2023
Các chủ đề chính của Văn kiện Đối Thoại Và Rao Giảng
Văn kiện Đối thoại và Rao giảng: Nguồn gốc và tính hợp thời của nó trong thế giới hôm nay
Đối Thoại và Rao Giảng (Dialogue and Proclamation – D&P), được công bố ngày 19 tháng 5, 1991, là văn kiện chính thức đầu tiên được soạn thảo bởi Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn. Trước đó vào năm 1984 đã có một văn kiện nhan đề Thái độ của Hội Thánh đối với các tín đồ của các tôn giáo khác. Các suy tư và đường hướng về đối thoại và sứ vụ (The Attitude of the Church towards the Followers of Other Religions. Reflections and Orientations on Dialogue and Mission – DM), nhưng văn kiện này đã được phát hành trong thời kỳ mà cơ quan đặc trách đối thoại liên tôn còn được gọi là “Văn phòng cho những người ngoài Kitô giáo”.
Chúng ta có thể ngạc nhiên tại sao Văn phòng cho những người ngoài Kitô giáo do Thánh Giáo hoàng Phaolô VI thiết lập năm 1964 lại phải mất một thời gian dài như thế để tạo ra một văn kiện chính thức. Thời kỳ đầu của cơ quan này, dưới quyền chủ tịch của Hồng y Paolo Marella (1964-1973), là thời gian đặt nền móng. Hồng y Marella cảm thấy công cuộc đối thoại thực sự phải được thể hiện ở cấp địa phương, nhưng ngài nhận ra rằng các Giáo hội địa phương trước hết phải xác tín rằng dấn thân vào các mối quan hệ với tín đồ của các tôn giáo khác thì phải phù hợp với đức tin Công giáo. Nhiệm vụ này đã được đảm nhiệm bởi Văn phòng qua tập san Bulletin, trong đó mục đích của đối thoại có thể được cắt nghĩa. Số đầu tiên của Bulletin bao gồm một bài bằng tiếng Latinh, nói về giáo huấn của Công đồng Vaticanô II về các tôn giáo ngoài Kitô giáo[2]. Một phụ trương của tờ Bulletin cung cấp một bài trình bày về đức tin Công giáo để có thể được chia sẻ với tín đồ của các tôn giáo khác[3]. Một cuốn sách cũng được phát hành để thúc đẩy một sự hiểu biết tốt hơn về các tôn giáo khác[4]. Trên hết, Văn phòng đã soạn ra một chuỗi các “hướng dẫn” cho việc đối thoại với các tín đồ Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo và các tín đồ của Tôn giáo Truyền Thống tại Châu Phi.
Mỗi Bộ của Giáo triều Rôma có một số thành viên được tuyển chọn giữa các giám mục trên thế giới để tạo thành ban điều hành của bộ mình. Hồng y Marella thì cho rằng tất cả các giám mục trên thế giới đều là những cộng tác viên của Văn phòng, nên đã không đề xuất bổ nhiệm một thành viên nào. Người kế nhiệm ngài, Hồng y Sergio Pignedoli (1973-1980), đã thay đổi chính sách này, và năm 1979, Hội nghị toàn thể đầu tiên của Văn phòng này đã diễn ra. Hội nghị này yêu cầu có một “Chỉ nam Đối thoại”, có thể là dựa theo các đường nét của quyển “Chỉ nam Đại kết” đã được soạn bởi Văn phòng Hiệp nhất Kitô hữu. Tuy nhiên, cuối cùng Hội nghị đã quyết định soạn thảo một bản tuyên bố khuyến khích đối thoại trong Hội Thánh. Sau khi trải qua nhiều bản thảo, tài liệu này đã được hoàn chỉnh tại Hội nghị toàn thể lần thứ 2 của Văn phòng vào năm 1984, lúc bấy giờ dưới quyền chủ tịch của Hồng y Francis Arinze, và sau khi được phê chuẩn chính thức, nó được công bố trong Acta Apostolicae Sedis (“Công Báo Tòa Thánh”) cùng năm ấy.
Dưới nhan đề đầy đủ là Thái độ của Hội Thánh đối với các tín đồ của các tôn giáo khác: Các suy tư và đường hướng về đối thoại và sứ vụ, đã được công bố trong một số đặc biệt của tờ Bulletin không chỉ bằng tiếng Ý, nhưng cũng bằng các tiếng Ả Rập, Anh, Pháp, Đức và Tây Ban Nha[5]. Đây là một văn kiện truyền cảm hứng sâu sắc, nó định nghĩa đối thoại như là một tiến trình “trong đó các Kitô hữu gặp gỡ các tín đồ của các truyền thống tôn giáo khác để cùng nhau tiến bước tới Sự Thật và cùng nhau hoạt động trong các dự án quan tâm chung” (DM 13). Văn kiện đặt việc đối thoại vững vàng trong sứ vụ toàn thể của Hội Thánh, trình bày vắn tắt nền tảng và các hình thức đối thoại, và cắt nghĩa rằng mục tiêu cuối cùng là “hoán cải” được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh là “cõi lòng khiêm tốn và sám hối trở về với Thiên Chúa trong ước muốn suy phục cuộc đời mình một cách quảng đại hơn đối với Thiên Chúa” (DM 37).
Mặc dù đã được nhìn nhận chính thức, văn kiện DM vẫn đặt ra những vấn nạn trong tâm trí của một số Kitô hữu. Nếu đối thoại được định vị trong các hoạt động chính dòng của Hội Thánh, hay đúng hơn, nếu nó được nhìn nhận một vị trí hợp pháp trong các hoạt động này, vậy thì nó được liên kết như thế nào với bổn phận rao giảng Đức Giêsu Kitô? Phải chăng việc rao giảng này bây giờ đã lỗi thời rồi? Phải chăng đối thoại đã trở thành tên gọi mới của sứ vụ? Về phía các tín đồ của các tôn giáo khác, câu hỏi nảy sinh là phải chăng đối thoại được coi là một công cụ của truyền giáo, được hiểu theo nghĩa là một cơ hội để rao giảng Đức Giêsu Kitô để tạo sự hoán cải cho người ta đến với đức tin Kitô giáo và gia nhập Hội Thánh. Đây là những câu hỏi quan trọng không thể tránh né. Một đàng, nó làm cạn sinh lực truyền giáo của Hội Thánh, và đàng khác nó có nguy cơ làm cho các tín đồ của các tôn giáo khác nghi ngờ mục đích của đối thoại. Vì vậy đã có quyết định chuẩn bị một tài liệu mới để nghiên cứu mối tương quan giữa đối thoại và rao giảng. Đây chính là nguồn gốc phát sinh văn kiện nhan đề Đối Thoại và Rao Giảng. Các suy tư và đường hướng về đối thoại liên tôn và rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô (Dialogue and Proclamation: Reflections and Orientations on Interreligious Dialogue and the Proclamation of the Gospel of Jesus Christ – D&P).
Tại Hội nghị toàn thể 1987, một bản sơ thảo của tài liệu mới này đã được trình bày. Một thách thức đến từ một phía không ngờ trước. Hồng y Josef Tomko, Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng các Dân tộc (CEP) và là một thành viên de jure của PCID, tuyên bố rằng PCID không có quyền làm ra một văn kiện như thế vì văn kiện ấy liên quan đến các materia mixta (nội dung hỗn hợp), cả đối thoại và rao giảng, vì thế nó cũng thuộc mối quan tâm của CEP (Bộ Loan báo Tin Mừng các Dân tộc). Vì vậy ngài đề nghị văn kiện được soạn thảo liên kết bởi hai Bộ.
