: “Chứng tá của những cộng đoàn đan viện và chiêm niệm hết sức cần thiết để mạc khải dung mạo đích thực của Chúa Giêsu” (s.5).
15. Vai trò của các linh mục
“Những người Kitô hữu tại Châu Á cần có những mục tử sốt sắng, và những vị hướng dẫn thiêng liêng, chứ không phải chỉ thuần túy là những người quản trị hữu hiệu. Mẫu gương cá nhân của những nhà giáo dục có một vai trò quan trọng trong tiến trình huấn luyện” (SDTHDGM/CA, s. 5.).
Anh em là những cộng tác viên thân tín của chúng tôi, cùng chia sẻ trách nhiệm mục vụ với chúng tôi. Chúng ta hãy sống trong tình hiệp nhất. Là những “cộng tác viên của Thiên Chúa” (IT x 3,2) trong công việc chăn dắt đoàn chiên của Chúa và loan báo Tin Mừng, chúng ta phải trở nên “những mục tử như lòng Chúa mong muốn” (x.Gr 3, 15), trước hết bằng cách mang lấy trái tim của Chúa Kitô, Đấng đã “yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5, 25) và cư xử theo lời thánh Phêrô: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã trao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5, 2-4).
16. Chúng ta phải lo cho đoàn chiên hiệp nhất, vì Chúa Giêsu đã thí mạng sống để quy tụ đoàn chiên (x. Ga 11, 51-52) và đã tha thiết cầu xin Cha cho đoàn chiên nên một “để cho thế gian nhận biết là chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (Ga 17, 23).
Là người của hiệp nhất, chúng ta phải cổ võ sự hòa hợp của tín hữu với cộng đồng dân cư, không phân biệt tôn giáo , sắc tộc. Đó cũng là một mối phúc: “Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật”.
17. Chúng ta hãy khơi dậy và đón nhận sự hợp tác của giáo dân trong việc phục vụ cộng đoàn Dân Chúa, hãy cổ võ sự thăng tiến phụ nữ trong xã hội và Hội Thánh, tạo điều kiện cho họ tham gia vào việc điều hành và linh hoạt đời sống của họ đạo.
Hãy lấy lòng yêu mến mà gần gũi, cảm thông giới trẻ, giúp họ nâng cao trình độ văn hóa và trưởng thành trong đức tin để có thể giúp họ sống quảng đại, biết phục vụ mọi người và tham gia tích cực vào các sinh hoạt trong họ đạo.
Trách nhiệm mục tử đòi chúng ta quan tâm đến các gia đình trẻ, giúp họ liên đới với nhau để vượt qua thử thách và trở nên những gia đình Kitô hữu đích thật.
Chúng ta phải quan tâm cổ võ và nuôi dưỡng ơn gọi tu sĩ và linh mục để đoàn chiên luôn có người hiến thân phục vụ.
18. Anh em hãy đặc biệt quan tâm đến người nghèo, đến tình trạng nông thôn để giúp phát triển và nâng cao đời sống về mọi mặt. Anh em hãy nhớ lại điều các tông đồ dặn nhau khi phân công để lo cho người gốc Do Thái và người gốc dân ngoại: “Chỉ có điều này là chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu…” (Gl 2,10). Quan tâm đến người nghèo là đặc điểm của Hội Thánh và của các mục tử kế thừa công việc của các tông đồ, vì Chúa Giêsu đã được “xức dầu tấn phong để loan báo Tin Mừng cho người nghèo” (Lc. 4,18). Cách riêng các anh em đang phục vụ ở nông thôn hãy quan tâm đến tình trạng nghèo đói, lạc hậu của những người chung quanh, đừng thu mình trong phòng thánh.
19. Sau hết, chúng ta phải nhớ mình vừa phải chăn dắt đoàn chiên, vừa phải loan báo Tin Mừng.
Đừng để cho nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên làm cho mình sao lãng việc loan báo Tin Mừng. Nhiệm vụ này là của cả Hội Thánh, nên chúng ta phải khơi dậy trong các tín hữu lòng hăng say loan báo Tin Mừng cho đồng loại, “vì đây là việc phục vụ hàng đầu mà Hội Thánh có thể dành cho mỗi người và toàn thể nhân loại hôm nay, một thế giới đã đạt được những cuộc chinh phục vĩ đại, nhưng dường như đã đánh mất ý nghĩa những thực tại tối hậu và ý nghĩa sự hiện hữu của mình” (SVĐCC, s.3). Đàng khác “sứ vụ loan báo Tin Mừng, canh tân Hội Thánh, tăng cường niềm tin và căn tính người Kitô hữu, đem lại nguồn diệu cảm mới và những động lực mới. Khi đem chia sẻ, thì niềm tin càng vững mạnh” (SVĐCC,s.2). Muốn cho cộng đoàn tín hữu sốt sắng hãy thôi thúc lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng.