Đề xuất này lập tức được Hồng y Arinze ủng hộ, vì ngài cảm thấy rằng càng nhiều người ủng hộ văn kiện trước khi nó được công bố thì nó càng dễ dàng được đón nhận hơn. Thế là ý tưởng về một văn kiện mới đã được cứu xét. Nhưng việc thỏa thuận về sự chuẩn bị liên kết đã dẫn đến một sự thay đổi trong thành phần uỷ ban soạn thảo, hai thành viên được chỉ định bởi PCID và hai được chỉ định bởi CEP, với vị Thư ký của PCID làm thư ký biên soạn.
Một bản thảo mới được viết ra, mở đầu với vấn đề đối thoại, rồi quay sang vấn đề rao giảng, và cuối cùng thảo luận mối liên hệ giữa hai yếu tố của sứ vụ Hội Thánh. Bản thảo cũng có một phát biểu giải thích để xua tan những mối nghi ngờ:
Nếu đối thoại được trình bày trước, không phải vì nó ưu tiên hơn rao giảng. Lý do đơn giản chỉ là vì nó là mối quan tâm chủ yếu của Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn (PCID), là cơ quan khởi xướng việc soạn thảo văn kiện này (D&P 3).
Chiếu theo nguyên tắc của Hồng y Arinze đã nhắc đến ở trên – phải đạt sự đồng thuận càng cao càng tốt trước khi công bố – bản thảo mới đã được gửi đến tất cả các HĐGM trên thế giới để lấy ý kiến. Bản thảo sau đó được chỉnh sửa dựa theo những nhận xét này khi thấy là phù hợp. Các giám mục Canada kêu gọi chú ý nhiều hơn tới tính chất đặc biệt của việc đối thoại với người Do Thái giáo. Câu trả lời trong trường hợp này là PCID không có thẩm quyền trong việc đối thoại Do Thái-Kitô giáo, đây là lãnh vực thuộc Ủy ban Liên lạc Tôn giáo với người Do Thái dưới thẩm quyền của Hội đồng Giáo hoàng Thúc đẩy Hiệp nhất Kitô giáo. Một ghi chú cho vấn đề này đã được thêm vào trong văn kiện cuối cùng (D&P 12). Quan tâm của văn kiện là đối thoại với mọi tôn giáo, không nhắc rõ ràng tới tôn giáo nào. Thực ra, cũng nói đến một sự hạn chế: đối thoại không đề cập đến “các phong trào tôn giáo mới”; tham chiếu được ghi lại trong bản báo cáo liên bộ về vấn đề này (x. D&P 13).
Cuối cùng, bản thảo đầy đủ của văn kiện đã được trình lên cho các thành viên của các phiên họp toàn thể của PCID và CEP và đã được phê chuẩn. Tuy nhiên, lúc bấy giờ cũng đang có sự chuẩn bị cho một thông điệp truyền giáo của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ưu tiên được dành cho thông điệp này, nó được công bố dưới nhan đề Redemptoris Missio vào ngày 7 tháng 12, 1990. Việc công bố văn kiện Đối Thoại và Rao Giảng được dời tới lễ Hiện Xuống năm sau, ngày 19 tháng 5, 1991. Không có sự thay đổi nào trong bản văn đã được phê chuẩn bởi các Giám mục của PCID, ngoại trừ việc ghi lại trong bản văn sự kiện công bố Thông điệp của Đức thánh cha:
Khi bản văn này đang ở trong những giai đoạn chuẩn bị cuối cùng để được công bố, Đức thánh cha Gioan Phaolô II cống hiến cho Hội Thánh Thông điệp Redemptoris Missio của ngài, trong đó ngài đề cập đến các vấn đề này và nhiều vấn đề khác nữa. Bản văn này (D&P) khai triển chi tiết hơn các giáo huấn của Thông điệp về đối thoại và mối tương quan của nó với việc rao giảng (x. RM 55-57). Vì vậy phải đọc nó trong ánh sáng của Thông điệp này (D&P 4).
Bây giờ là lúc chúng ta tìm hiểu nội dung của Đối Thoại và Rao Giảng (D&P) và xét xem nó có còn hợp thời trong thế giới hôm nay hay không.
Những đoạn đầu của D&P tạo thành phần dẫn nhập gồm hai mục: cắt nghĩa nguồn gốc văn kiện (D&P 1-7) và minh giải các thuật ngữ được sử dụng trong văn kiện (D&P 8-13). Các lý do để soạn thảo văn kiện này đã được nêu trong bài này rồi, nên không cần khai triển thêm nữa. Chỉ cần vạch ra rằng chính văn kiện D&P khơi dậy tầm quan trọng của Tuyên ngôn Nostra Aetate của Công đồng Vaticanô II với giáo huấn về tầm quan trọng của đối thoại liên tôn, đồng thời nhấn mạnh bổn phận của Hội Thánh phải rao giảng sự cứu rỗi trong Đức Giêsu Kitô. D&P tham chiếu văn kiện Đối Thoại và Sứ Vụ (DM), trong đó có lời dạy rằng “cả các yếu tố cấu thành và các hình thức đích thực của một sứ vụ duy nhất của Hội Thánh… đều hướng tới việc thông truyền chân lý cứu độ” (D&P 2). Sau đó văn kiện cắt nghĩa để cho thấy các suy xét xa hơn về hai yếu tố này và mối liên hệ hỗ tương giữa chúng đang được hai cơ quan PCID và CEP cùng nhau cống hiến cho chúng ta như thế nào. Còn có sự khích lệ từ giáo huấn của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II trong và sau cuộc cử hành Ngày Thế giới cầu cho Hòa bình diễn ra ở Assisi ngày 27 tháng 10, 1986.
Phần dẫn nhập cũng cung cấp cho chúng ta các lý do cho việc công bố văn kiện này vào lúc ấy: một ý thức mới về sự đa nguyên tôn giáo trong một thế giới mà lãnh vực truyền thông gia tăng mau lẹ, các dân tộc di chuyển ngày càng nhiều hơn, và sự tương thuộc lẫn nhau cũng tăng cao; một nhu cầu kích thích đối thoại vì tình trạng do dự trong một phần của thế giới Kitô giáo; đồng thời có nhu cầu tương ứng là cung cấp sự hướng dẫn giáo lý và mục vụ (x. D&P 4). Có thể chỉ ra ở đây rằng các lý do này vẫn còn hợp thời hôm nay, như được xác nhận bởi lời dạy của Đức giáo hoàng Phanxicô, đặc biệt trong Tông huấn Evangelii Gaudium, ở đó ngài minh nhiên đề cập đến vấn đề đối thoại liên tôn (EG 147-254) và gần đây hơn, trong Fratelli Tutti, ngài dành chương cuối để nói về Các tôn giáo để phục vụ tình huynh đệ trong thế giới chúng ta (FT 271-287).
Một đặc điểm của D&P là sự cẩn thận định nghĩa các thuật ngữ sẽ được sử dụng trong văn kiện. Văn kiện lưu ý rằng thuật ngữ Phúc âm hóa (evangelization) có thể có cả nghĩa rộng là đem Tin Mừng vào trong mọi lãnh vực của nhân loại để biến đổi nhân loại từ bên trong, và một nghĩa chuyên biệt hơn, đó là “sự rao giảng rõ ràng và không mập mờ về Chúa Giêsu” (Evangelii Nuntiandi 22). Và văn kiện nói rằng “thuật ngữ evangelizing mission (“sứ vụ phúc âm hoá”) được sử dụng trong D&P để chỉ về Phúc âm hóa theo nghĩa rộng” (D&P 8). Rồi văn kiện cũng nói rằng đối thoại có thể được hiểu theo các cách khác nhau: như là sự truyền thông lẫn cho nhau; như là một thái độ tôn trọng và thân thiện, “tinh thần đối thoại”; và sau cùng, định nghĩa dùng trong D&P và được lấy từ Đối Thoại và Sứ Vụ (DM): “tất cả các mối quan hệ tích cực và xây dựng với các cá nhân và các cộng đồng thuộc các tín ngưỡng khác hướng tới sự hiểu biết và làm giàu lẫn cho nhau” (DM 3), và viết thêm câu này: “trong sự vâng phục sự thật và tôn trọng tự do” (D&P 9). Rao giảng (Proclamation) là thuật ngữ được chọn để biểu thị nghĩa chuyên biệt hơn của việc Phúc âm hóa, như đã nói ở trên. Văn kiện nhìn nhận rằng hoán cải có thể hiểu theo các cách khác nhau: như là một chuyển động chung đi tới Thiên Chúa, hay như là một sự thay đổi lòng trung thành với đạo của mình. Ở đây văn kiện không đưa ra sự chọn lựa; văn kiện chỉ nói rằng ngữ cảnh sẽ cung cấp đủ dấu chỉ để hiểu ý nghĩa muốn nói. Sau cùng, có ghi chú về các tôn giáo hay truyền thống tôn giáo đã nói đến ở trên, nó cắt nghĩa tại sao trong văn kiện không có tham chiếu về việc đối thoại với Do Thái giáo hay với các tín đồ của các Phong Trào Tôn Giáo Mới.
Phần I
Phần I của D&P trình bày vấn đề Đối Thoại Liên Tôn. Phần này được chia thành ba tiết mục. Tiết mục I cung cấp một cách tiếp cận Kitô giáo đối với các truyền thống tôn giáo. Nó mở đầu với giáo huấn của Công đồng Vaticanô II, nhưng cảnh báo rằng “ý nghĩa chính xác của các khẳng định của Công đồng cần phải được xác định cẩn thận và chính xác” (D&P 15). Sự thận trọng của D&P phản ánh sự cẩn thận trong quá trình soạn thảo bản văn này. Cũng nên nhớ rằng, giống như với bất cứ văn kiện nào liên quan đến các vấn đề đức tin, trước khi được công bố nó đã được trình lên cho Bộ Giáo lý Đức tin xem xét. Vì vậy tính đáng tin cậy của nó không thể bị nghi ngờ.
Các suy tư quan trọng mang tính thần học được cống hiến dựa trên giáo huấn của Vaticanô II. Trước hết, đó là “theo một cách bí nhiệm nào đó, ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô là một thực tại được mở ra cho mọi người thành tâm thiện chí”. Tiếp đến, văn kiện trích dẫn một câu từ Gaudium et Spes dạy rằng “Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi” (GS 22 dẫn trong D&P 15). Sau đó, văn kiện nói rằng hoạt động của Chúa Thánh Thần không chỉ giới hạn vào những cá nhân nhưng cũng được mở rộng cho các truyền thống tôn giáo mà các cá nhân ấy thuộc về (x. D&P 17). Hội Thánh nhìn nhận “những gì chân thật và thánh thiện trong các tôn giáo ấy” (NA 2) và có bổn phận hoàn thiện những yếu tố này trong Chúa Kitô. Đây là một trong những mục tiêu của đối thoại mà qua đó các Kitô hữu phải “nhìn nhận, bảo tồn và khuyến khích những điều tốt lành thiêng liêng và đạo đức có nơi những người ngoài Kitô giáo, cũng như các giá trị xã hội và văn hóa của họ” (NA 2). Điều này vô cùng quan trọng bởi vì nó có nghĩa là các Kitô hữu không được phép coi các tôn giáo khác như là những kẻ thù phải tiêu diệt, nhưng phải đối xử với các thành viên của các tôn giáo này như là những người anh chị em của mình.
Tiếp theo là một vài chỉ dẫn về cơ sở Kinh Thánh cho các giáo huấn của Vaticanô II, cả trong Cựu Ước và Tân Ước (x. D&P 19-23). D&P không phải là một bản văn chú giải Kinh Thánh, vì thế các đoạn này đương nhiên khá sơ lược. Nhưng cách tiếp cận thận trọng của văn kiện vẫn được nhận thấy rõ ràng, vì nó nói rằng các tham chiếu trong Tân Ước về các tôn giáo khác “xem ra có vẻ tương phản nhau, nhưng có thể thấy rằng chúng bổ sung cho nhau” (D&P 23). Có lẽ cũng có thể nói như thế về thái độ của các Giáo phụ mà văn kiện chỉ dành cho hai đoạn ngắn (D&P 24-25); các ngài cũng cho thấy những thái độ khác nhau về các tôn giáo khác. Rồi văn kiện quay trở về với các giáo huấn gần đây của Hội Thánh, cung cấp “cơ sở thần học cho cách tiếp cận tích cực đối với các truyền thống tôn giáo khác và việc thực hành đối thoại liên tôn” (D&P 27), bằng cách nhấn mạnh mầu nhiệm hợp nhất của loài người và sự duy nhất của ơn cứu rỗi. Một điểm đáng chú ý là ở mục này không có một tham chiếu nào về Redemptoris Missio. Lý do là vì, như đã nói trên, bản thảo cuối cùng của D&P đã được chuẩn bị trước khi Thông điệp của Đức giáo hoàng được công bố, vì thế không thể trích dẫn được gì từ Thông điệp. Nhưng có thể thấy rằng D&P hoàn toàn đồng thuận với tầm nhìn thần học của Redemptoris Missio, đặc biệt liên quan đến giáo huấn của Thông điệp về vai trò của Chúa Thánh Thần mà Thông điệp này khai triển theo hướng của văn kiện Dominum et vivificantem, một Thông điệp trước đó của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Các đoạn cuối của tiết mục này chứng tỏ tính chất thận trọng rất thực tế của D&P. Ví dụ, văn kiện khẳng định rõ ràng: “Nói rằng các tôn giáo khác cũng có những yếu tố ân sủng không có nghĩa là mọi sự trong các tôn giáo ấy đều là kết quả của ân sủng” (D&P 31). Có thể coi khẳng định này là một lời cảnh báo chống lại một thái độ quá phấn khích trong đối thoại khi nó chỉ được nhìn như là một sự xác nhận cái đẹp của các tôn giáo khác. Thực ra, văn kiện vạch ra rằng đối thoại có thể bao gồm một sự thách thức đối với một số niềm tin và việc thực hành, nhưng luôn luôn trong một tinh thần ôn hòa. Hơn nữa, “ngay cả các Kitô hữu cũng phải để cho mình bị chất vấn… [bởi vì] cách mà người Kitô hữu đôi khi hiểu và sống đạo của mình có thể cần được thanh tẩy” (D&P 32).