III. HƯỚNG VỀ NĂM THÁNH 2000
20. Tiến trình đổi mới tâm hồn
Chúng ta sắp bước vào năm cuối cùng của 3 năm chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000. Chúng ta hãy tích cực đẩy mạnh tiến trình đổi mới tâm hồn theo lời thánh Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa; cái gì là tốt , cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).
Đề tài cho năm 1999, năm cuối của ba năm chuẩn bị, là về Thiên Chúa Cha. Có thể nói trong giáo lý và đời sống của chúng ta, chúng ta chưa nhấn mạnh đủ về Thiên Chúa là Cha. Đây chính là đỉnh cao của mạc khải về Thiên Chúa. “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Ngài không chỉ nói cho biết về Cha của Ngài, nhưng còn cho chúng ta được gọi Cha của Ngài là Cha của chúng ta (x.Ga 20,17), và cho ta thấy Chúa Cha khi chiêm ngắm Ngài (x.Gl 4,6). Chúa Thánh Thần được gởi vào lòng chúng ta để kêu lên: “Abba, Cha ơi” (x.Gl 4,6) và dẫn dắt chúng ta sống làm con Thiên Chúa (x.Rm 8,14).
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã nhận It-ra-en là “con đầu lòng” (x.Xh 4,22), nhưng chưa bao giờ người ta dám trực tiếp gọi Thiên Chúa là Cha như Chúa Giêsu dạy chúng ta, họ chỉ dám nói: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Cha của chúng con” (Is 63,16; 65,8 ). Chỉ có Con Thiên Chúa đã làm người “vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta” mới có thể cho chúng ta gọi Cha của Người là Cha chúng ta. Đó là đỉnh cao của Tin Mừng, đó là điều an ủi nhất và là niềm vui lớn nhất mà Chúa Giêsu đem cho chúng ta nhờ cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Vậy trong năm 1999 này chúng tôi đề nghị anh chị em hãy học hỏi Tin Mừng nhiều hơn để biết về Thiên Chúa Cha như Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta; cách riêng: học hỏi, suy niệm và sống kinh “Lạy Cha”, lời kinh Chúa Giêsu dạy chúng ta và cách thức chúng ta phải sống làm con như thê nào, đồng thời mở rộng lòng chúng ta để đến với mọi người là anh chị em của chúng ta vì mọi người đều được mời gọi làm con Thiên Chúa.
21. Thưa toàn thể anh chị em,
Trong khi chờ đợi Tông huấn của Đức Thánh Cha đúc kết thành qủa của THĐGM/CA, chúng tôi mời gọi anh chị em đón nhận những suy nghĩ trên đây của chúng tôi, để hiệp thông với các Kitô hữu ở Châu Á, tích cực chuẩn bị tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với một đức tin mãnh liệt hơn, một lối sống có giá trị chứng tá hơn. Trong lúc mọi người đang huy động nội lực để xây dựng và phát triển, thì nội lực đức tin mạnh mẽ, đức ái năng động và lòng cậy trông vững bền giúp chúng ta đảm nhận trách nhiệm của mình, để cùng với mọi người chống lại sự ác và các tệ nạn xã hội, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc. Bằng cách đó, chúng ta có thể làm chứng về Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Đấng yêu thương loài người và muốn cho loài người được hạnh phúc. Chính vì tình yêu ấy, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ và loài người, đã ban Con Một cúa Ngài làm Đấng cứu chuộc loài người và ban Thánh Thần để đổi mới mọi sự. Đó là đức tin của chúng ta.
Chúng tôi cầu chúc anh chị em được đầy tràn “ân sủng của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2Cr 13,13). Chúng ta cùng nhau hướng về Đức Mẹ La Vang, Mẹ phù hộ các giáo hữu mà Giáo hội Việt Nam chúng ta đang cử hành kỷ niệm 200 năm Người hiện ra. Xin Mẹ đào tạo chúng ta trở nên những con người yêu thương và phục vụ như Chúa Kitô, những con người tràn đầy niềm hy vọng trong Chúa Thánh Thần, hân hoan sống Tin Mừng và nhiệt thành loan báo Tin Mừng.