Tiết mục 2 của Phần I nhìn vào Vị trí của Đối thoại Liên tôn trong Sứ vụ Phúc âm hóa của Hội Thánh. Đây là một cắt nghĩa chi tiết hơn về lời khẳng định trong Đối Thoại và Sứ Vụ (DM) rằng đối thoại liên tôn là một yếu tố cấu thành của sứ vụ Hội Thánh (x. DM 13). Nó nhấn mạnh lời dạy của Vaticanô II rằng Hội Thánh là “bí tích cứu rỗi phổ quát” (LG 48), chỉ về mối quan hệ “bí nhiệm và phức tạp” giữa Hội Thánh và Nước Thiên Chúa, và lặp lại lời khẳng định rằng các thành viên của các tôn giáo khác “hướng tới” Hội Thánh (x. LG 16) “khi họ đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa như được nhận ra từ lương tâm của họ” (D&P 35). Do đó đối thoại liên tôn thực sự là “một sự đối thoại cứu rỗi” (D&P 38, 40). Từ đó dẫn tới một nhận định quan trọng: “Đối thoại liên tôn không chỉ đơn thuần nhắm tới sự hiểu biết lẫn nhau và các mối quan hệ thân thiết”; nó còn đi xa hơn tới “một sự hoán cải của mọi người về với Thiên Chúa” (D&P 40-41). Nhưng người Kitô hữu cần phải tham gia đối thoại với thái độ khiêm tốn, đồng thời nhìn nhận rằng Hội Thánh lữ hành không hoàn hảo nhưng luôn luôn cần canh tân và cải tạo, “luôn luôn tiến tới sự thật viên mãn của Thiên Chúa” (DV 8). Các Kitô hữu thường thích trích dẫn những lời của Chúa Giêsu: “Tôi là Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6), và như thế họ cho rằng họ đã có trọn vẹn sự thật. Ở đây, văn kiện D&P muốn cung cấp một sự chính xác quan trọng: “Sự thật viên mãn chúng ta nhận được trong Đức Giêsu Kitô không cống hiến cho cá nhân người Kitô hữu sự bảo đảm rằng họ đã nắm bắt được sự thật một cách trọn vẹn. Suy cho cùng, chân lý không phải là một sự vật chúng ta sở hữu, nhưng là một con người mà chúng ta phải để cho mình được người ấy chiếm hữu” (D&P 49). Đức giáo hoàng Phanxicô cũng có một khẳng định tương tự trong Thông điệp Fratelli Tutti: “Không ai có thể chiếm hữu toàn thể chân lý hay thỏa mãn mọi ước muốn của mình, vì cao vọng ấy sẽ dẫn đến việc hủy diệt người khác bằng cách phủ nhận các quyền lợi của họ” (FT 221).
Tiết mục 3 trình bày vắn gọn các hình thức đối thoại khác nhau (D&P 42). Nó chỉ ra rằng các hình thức này có thể phân biệt với nhau nhưng không thể tách rời nhau, vì chúng liên kết mật thiết với nhau. Văn kiện kêu gọi chú ý tới đối thoại liên văn hóa (x. D&P 45), là lãnh vực sẽ được nhấn mạnh nhiều hơn dưới triều Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI. Văn kiện cũng khẳng định rằng “cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng của đối thoại cho sự phát triển toàn diện, cho công bằng xã hội, và cho sự giải phóng con người” (D&P 44), là điều đánh dấu triều đại của Đức giáo hoàng Phanxicô khi ngài đã kết hợp các văn phòng khác nhau của giáo triều để tạo thành Bộ Phục vụ sự Phát triển Toàn diện Con Người.
Tiết mục 4 trình bày Các Thái độ cho đối thoại liên tôn và các hiệu quả của nó. Văn kiện kêu gọi “một thái độ quân bình… không phức tạp hay quá phê phán, nhưng cởi mở và dễ tiếp thu” (D&P 47). Thái độ này không có nghĩa là từ bỏ các xác tín của mình; trái lại, “sự chân thành trong đối thoại liên tôn đòi hỏi rằng mỗi người đi vào đối thoại với đức tin toàn vẹn của mình” (D&P 48). Những người tham gia đối thoại trong tinh thần này sẽ thấy rằng “đối thoại chân thực không làm suy yếu đức tin của mình, nhưng sẽ khiến nó trở nên sâu xa hơn” (D&P 50).
Tiết mục cuối của Phần I lưu ý tới Những Trở ngại cho đối thoại. Những trở ngại này được liệt kê dưới mười tiêu đề. Một số trở ngại phản ánh những sự yếu đuối của cá nhân, như thiếu hiểu biết hay thiếu xác tín, ngờ vực hay thiếu bao dung khiến cản trở những sự trao đổi cởi mở, một số khác có nguồn gốc xã hội, như những nhân tố xã hội-chính trị hay một bầu khí thờ ơ tôn giáo. Tiết mục này cho thấy tính chất thực sự của văn kiện này, đó là thái độ thực tế và tích cực, như được phản ánh bởi lời phát biểu sau đây: “Hơn nữa, những trở ngại, mặc dù có thật, không thể khiến chúng ta đánh giá thấp các khả năng của đối thoại hay coi nhẹ những kết quả đã đạt được.” (D&P 54).
Phần II
Phần II của văn kiện trình bày việc Rao giảng Đức Giêsu Kitô. Với nhiều tham chiếu từ Tân Ước, phần này trình bày: 1. Huấn lệnh của Chúa Phục Sinh (55-57); 2. Vai trò của Hội Thánh (58-59); 3. Nội dung của việc Rao giảng (60-63); 4. Sự Hiện diện và Quyền năng của Chúa Thánh Thần (64-65); 5. Tính cấp bách của việc Rao giảng (66-67). Rồi nói đến Cách thức Rao giảng (68-71), cho thấy cần phải tự tin, trung thành, khiêm tốn, tôn trọng, có đối thoại và hội nhập văn hóa, luôn luôn bắt chước Đức Giêsu Kitô và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Giống như với đối thoại, việc rao giảng cũng có những trở ngại được vạch ra: chúng có thể là từ bên trong, như khoảng cách giữa lời nói và hành động, hay cũng có thể là từ bên ngoài, như trong hoàn cảnh bị bách hại (D&P 72-74). Mục cuối của Phần II định vị việc Rao giảng trong sứ vụ Phúc âm hóa của Hội Thánh (D&P 75-76). Đây là “một bổn phận chính và thánh thiêng mà Hội Thánh không thể sao nhãng” (D&P 76).
Phần III
Phần III của văn kiện cống hiện một ít suy tư về mối tương quan giữa đối thoại và rao giảng (D&P 77-85). Hai hoạt động này liên kết mật thiết với nhau, vì đối thoại chứa đựng yếu tố làm chứng về đức tin của mình, và rao giảng thì phải được thể hiện trong một phong cách đối thoại. “Chúng liên kết mật thiết với nhau, nhưng không thể hoán đổi cho nhau.” Chúng vẫn phân biệt với nhau, vì mục tiêu của mỗi hoạt động là khác nhau. Đối thoại có một số mục tiêu: sống chung hòa bình, hợp tác trong việc phục vụ loài người, hoán cải bên trong; trong khi rao giảng có một mục tiêu duy nhất: dẫn đến sự đón nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa và Đấng Cứu Chuộc và sự gia nhập Hội Thánh. Cả hai hoạt động này là những yếu tố đích thực của sứ vụ Phúc âm hóa của Hội Thánh, và trên thực tế “cùng một Hội Thánh địa phương, cùng một người, có thể tham gia vào cả hai hoạt động này” (77).