Làm tại Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 1998
Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
và Các Giám Mục của anh chị em
2020
Thư Chung năm 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam
THƯ CHUNG NĂM 1980
Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi toàn thể linh mục, tu sĩ và giáo dân cả nước:
THÔNG TIN VỀ ĐẠI HỘI GIÁM MỤC TOÀN QUỐC
1. Trong tâm tình biết ơn
Anh chị em thân mến,
Anh chị em hãy cùng chúng tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về Hội nghị các giám mục toàn quốc, tổ chức tại Hà Nội, thủ đô Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng ta, từ 24-4 đến 1-5-1980.
Kể từ lúc thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam vào năm 1960, và nhất là từ ngày nước nhà được thống nhất, chúng ta đều ước mong có cuộc họp này. Toà Thánh và riêng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mỗi khi có dịp cũng luôn bày tỏ một tâm tình như vậy, diễn tả ý muốn của chính Công đồng Vatican II.
Vì thế chúng ta thành thật biết ơn Chính Phủ đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho Đại hội này. Chúng tôi cũng cám ơn anh chị em đã cầu nguyện nhiều cho Đại hội này được thành công tốt đẹp.
2. Một tuần lễ làm việc
Chúng tôi vui mừng được gặp nhau, và trong suốt một tuần lễ làm việc, chúng tôi được dịp hiểu biết tình hình giáo phận trong cả nước. Nhờ đó chúng tôi thấy rằng, mặc dù sống xa nhau, tâm hồn chúng tôi vẫn là một, và cùng chia sẻ những nỗi âu lo, niềm phấn khởi và nguyện vọng của toàn thể Dân Chúa trên đất nước thân yêu này.
Trong tinh thần hợp nhất ấy, chúng tôi đã cầu nguyện và suy nghĩ nhiều về nhiệm vụ của Giáo Hội chúng ta trong giai đoạn lịch sử này. Chúng tôi đã duyệt lại nội quy và đặt lại cơ cấu của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Chúng tôi cũng đã chuẩn bị việc tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới khoá V về “các chức năng của gia đình Kitô giáo trong thế giới hôm nay”, và việc các giám mục Việt Nam đi viếng mộ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô tại Toà Thánh Roma năm nay theo quy định của Giáo luật.
Trước khi bế mạc Đại hội, chúng tôi đã vào lăng kính viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, và đã đến yết kiến Thủ tướng Chính phủ.
3. Ý nghĩa việc đi Roma
Việc đi viếng mộ các Tông đồ và việc tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới tại Roma nói lên hai đặc tính của Hội Thánh Chúa Kitô là phổ quát và hợp nhất, đồng thời thể hiện tinh thần tập thể và đồng trách nhiệm của các giám mục đối với Hội Thánh toàn cầu. Xin anh chị em cầu nguyện nhiều để chúng tôi hoàn thành tốt đẹp sứ mạng này.
4. Tổ chức Hội đồng Giám mục Việt Nam
Chúng tôi cũng phải cùng nhau gánh vác mọi trách nhiệm của chức vụ giám mục trong tinh thần tập thể và đồng trách nhiệm. Bởi thế, việc thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam là để phục vụ anh chị em đắc lực hơn, vì như ý Công đồng Vatican II, Hội đồng Giám mục là nơi quy tụ các vị lãnh đạo Giáo Hội trong một quốc gia hay một lãnh thổ để hợp nhất với nhau thi hành mục vụ theo thể cách và phương thức thích hợp với hoàn cảnh (GM 30,1).