Nhận xét cuối cùng của đoạn trên được dựa trên kinh nghiệm. Đó là kinh nghiệm của bản thân tôi khi làm việc trong một giáo xứ Công giáo tại Bắc Suđan. Chúng tôi tham gia cùng một lúc vào hoạt động mục vụ cho các Kitô hữu và tổ chức một chương trình dự tòng cho những Kitô hữu tiềm năng, và khi cung cấp việc giáo dục cho người lớn với sự trợ giúp của các giáo viên Hồi giáo cho tất cả những ai muốn tận dụng cơ hội này, dù là Kitô hữu hay người Hồi giáo. Ý hướng của chúng tôi không chỉ là phục vụ cho cộng đồng nhỏ bé các Kitô hữu, nhưng cũng giúp vun trồng các mối quan hệ tốt đẹp với cộng đồng dân cư Hồi giáo rất đông đảo.
Cơ sở thần học để biện minh cho cách tiếp cận kép này chính là tầm quan trọng cơ bản của ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, và cái nhìn về Hội Thánh như là bí tích phổ quát. Nếu Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi, thì chắc chắn Người phải cung cấp các phương tiện cho sự cứu rỗi này. Do đó, những người không phải vì lỗi của họ mà không thể minh nhiên chấp nhận Đức Giêsu là Chúa và Đấng Cứu Độ thì họ vẫn phải có thể đi vào Mầu Nhiệm Vượt Qua là con đường cứu rỗi. Rao giảng sẽ là việc thích hợp và hiệu quả nếu Chúa Thánh Thần mở lòng họ ra cho Tin Mừng. Đối thoại sẽ khai triển sự chú ý tới những yếu tố nào trong các truyền thống tôn giáo khác mà góp phần cho sự tham dự hiện sinh vào Mầu Nhiệm Vượt Qua, và như thế sẽ thực sự là một sự đối thoại cứu rỗi.
Phần Kết của văn kiện (D&P 87-89) lưu ý một trong những giới hạn của nó: văn kiện vẫn còn dừng lại ở bình diện chung chung. Văn kiện đề nghị cần có các nghiên cứu về mối quan hệ giữa đối thoại và rao giảng liên quan đến mỗi tôn giáo, và cả trong mỗi vùng miền địa lý, với bối cảnh văn hoá-xã hội cụ thể của nó. Bản thân tôi đã thử làm việc này cho mối quan hệ giữa Kitô giáo và Hồi giáo[6]. Tôi không có thông tin về việc liệu có những nghiên cứu nào khác đã được thực hiện liên quan đến các tôn giáo khác hay không.
Một giới hạn khác nữa là thiếu sự chú ý dành cho các hình thức đối thoại khác ngoài hình thức đối thoại song phương. Có thể nói sự thiếu sót này đã có từ văn kiện Nostra Aetate của Công đồng Vaticanô II khi văn kiện này xem xét các tôn giáo khác nhau theo thứ tự nối tiếp nhau. Có lẽ là vì không có cách nào khác để xem xét các tôn giáo này, nhưng nó tạo ấn tượng là chỉ có đối thoại song phương là hình thức duy nhất. Điều này không thực sự phản ánh kinh nghiệm có thể cho thấy là nó đa dạng hơn rất nhiều.
Trước tiên là hình thức đối thoại ba bên giữa các tín đồ của Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Mặc dù cách tiếp cận Ápraham trong mỗi tôn giáo này thì khác nhau, nhưng vẫn có ý nghĩa khi xét rằng cả ba tôn giáo này đều là các tôn giáo Ápraham, như được gợi nhớ bởi các tên của một số hiệp hội là thành viên của ba tôn giáo này: Huynh hội Ápraham, Con cái Ápraham, Diễn đàn ba niềm tin, v.v… Hội đồng Giáo hoàng PCID, cùng với Uỷ ban các Mối Quan hệ với Do Thái giáo (thuộc Hội đồng Giáo hoàng Thúc đẩy Hiệp nhất Kitô giáo), và liên kết với Hội đồng Thế giới các Giáo hội và Liên đoàn Thế giới Hội Thánh Lutheran, đã tổ chức hai hội nghị giữa những người Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, hội nghị lần đầu về tầm quan trọng thiêng liêng của Giêrusalem, lần thứ hai về các viễn tượng cho tương lai[7]. Dù có khó khăn, các cuộc gặp gỡ này đã tỏ ra rất hữu ích.
Rồi cũng có hình thức đối thoại đa phương được thực hành khá thông thường, đặc biệt tại Châu Á, nơi mà tại các nước như Ấn Độ, Mã Lai và Singapore, đối thoại song phương được coi là hình thức ngoại lệ. Cũng tại nước Anh, quê hương tôi, ở cấp địa phương có các hội đồng liên tôn đã được thiết lập, và các cuộc gặp gỡ của các lãnh đạo các tôn giáo khác nhau đã được coi là chuyện bình thường.
Một ví dụ đặc sắc về đối thoại đa phương được cung cấp bởi Hội đồng Thế giới về các Tôn giáo vì Hòa bình. Hội nghị đầu tiên của phong trào này được tổ chức năm 1970 tại Kyoto, Nhật Bản. Hội đồng PCID đã liên kết với phong trào này từ những năm 1980, tham dự trong mỗi hội nghị quốc tế 5 năm một lần. Một dịp đáng nhớ nhất là hội nghị lần thứ sáu được tổ chức tại Riva del Garda, Italia, năm 1994. Lễ khai mạc diễn ra tại Vatican với sự hiện diện của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II.
PCID cũng đã tổ chức một số cuộc tọa đàm trên cơ sở đa phương, chẳng hạn về hôn nhân và gia đình, và về các nguồn lực thiêng liêng cho hòa bình. Có lẽ cuộc gặp gỡ ý nghĩa nhất là Hội nghị Liên tôn được tổ chức vào tháng 10 năm 1999, trước thềm Đại Năm Thánh 2000. Hội nghị này quy tụ khoảng 200 người từ rất nhiều truyền thống tôn giáo khác nhau. Hội nghị kết thúc với một cuộc gặp gỡ tại quảng trường Thánh Phêrô, dưới sự chủ trì của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II[8].
Các hình thức đối thoại khác nhau này có những điểm thuận lợi cũng như những điểm khiếm khuyết của chúng. Hình thức đối thoại song phương giúp tập trung sắc nét hơn vào cả những điểm tương đồng cũng như những khó khăn, nhưng đôi khi nó có thể tạo nên căng thẳng. Đối thoại ba bên và đa phương đôi khi có thể có vẻ hời hợt hơn, nhưng lại có thể tạo được một tinh thần hòa hợp dẫn tới một sự hợp tác tốt đẹp hơn.
Như Đức Phanxicô từng nhắc nhở: “Đối thoại liên tôn là một điều kiện cần cho hòa bình trên thế giới, và vì thế nó là một bổn phận đối với người Kitô hữu cũng như các cộng đồng tôn giáo khác” (Evangelii Gaudium 250). Thật khích lệ khi thấy rằng Văn kiện về Tình Huynh Đệ Nhân Loại cho Hòa Bình Thế Giới và Sống Chung, được ký chung ngày 4 tháng 2, 2019 bởi Đức giáo hoàng Phanxicô và Tiến sĩ Ahmad al-Tayyeb, lãnh tụ Hồi giáo của al-Azhar, được hai vị coi là “một lời mời gọi hòa giải và tình huynh đệ giữa mọi tín đồ, thực ra là giữa những người có tín ngưỡng và những người không có tín ngưỡng, và giữa mọi người thành tâm thiện ý.”
Với cách tiếp cận thực tế và quân bình của nó, Văn kiện Đối Thoại và Rao Giảng vẫn còn có thể cung cấp những hướng dẫn để đạt mục tiêu này.
Thư tịch chọn lọc
Arinze, Francis, “Dialogue and Proclamation. Two Aspects of the Evangelizing Mission,” in Bulletin. Secretariatus pro Non Christianis 77(1991) 201-203.
Burrows W.R. (ed.), Redemption and Dialogue, Maryknoll, New York, Orbis,1993.
Dupuis, Jacques, The Church, the Reign of God and the “Others”, in Pro Dialogo 85-86 (1994) 107-130.
Id., Toward a Christian Theology of Religious Pluralism, Maryknoll, New York, Orbis, 1997, especially 360-377.
Fitzgerald, Michael, “PCID/CEP: Dialogue and Proclamation. Introducing a document on the Evangelising Mission of the Church” in Chidi Denis Isizoh (Ed.), Milestones in Interreligious Dialogue. A Reading of Selected Catholic Church Documents on Relations with People of Other Religions. Essays in honour of
Francis Cardinal Arinze. A Seventieth Birthday Bouquet, RomeLagos, Ceedee Publications,2002, pp. 209-217.
Fitzgerald, Michael, Dialogue and Proclamation, in Bulletin. Secretariatus pro Non Christianis 82(1993) 23-33, with further bibliography.
Mbuka, Cyprian, Annonce et Dialogue interreligieux: une compréhensioninclusive, in Pro Dialogo 88(1995) 54-68.
Thottakara A. (ed.), Dialogical Dynamics of Religions, Rome, CIIS, 1993.
Tomko, J., Dialogue and Proclamation. Its Relation to Redemptoris Missio, in Bulletin. Secretariatus pro Non Christanis 77(1991) 204-209.
Từ: Tập san Pro Dialogo số 167 (LVI) 01/2021 của Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, link tại dimmid.org
2023
Phỏng vấn Đức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn sau Đại hội Thượng Hội đồng XVI về hiệp hành
Đức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn chia sẻ kinh nghiệm đặc biệt của ngài tại Đại hội Thượng Hội đồng.
2023
Tầm quan trọng của việc đệm đàn phụng vụ
Tầm quan trọng của việc đệm đàn phụng vụ
Khi đề cập đến tầm quan trọng của việc đệm đàn trong phụng vụ nghĩa là chúng ta sẽ phải nói đến việc xây dựng một bản đàn như thế nào cho phù hợp với những đòi hỏi của Hội thánh trong các cử hành phụng vụ, một bản đàn cử lên phải có âm thanh du dương, không có yếu tố kích động hoặc kịch trường, vũ điệu…, nhưng có chất thánh thiêng, và phải được kiến tạo (có thể phải viết ra giấy hoặc ứng tấu) dựa trên quy tắc khách quan của nghệ thuật âm nhạc. Khi bài hoà âm cho bản đệm đàn (BĐĐ) được viết ra trên giấy, người nghệ sĩ chơi đàn chỉ việc nhìn vào đó và dùng đôi tay của mình cử lên trên phím đàn; nhưng cũng có những đàn sĩ giỏi hơn, không cần viết ra giấy các bè của bản đàn nghĩa là không cần nhìn vào BĐĐ mà có thể ứng tấu BĐĐ ngay trên đàn. Dù thế nào hay cách nào đi nữa, như vậy rõ ràng là chúng ta đang đề cập đến yếu tố hoà âm.
A- Tầm quan trọng của hoà âm trong sáng tác ca khúc:
Khi người nhạc sĩ bắt đầu hình thành một ý tưởng giai điệu cho một ca khúc nào đó, nếu trong tiến trình này vị nhạc sĩ đó không có ý tưởng gì về cấu trúc hoà âm cho nó thì đó chính là một sự khó khăn rất lớn cho những ai làm công việc hoà âm cho ca khúc đó. Tại sao chúng ta phải nói đến sự quan trọng của cấu trúc hoà âm khi sáng tác một ca khúc?
Khi ta viết được một dòng nhạc nào đó và được gắn liền với lời ca hẳn hoi, nói chung nghĩa là ta đã sáng tác ra một ca khúc. Ở đây chúng ta chưa nói đến bố cục, chất liệu, hình thể… nhưng khi một ca khúc như vậy được hình thành, nó cũng chỉ là một dòng ca với một bè hát, nghĩa là nó chưa được hoà âm. Điều này cũng giống như một em bé khi mới chào đời vậy! Ta cần phải mặc áo cho nó.
Có một phương tiện duy nhất để mặc áo cho nó là Hòa âm, hoà âm một dòng ca cho nhiều giọng nhiều bè hát khác nhau thì ta gọi là hòa âm cho ca đoàn, và khi hòa âm một dòng ca cho một hay nhiều thứ nhạc cụ ta gọi là hòa âm cho bản đệm đàn. Như vậy, vấn đề hoà âm lại là yếu tố quan trọng không kém gì so với việc sáng tác ban đầu, có thể gọi đó là việc sáng tác lần thứ hai; một việc xem ra khó hơn bởi vì người nghệ sĩ phải sáng tác trên dòng ca cho sẵn, nghĩa là dựa trên những gì đã có rồi bây giờ tạo nên cái mới để bổ túc, để trang điểm, để nâng đỡ … làm cho dòng ca ấy được đánh nổi và toàn bộ nhạc phẩm trở nên phong phú hơn! Vì vậy khi sáng tác, các nhạc sĩ nên hết sức lưu ý đến mối liên hệ giữa các hài thanh (HT) với nhau, nó sẽ là nền móng để viết các móc nối hoà âm cho tác phẩm và từ đó dẫn đến một BĐĐ hoàn chỉnh.
Để vấn đề này dần được sáng tỏ, xin mời các bạn cùng theo dõi bài HÁT LÊN BÀI CA của cha Kim Long.
1-Kiểu viết hoà âm cho BĐĐ biệt lập với đơn ca giai điệu cho sẵn.
2-Kiểu viết hoà âm cho BĐĐ biệt lập với hợp xướng 4 bè dị giọng.
3-Các câu TK theo BĐĐ thông thường, Kiểu 1 chỉ dùng các HT chính, Kiểu 2 dùng cả HT chính và phụ, Kiểu 3 dùng cả việc chuyển thể.
B- Tầm quan trọng của Bản đệm đàn trong thánh nhạc phụng vụ:
Chúng ta vừa nghe và hát bài HÁT LÊN BÀI CA của cha Kim Long với phần đệm đàn mà ta gọi là đệm đàn phụng vụ, vì ca khúc này là một bài thánh ca phụng vụ! Đệm đàn phụng vụ nghĩa là làm sao?