ĐƯỜNG HƯỚNG MỤC VỤ
A. MỘT HỘI THÁNH VÌ LOÀI NGƯỜI
5. Ánh sáng từ một thông điệp
Anh chị em thân mến,
Bước vào giai đoạn mới này của dân tộc, chúng tôi muốn nhìn vào gương Đức Phaolô VI khi người mới làm giáo hoàng. Trong thông điệp đầu tiên của người nhan đề “Giáo Hội Chúa Kitô”, người đã suy nghĩ nhiều về sứ mạng của Hội Thánh trong thế giới hôm nay. Mối bận tâm chính của người xoay quanh 3 tư tưởng lớn. Tư tưởng thứ nhất là đã đến lúc Giáo Hội phải có một nhận định sâu xa về chính mình, phải suy gẫm về mầu nhiệm của mình. Tư tưởng thứ hai là “đem bộ mặt thực của Giáo Hội ngày nay đối chiếu với hình ảnh lý tưởng của Giáo Hội như Đức Kitô đã thấy, đã muốn và đã yêu như bạn thánh thiện và tinh tuyền của mình” (Ep 5,27), từ đó “sinh ra một ước muốn quảng đại và bức thiết là phải canh tân”. Còn tư tưởng thứ ba như là kết luận của hai tư tưởng trên, nói về những quan hệ phải có giữa Giáo Hội và thế giới (GHCK 9-14).
Đức Thánh Cha nhận định thêm rằng, ba đề tài trên cũng là mối bận tâm của mọi thành phần Dân Chúa. Vậy chúng tôi giới thiệu những đề tài ấy với anh chị em để chúng ta tâm niệm hằng ngày.
6. Hội Thánh là Dân Thiên Chúa
Công đồng dựa vào lịch sử cứu chuộc để tìm hiểu và trình bày bản chất của Hội Thánh. Trong chương trình cứu chuộc loài người, Thiên Chúa đã lấy giao ước quy tụ một dòng dõi làm dân riêng của Người. Và qua lịch sử dân ấy, Người đã mạc khải chính mình Người và ý định cứu chuộc của Người cho toàn thể nhân loại. Nhưng dân ấy chỉ là hình bóng và là công cuộc chuẩn bị cho dân mới của Thiên Chúa, sẽ được quy tụ bằng giao ước mới mà Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập bằng Máu Thánh Người.
Dân giao ước mới này chính là Hội Thánh Chúa Kitô, quy tụ mọi người từ khắp mọi nơi mọi nước trên trần gian, vượt thời gian và biên giới các dân tộc. Chúa Thánh Thần nối kết họ nên một khi giải phóng họ khỏi tội lỗi và ban cho họ được làm con cái Thiên Chúa. Họ có giới răn mới là bác ái yêu thương (Ga 13,34) và ngay từ buổi đầu, họ đã là một cộng đoàn có tổ chức với những phận vụ khác nhau do chính Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập hầu mưu ích cho toàn Nhiệm Thể (GH 18). Mục đích của dân mới là “phát triển Nước Chúa cho tới khi hoàn tất” (GH 9,3).
7. Hội Thánh vì loài người
Dân cũ có sứ mạng đón nhận ơn cứu chuộc cho cả nhân loại. Dân mới có sứ mạng đem ơn cứu chuộc đến từng dân tộc và từng người qua mọi thời đại, như lời Công đồng Vatican II: “Dân mới được Chúa Kitô thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý, được Người sử dụng như khí cụ cứu rỗi cho mọi người, và được Người sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và như muối đất” (Mt 5,13-16; GH 9,2).
Người sử dụng họ làm khí cụ cứu rỗi, bởi vì “Thiên Chúa không muốn thánh hoá và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ và thiếu liên kết, nhưng muốn quy tụ họ thành một dân để họ nhận biết chính Người trong chân lý và phụng sự Người trong thánh thiện” (GH 9,1). Do đó, mục tiêu cuối cùng trong mọi sinh hoạt của Hội Thánh là đưa loài người và tất cả thực tại của thế giới loài người đến thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý của Thiên Chúa. Theo ý nghĩa này, Công đồng gọi Hội Thánh là “Bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hợp nhất toàn thể nhân loại” (GH 1).
Bởi vậy, sứ mạng của Hội Thánh không những là đem Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện những thực tại trần thế (TĐ 5). Không có sinh hoạt nào của con người lại xa lạ đối với sứ mạng của Hội Thánh, và ngược lại không có sinh hoạt nào của Hội Thánh không liên quan tới tất cả cuộc sống con người. Lời rao giảng Tin Mừng và các cử hành bí tích đem ân sủng của Thiên Chúa vào đời sống con người, còn sinh hoạt trần thế của tín hữu đem thực tại của con người đến với Thiên Chúa. Do đó đối với người tín hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với tha nhân, và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe doạ (MV 43).