Theo cuốn HƯỚNG DẪN MỤC VỤ THÁNH NHẠC của UBTN trực thuộc HĐ Giám Mục VN ban hành vào tháng 7/2017, từ số 44 đến 47 và từ số 82 đến 85, cùng một số văn kiện của Toà Thánh, đặc biệt là HUẤN THỊ VỀ ÂM NHẠC TRONG PHỤNG VỤ (Instructio de Musica in Sacra Liturgia – 05.3.1967), từ khoản 62 đến 67, thì đàn đại quản cầm cùng âm thanh của nó được quan tâm nhiều hơn mọi thứ nhạc cụ khác khi cử hành phụng vụ. Trong bài này xin tạm gọi chung là organo khi muốn nói đến cây đàn này, vì thực tế khi sử dụng đàn keyboard hay đàn Electon ta cũng có thể mở được sắc tiếng của cây đàn đại quản cầm này… Khi đàn organo được dùng chung với tiếng hát trong việc cử hành phụng vụ, thì Hội Thánh mẹ dạy rằng chức năng của nó chỉ là nâng đỡ tiếng hát, dùng các kỹ thuật hòa âm để làm cho tiếng hát được nổi lên mà không nhuốm màu trần tục, đó là đệm đàn phụng vụ.
Theo giáo huấn đó, trong bài này chúng tôi xin đề cập đến một số kỹ thuật để thực hiện hoà âm một bản đệm đàn trên một tác phẩm thánh ca phụng vụ, từ bản đệm đàn của một bài thánh ca phụng vụ được viết trên giấy, chúng ta cử lên cây đàn organo cùng với tiếng hát của ca đoàn, lúc đó ta gọi là đệm đàn phụng vụ.
Bản đệm đàn tiếng Đức gọi là Bekleidung nghĩa là mặc áo, tiếng Pháp, Anh và Ý thì kêu là accompagnement hoặc accompaniment, accompagnare nghĩa là đi theo, là hộ tống. Mục đích của nó là đánh nổi bài ca chứ không gây rối hoặc lấn át bài ca. Có nhiều kỹ thuật khác nhau để đánh nổi bài ca như, bài ca chuyển hành nhanh, BĐĐ đi chậm, bài ca ngân dài ở một dấu nhạc, BĐĐ chạy nhanh hay phỏng diễn ý nhạc trước đó hoặc giới thiệu một nét mới của nhạc đề sẽ xuất hiện sau đó…
Xem những BĐĐ của các nhạc sĩ bậc thầy như Bach, Mozart, Beethoven, Verdi … ta thấy BĐĐ là thành phần cốt yếu của bài ca, nó được dùng để đánh nổi, để bổ túc và để nói lên những gì mà dòng ca chưa tỏ ra hết. Điều mà bản thân lấy làm thích thú nhất là nó cũng như chiếc áo đẹp, chỉ mặc vừa cho người này mà không vừa cho người khác, và khi BĐĐ được viết cho nhiều nhạc cụ thì ví như chiếc áo thêu dệt công phu nhiều màu sắc, lại càng thêm giá trị … Hoặc có thể ví BĐĐ như một vườn hoa đầy màu sắc và bài ca như những con ong con bướm bay lượn trên nó. Hơn nữa, một người thì có thể có nhiều chiếc áo để thay đổi, thì bất cứ bài ca nào cũng vậy, có thể có nhiều kiểu viết hòa âm cho BĐĐ hoặc những bản đàn độc tấu dựa trên nhạc đề đó, và từ đây phát sinh lối viết khai triển nhạc đề theo nhiều kiểu khác nhau và ta thường gọi là các khúc biến tấu trên một nhạc đề (variations), và cái khó còn lại là chọn những kiểu nào cho thích hợp nhất, xứng đáng nhất với bài ca. Vì nhạc đề là bài ca đã có sẵn nên nó phải là thành phần chính yếu của BĐĐ và nó không thể sửa chữa, và như thế công việc này rất bao la mênh mông với nhiều đòi hỏi cho người viết BĐĐ và nghệ sĩ chơi đàn, trong đó trình độ, lương tri và sự kiên nhẫn là ba yếu tố cần thiết nhất.
Ngay từ đầu môn học hòa âm, nhà trường thường bắt học viên phải biết chơi đàn dương cầm (piano) hoặc đại quản cầm (organo), là hai thứ đàn có thể chơi được nhiều bè cùng một lúc, biết để có thể chơi được những bản hòa âm mà bạn viết ra, như thế mới có kết quả, bởi lẽ học hòa âm không phải là viết các công thức móc nối thế này thế kia, nhưng phải biết nghe, biết phân biệt các cơ cấu, liên kết hòa hợp hay tương phản trong các âm thanh… Nói đến đây ta sẽ thấy thêm một lợi ích khác, nếu bạn biết chơi dương cầm hay đại quản cầm thì mới có khả năng để viết một BĐĐ ít nhất là thích ứng với khả năng đa dạng của hai cây đàn này, dĩ nhiên bạn phải học xong môn hòa âm, một môn học hao tổn khá nhiều công sức và đã khiến cho bao người bỏ cuộc, nhưng nó lại là nền tảng của mọi vấn đề trong ngành nghệ thuật này.
Xem ra có một số người đệm đàn ở các xứ đạo chưa hiểu rõ chức năng của nó cũng như sự học hỏi cần thiết cho việc làm này, vì thế mới có những hiện tượng đáng tiếc như chúng ta đã thường gặp.
Để cụ thể hóa vấn đề, và thời gian cũng có hạn, chúng tôi xin trưng dẫn ra đây một vài kiểu kỹ thuật viết hòa âm cho BĐĐ, đây không phải là tất cả, nhưng theo cách nhìn khách quan về lĩnh vực này, nó chỉ là vài kiểu căn bản mà chúng tôi nghĩ rằng trong số đó có những kiểu rất xứng đáng, rất phù hợp với cung cách đệm đàn phụng vụ ở mức độ dễ chấp nhận, nghĩa là không quá kinh điển, không quá cầu kỳ, không như cung cách nhạc đời nhưng cũng không tầm thường và nhiều người có thể đàn được, lại đúng với quy tắc khách quan của ngành nghệ thuật này đòi hỏi. Và như thế, vấn đề được đặt ra không phải là BĐĐ dễ hoặc khó, đơn giản hay phức tạp, mà nó có phải là thành phần không thể thiếu của một bài ca hay không, hoặc nó có xứng hợp để đánh nổi, để bổ túc cho bài ca hay không, đặc biệt là các bài thánh ca phụng vụ.
Sau đây, là sáu kiểu viết hòa âm cho BĐĐ (gồm 3 kiểu thông thường và 3 kiểu biệt lập) dựa trên nhạc đề của Lm. Kim Long, đó là bài LỜI CHÂN THÀNH.
- BẢN ĐỆM ĐÀN THÔNG THƯỜNG:
- Nhạc đề là bè trên cùng của BĐĐ:
- Ô nhịp 1: Dấu SO ở dòng ca là dấu hoa mỹ, có thể coi đó là dấu nhấn, vì nhấn ở thì yếu nên không hiệu quả lắm.
- Ô nhịp 4: DO-RE-MI-FA và LA-TI-DO-RE ở hai bè trong có ý để phỏng diễn lại ý nhạc trước đó ở ô nhịp 3 (SO–LA–TI) để tạo thành đoạn nối câu, đồng thời sau đó thêm dấu RE và FA ở hai bè trong (DO–RE–MI–FA và LA–TI–DO–RE) thì trở thành một nét nhạc đảo lộn sẽ được giới thiệu ngay sau đó ở ô nhịp 5 (RE–DO–TI–LA).