Tóm lại, sứ mạng của Hội Thánh là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để phục vụ tất cả loài người. Đúng như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã giải thích trong thông điệp “Đấng Cứu Chuộc Con Người” rằng: “Con người là con đường của Hội Thánh”. Nghĩa là tất cả mọi con đường của Hội Thánh đều dẫn tới con người (ĐCCCN 14). Đây cũng là điểm gặp gỡ giữa Hội Thánh và xã hội trần thế, vì “dù tin hay không tin, con người đều phải góp phần xây dựng thế giới cho hợp lý, vì họ cùng chung sống trong thế giới này” (MV 21,6).
B. HỘI THÁNH TRONG LÒNG DÂN TỘC
8. Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô
Để sống trung thành với bản chất và sứ mạng của Hội Thánh như vừa nói ở trên, chúng tôi đề ra đường hướng mục vụ sau đây: chúng ta phải là Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam.
Trước hết, chúng ta phải là Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô nghĩa là:
– Gắn bó với Chúa Kitô và hợp nhất với Hội Thánh toàn cầu.
– Gắn bó với Đức Giáo hoàng, vị đại diện Chúa Kitô, người được Chúa giao trách nhiệm “chăn dắt đoàn chiên của Người” (Ga 21,15-18), và “làm cho anh em vững mạnh” (Lc 22,32).
– Gắn bó với nhau trong tình huynh đệ theo kiểu mẫu Hội Thánh thời sơ khai: “Chỉ có một tấm lòng, một linh hồn, không một người nào nói là mình có của riêng nhưng đối với họ, mọi sự là của chung” (Cv 4,32; 2,42).
– Trung thành với tinh thần của Công đồng Vatican II là tinh thần cởi mở, đối thoại và hoà mình với cộng đồng xã hội mình đang sống.
Để đạt mục đích ấy, trước hết chúng ta phải không ngừng hoán cải lương tâm và thay đổi cách sống của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đoàn Dân Chúa trong Hội Thánh ở Việt Nam sao cho phù hợp với Phúc Âm hơn. Công việc này chúng ta thực hiện nhờ lắng nghe Lời Chúa, lãnh nhận các bí tích, chuyên cần cầu nguyện và thành tâm kiểm điểm đời sống (LBTM 15).
9. Gắn bó với dân tộc và đất nước
Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước. Công đồng dạy rằng “Hội Thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới” (MV 40,2). Vậy chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa.
Sự gắn bó hoà mình này đưa tới những nhiệm vụ cụ thể mà chúng ta có thể tóm lại trong hai điểm chính:
– Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
– Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc.
10. Cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc
Về nhiệm vụ thứ nhất là tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc, chúng tôi muốn khẳng định rằng: yêu tổ quốc, yêu đồng bào, đối với người Công giáo không những là một tình cảm tự nhiên phải có mà còn là một đòi hỏi của Phúc Âm, như Công đồng nhắc nhở: “Các người Kitô giáo từ mọi dân tộc tụ họp trong Hội Thánh, không phân cách với những người khác về chế độ, cũng như về tổ chức xã hội trần gian, nên họ phải sống cho Thiên Chúa và cho Chúa Kitô trong nếp sống lành mạnh của dân tộc mình; là công dân tốt, họ phải thật sự và tích cực vun trồng lòng yêu nước” (TG 15).
Lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực, nghĩa là chúng ta phải ý thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết đường lối, chính sách và pháp luật của Nhà Nước, và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ và xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, tự do và hạnh phúc.
Trong công cuộc phục vụ quê hương, Phúc Âm cho chúng ta ánh sáng và sức mạnh để khắc phục các khó khăn và các xu hướng cá nhân ích kỷ, nêu cao tinh thần phục vụ của bác ái phổ quát, hướng tới cảnh “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1), trong đó tất cả đều hoà hợp hạnh phúc. Và khi phải phấn đấu xoá bỏ những điều tiêu cực, chúng ta có ơn của Chúa Kitô Phục Sinh để mặc lấy con người mới công chính và thánh thiện.
11. Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc
Về nhiệm vụ thứ hai là xây dựng trong Hội Thánh một lối sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc. Chúng tôi muốn thực hiện điều Công đồng Vatican II đã tuyên bố: “Những gì tốt đẹp trong tâm hồn và tư tưởng của loài người hoặc trong lễ nghi và văn hoá riêng của các dân tộc, hoạt động của Hội Thánh không nhằm tiêu diệt, nhưng làm cho lành mạnh, nâng cao và kiện toàn, hầu làm vinh danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người” (GH 17,1). Muốn thế, một đàng chúng ta phải đào sâu Thánh Kinh và Thần học để nắm vững những điều cốt yếu của đức tin, đàng khác, phải đào sâu nếp sống của từng dân tộc trong nước, để khám phá ra những giá trị riêng của mỗi dân tộc. Rồi từ đó, chúng ta vận dụng những cái hay trong một kho tàng văn hoá và xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống của mỗi dân tộc đang cùng chung sống trên quê hương và trong cộng đồng Hội Thánh này.
NGỎ LỜI VỚI CÁC THÀNH PHẦN DÂN CHÚA
12. Ngỏ lời với giáo dân
Với anh chị em giáo dân, chúng tôi muốn nói lên lòng cảm phục tâm hồn đạo đức của anh chị em trong việc đọc kinh cầu nguyện, hiệp dâng thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Chúng tôi cảm ơn anh chị em xưa nay vẫn một lòng kính yêu, vâng phục, giúp đỡ chúng tôi và các người làm việc tông đồ.
Chúng tôi xin dựa vào Công đồng để nói với anh chị em rằng: Ơn gọi của anh chị em là nên thánh giữa đời bằng cách sống Phúc Âm của Chúa Kitô trong các phận sự trần thế (GH 31; MV 43). Nhờ anh chị em, Giáo Hội hiện diện ngay trong xã hội và góp phần xây dựng đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Nghĩa vụ cao cả của anh chị em là sống làm người tín hữu trung thành của Hội Thánh Chúa Kitô và làm người công dân tốt của tổ quốc. Để giúp anh chị em chu toàn nghĩa vụ đó, chúng tôi đặc biệt nhắc nhở anh chị em vài điểm sau đây:
Anh chị em hãy tin vào ơn Chúa Thánh Thần đã được đổ xuống trong lòng để nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện của anh chị em: cầu nguyện riêng, cầu nguyện chung trong gia đình và trong xứ đạo, và nhất là anh chị em hãy đào sâu đức tin bằng việc học và dạy giáo lý ngay trong gia đình của mình. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông huấn về việc dạy giáo lý, đã lưu ý chúng ta rằng: “Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, kèm theo và phong phú hoá mọi hình thức dạy giáo lý khác” (DGL). Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm chứng nhân cho Chúa (Cv 22, 42; 1, 8 GH 11; TĐ 11; LBTM 71).
Nhưng trước tiên gia đình của anh chị em phải được xây dựng theo phép đạo. Chúng tôi tha thiết kêu gọi anh chị em thanh niên quan tâm vun trồng tình yêu trong sạch, và khi lập gia đình, liệu cho hôn nhân của mình chan chứa phúc lành của Thiên Chúa.
Các nỗ lực để xây dựng gia đình Công giáo theo tinh thần Phúc Âm phải đồng thời làm phát triển nơi anh chị em và con cái những đức tính của người công dân tốt, nhất là ý thức về chân lý và công bình, và tinh thần sẵn sàng phục vụ lợi ích của Tổ Quốc. Nhờ hiện diện và sinh hoạt tích cực giữa đời như vậy, anh chị em sẽ làm sáng danh Chúa và góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng đất nước.
13. Ngỏ lời với các tu sĩ
Đối với các tu sĩ nam nữ, chúng tôi đánh giá cao sự hiện diện và đóng góp của anh chị em trong đời sống của Dân Chúa. Giáo Hội qua mọi thời luôn quý trọng ơn gọi tu sĩ như một dấu hiệu chứng tỏ sự trưởng thành và sức sống phong phú của Hội Thánh tại các địa phương. Do đó chúng tôi muốn nói với anh chị em: hãy xác tín về ý nghĩa và giá trị cao quý của ơn gọi mình. Dầu sinh hoạt bên ngoài có thay đổi, sứ mạng đặc biệt của anh chị em vẫn luôn là “hiện thân của một Hội Thánh muốn hiến mình cho đường lối triệt để của các Mối Phúc Thật”, và anh chị em “dùng chính cuộc sống của mình làm dấu chỉ cho tinh thần sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa, Giáo Hội và anh em đồng loại” (LBTM 60; GH 44).
Chính anh chị em sẽ tự thấy được rằng đường hướng mà chúng tôi vạch ra cho cả Hội Thánh ở Việt Nam: sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc với tinh thần sẵn sàng phục vụ, phù hợp cách riêng với ơn gọi của anh chị em. Do đó, anh chị em hãy nêu gương cho giáo dân bằng việc tích cực đi vào con đường ấy.
Chúng tôi đặc biệt kêu mời anh chị em hãy quan tâm tuân giữ Luật dòng, rồi cùng nhau tìm ra, qua suy nghĩ chung và đối thoại, một thế quân bình lành mạnh cho đời sống tận hiến của mình: làm sao dung hoà giữa lao động và cầu nguyện, giữa việc hoà mình vào các sinh hoạt xã hội – không chỉ vì kế sinh nhai, nhưng nhất là để làm chứng nhân cho Chúa – và sự trung thành với đời sống cộng đoàn, dung hoà giữa các tổ chức riêng của mỗi hội dòng và sự hội nhập vào đời sống của Giáo hội địa phương trong sự hiệp thông với cộng đồng Dân Chúa và Hàng Giáo phẩm.
14. Ngỏ lời với các linh mục
Sau hết, đối với các linh mục, triều cũng như dòng, là những cộng sự viên gần gũi nhất của Hàng Giám mục, chúng tôi cám ơn anh em vẫn tận tuỵ phục vụ cộng đồng Dân Chúa. Anh em hãy lấy làm hãnh diện vì anh em đang được lòng tin tưởng, mến yêu của đoàn chiên. Chính Chúa Thánh Thần đã cùng với anh em trực tiếp hình thành nên đoàn chiên hiện nay. Anh em hãy tiếp tục làm công việc cao quý ấy trong sự hiệp thông mật thiết với Hàng Giám mục chúng tôi.
Thư Chung này vạch ra đường hướng rõ rệt: chúng ta hãy làm cho mọi tín hữu biết sống Phúc Âm trong tinh thần yêu mến và trung thành với Hội Thánh, trước hết bằng chính đời sống của chúng ta. Công đồng Vatican II lưu ý: “Trong những đức tính cần thiết hơn cả cho chức vụ linh mục, phải kể đến tâm trạng này là bao giờ cũng sẵn sàng tìm ý muốn của Đấng đã sai mình chứ không phải tìm ý riêng” (LM 15). Anh em hãy áp dụng những lời này tiên vàn cho việc rao giảng Lời Chúa và cử hành Phụng vụ Thánh, là những phương tiện mà Chúa Giêsu Kitô muốn dùng, xuyên qua thừa tác vụ linh mục của anh em, để xây dựng Nhiệm Thể Người một cách đặc biệt. Trong những gì liên quan tới đường hướng mục vụ và đời sống phụng vụ của Giáo Hội, anh em hãy thống nhất hành động với nhau và với Hàng Giám mục vì lợi ích của Dân Chúa, bởi vì anh em là những “nhà giáo dục đức tin” (LM 6; DGL 64).
Anh em cũng hãy làm cho Chúa Giêsu Kitô hiện diện thật sự giữa đoàn chiên, khi anh em phục vụ các tín hữu cách tận tâm và khiêm tốn (LM 15). Nhất là được nhìn nhận như là người đại diện chính thức của Hội Thánh tại địa phương, anh em hãy trở nên hình ảnh của Chúa Cứu Thế, vị Mục Tử hiền lành và khiêm nhường, để cống hiến ơn cứu độ cho mọi người. Xin anh em hãy cùng với chúng tôi đưa Hội Thánh ở Việt Nam đi vào con đường đã lựa chọn: là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào.
KẾT LUẬN
15. Quá khứ, hiện tại và tương lai
Anh chị em thân mến, hơn ai hết, các giám mục chúng tôi ý thức về giới hạn trong khả năng và tài đức của mình trước nghĩa vụ đối với Thiên Chúa và Tổ Quốc. Anh chị em hãy cầu nguyện nhiều cho chúng tôi.
Nhìn về quá khứ, chúng tôi cảm mến sâu sắc bàn tay nhân lành của Thiên Chúa đã êm ái và mạnh mẽ hướng dẫn Hội Thánh Người trên đất nước Việt Nam chúng ta. Chúng tôi biết ơn công lao của vô vàn tín hữu, đã làm sáng tỏ đức tin và lòng yêu nước của mình. Đừng nhìn quá khứ với mặc cảm và phán đoán tiêu cực. Lịch sử luôn pha lẫn ánh sáng và bóng tối, cũng như đời sống những người con của Chúa vẫn có cả ân sủng và tội lỗi. Nhưng dựa vào tình thương của Chúa Cha, dựa vào Lời ban sự sống của Chúa Giêsu Kitô và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn nhìn vào hiện tại và tin tưởng ở tương lai.
Chúng ta có giáo lý của Công đồng Vatican II như luồng gió mát của Chúa Thánh Thần thổi trong Hội Thánh; chúng ta tự hào là công dân nước Việt Nam anh hùng độc lập thống nhất; và trong đà phát triển chung của cả nước, chúng ta được tình đồng bào thông cảm và giúp đỡ trong khối đại kết dân tộc, nên chúng ta hãy hân hoan chu toàn sứ mạng vinh quang của mình.
Rồi đây với ơn Chúa giúp và hoàn cảnh cho phép, chúng tôi hy vọng sẽ có thể dần dần đề ra những công việc cụ thể để hết thảy chúng ta cùng làm, mỗi người tuỳ cương vị khả năng của mình, hầu góp phần xây dựng Tổ Quốc và Giáo hội Việt Nam.
Nguyện xin Thiên Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Thánh cả Giuse và các Thánh Bổn mạng của Hội Thánh Việt Nam, ban muôn phúc lành cho anh chị em.
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 1980
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
2020
Thánh Lễ Chúa Nhật V Mùa Chay năm A
Chúa Nhật Tuần V Mùa Chay
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Ðức Giêsu Ki-tô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
BÀI ĐỌC I: Ed 37, 12-14
“Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống”.
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Đây Chúa là Thiên Chúa phán: “Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở cửa mồ các ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 129, 1-2. 3-4ab. 4c-6. 7-8
Đáp: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giàu ơn cứu độ (c. 7).
Xướng: 1) Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu; dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con. – Đáp.
2) Nếu Chúa con nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho thiên hạ tôn thờ kính yêu. – Đáp.
3) Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Ngài. Linh hồn con mong đợi Chúa con, hơn người lính gác mong trời rạng đông. – Đáp.
4) Hơn người lính gác mong hừng đông dậy. Israel đang mong đợi Chúa con: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giàu ơn cứu độ. Và chính Ngài sẽ giải thoát Israel cho khỏi mọi điều gian ác. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 8-11
“Thánh Thần của Đấng làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.
Đó là lời Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời”.
PHÚC ÂM: Ga 11, 1-45
“Ta là sự sống lại và là sự sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt”. Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển”.
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa”. Môn đệ thưa: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?” Chúa Giêsu đáp: “Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng”. Người nói thế, rồi lại bảo họ: “Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông”. Môn đệ thưa: “Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại”. Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: “Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”. Lúc đó Tôma, cũng có tên là Điđimô, nói với đồng bạn: “Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người”.
Đến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Martha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: “Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em”. Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết”. Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: “Đã an táng Ladarô ở đâu?” Họ thưa: “Thưa Thầy, xin đến mà xem”. Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!” Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?” Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá ra”. Martha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày”. Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi ra cho anh ấy đi”.
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
Đó là lời Chúa.
___________________
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 11, 3-7. 17. 20-27. 33b-45
Khi ấy, hai chị em của Ladarô sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt”. Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển”.
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa”.
Đến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Martha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con cũng sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Người xúc động và hỏi: “Đã an táng Ladarô ở đâu?” Họ thưa: “Thưa Thầy, xin đến mà xem”. Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!” Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?” Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ.
Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá ra”. Martha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày”. Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con. Nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi ra cho anh ấy đi”.
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
Đó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho chúng con là con cái Chúa được thấm nhuần đạo lý đức tin; giờ đây, xin cũng thương nhận lời chúng con khẩn nguyện và dùng lễ tế này thanh tẩy tâm hồn chúng con. Chúng con cầu xin …
Lời tiền tụng (năm A)
Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con. Là người thật, Ðức Ki-tô đã khóc La-da-rô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho La-da-rô sống lại ra khỏi mồ. Ngày nay, cũng vì thương xót nhân loại, Người đã đưa chúng con vào đời sống mới nhờ các bí tích nhiệm mầu. Nhờ Người, đạo binh các Thiên thần muôn đời hoan hỷ trước thánh nhan Chúa, thờ lạy Chúa uy linh cao cả. Xin cho chúng con được đồng thanh với các ngài, và tung hô rằng:
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con vừa được phúc kết hợp với Mình và Máu Thánh Ðức Ki-tô, xin cho chúng con được trở nên những chi thể sống động của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.