- Cũng vậy, ở ô nhịp 6 có bè trong là LA–SO–FA–MI–REchuyển hành nhanh để phỏng diễn ý RE–DO–TI–LA trước đó, tuy là những dấu nhạc hoa mỹ ở bè trong, nhưng lại là nhạc đề sẽ được đánh nổi ngay sau đó ở bè trên trong cùng ô nhịp 7 – 8 (LA–SO–FA–MI–RE).
- Câu tiểu khúc được hòa âm bằng việc “Ghi động” (agitato), kỹ thuật này rất được ưa chuộng vào thời kỳ Baroque (TK.17), tức là mỗi thì nhịp trong nhạc đề đều được thay phiên nhau bị động liên tục, khi thì bè trên, lúc thì bè dưới hoặc bè giữa, nét nhạc ghi động này được lấy từ nhạc đề của Điệp khúc (SO–FA–MI–RE/ DO–TI–LA–SOL/ FA–MI–MIb–RE ở các ô nhịp 11, 13 và 15).
Lời bình:
Đây là lối viết BĐĐ được xem là lý tưởng nhất và phổ biến nhất, có thể áp dụng cho hầu hết các ca khúc. Vì dòng ca của bài hát lại là bè trên cùng của BĐĐ nên lối viết này dễ giúp cho người hát giữ vững được cung giọng trong khi hát, nhất là đối với những ban hát ca đoàn còn giới hạn về khả năng chuyên môn, cũng dễ cho người chơi đàn nhận ra diễn tiến của bài ca mà phối hợp nhịp nhàng trong khi hát. Lối viết hòa âm BĐĐ này không quá khó cho tác giả, nhưng muốn viết hòa âm cho hay cũng không phải là dễ như ta thường thấy trong khi học hòa âm, và thực sự cách này đã thể hiện được điều mong muốn của Giáo hội : nhạc cụ dùng trong nhà thờ là để nâng đỡ tiếng hát.
(Lời Chân Thành 1)
- Nhạc đề là bè giữa của BĐĐ:
Cũng được dùng với kỹ thuật ghi động như đã mô tả ở 1.d nhưng không mất tính đồng nhất. Trong 3 ô nhịp đầu, bè trên cùng được chuyển hành lên, có ý tạo nên sự tương phản với bè trầm chuyển hành xuống đồng thời (RE–DO#–DO–TI–LA), là một ý của nhạc đề nhằm giới thiệu trước sẽ xuất hiện sau cùng của phần ĐK (LA–SO–FA–MI–RE). Sự tương phản này như cái khung để trưng ra một bức tranh là nhạc đề được xuất hiện ở khu vực giữa.
- Đoạn nối câu ở ô nhịp 4 được sử dụng dấu trì hoãn và dấu lượn.
- Ô nhịp 6cũng cùng một ý như đã mô tả ở số 1.c.
- Ô nhịp 8 có bè trên cùng (RE–DO–TI–LA–SO) là phỏng diễn ý cuối của nhạc đề (LA–SO–FA–MI–RE) ở ô nhịp 7 trước đó.
- Phần TK cũng được ghi động, và cố gắng phỏng diễn nét chính tuy không cân đối.
Lời bình:
Lối viết hoà âm BĐĐ này nếu điều chỉnh lại một chút để đem ra thực hiện trên bốn bè hát dị giọng Soprano, Alto, Tenore và Basso thì phải khéo léo lắm mới có thể làm nổi được dòng ca chính, có nghĩa là cách thức này dễ làm cho dòng ca bị che lấp, điều này cũng là một thách đố đối với tác giả. Và như vậy, sẽ không quá khó khi ta xét về phương diện âm sắc và âm lượng, ý muốn nói đến sự khác biệt âm sắc và âm lượng của tiếng đàn với tiếng hát, nếu biết điều chỉnh hợp lý sao cho tiếng hát vẫn được tiếng đàn làm cho nổi bật do sự tương phản về âm sắc thì cũng dễ dàng chấp nhận. Ví dụ nếu dùng sắc tiếng Choir Ahhs hoặc Voice Ohhs hoặc sắc tiếng gần giống giọng người như bộ kèn Sax của đàn organo để chơi Bđđ loại này thì có thể sẽ phủ lấp dòng ca của bè hát; tốt hơn là dùng những âm sắc khác biệt với giọng hát nhưng không chói tai như Strings, như Organ Pipe … thì khá lý tưởng. Đó là chúng ta vẫn chưa bàn đến sự tương phản của nhịp điệu, khi dòng ca chuyển hành thì các bè còn lại của Bđđ đứng yên chẳng hạn, hoặc khi dòng ca đứng yên vì hết câu nhạc thì các bè còn lại chuyển hành … vậy nói cho đúng, mặc dù dòng ca nằm ở bè giữa hay khu vực giữa của BĐĐ, chúng ta vẫn có nhiều cơ hội để thực hiện các giải pháp sao cho dòng ca được đánh nổi, vấn đề còn lại là sự hiểu biết, là khả năng chuyên môn, là tính thẩm mỹ và lương tri của chúng ta.
(Lời Chân Thành 2)
- Nhạc đề là bè trầm của BĐĐ:
Có nhiều hạn chế hơn để phỏng diễn ý nhạc, các bè trên thường giữ vai trò hòa âm đắp cho đầy, tuy nhiên ta cũng thấy:
- Ô nhịp 2 sang đầu ô nhịp 3: Bè trên cùng như giới thiệu trước (RE–DO#–DO–TI ) nét nhạc cuối cùng của phần ĐK (SO–FA–MI–RE).
- Ô nhịp 4 sang đầu ô nhịp 5 cũng là hình thức đó ở bè trên cùng. Rồi sau này lại tái diễn bằng hình thức đảo lộn ở ô nhịp 12 sang đầu ô nhịp 13 và cũng ở bè trên cùng.
- Ô nhịp 4 sang đầu ô nhịp 5, ở bè giữa (RE–MI–FA–RE–MI) là nét phỏng diễn của ý nhạc đề trong ô nhịp 3 trước đó (SO–LA–TI–SO–LA).
- Nét nhạc này cũng được phỏng diễn ở bè trên cùng từ giữa ô nhịp 5 sang ô nhịp 6 (LA–TI–DO–LA–TI ).
- Một lần nữa, nét nhạc cuối cùng từ ô nhịp 7 sang ô nhịp 8 (LA–SO–FA–MI–RE) cũng được mô phỏng bằng việc đảo lộn nét nhạc ngay sau đó ở bè trên cùng (SO–LA–TI–DO–RE) để kết thúc phần ĐK.
- Ô nhịp 13 : Có 2 bè trong là nét mô phỏng phóng khoáng của ý nhạc đề vừa đi qua trong ô nhịp 12 (FA–SO–LA–FA–RE), đồng thời nó cũng đóng vai trò là đoạn nối câu.
- Ô nhịp 15: Bè trên cùng đã giới thiệu 1 nét nhạc mà nhạc đề sẽ xuất hiện thực sự ngay sau đó ở ô nhịp 16.
Lời bình:
Để viết hòa âm cho một bè trầm có sẵn ở giai đoạn đầu của môn học này thì thường rất đơn giản, nhưng thật không phải dễ ở mức độ sâu hơn. Theo cách này thì nhạc đề chính nằm ở bè thấp nhất, vậy nhạc đề càng khó được nổi bật hơn, nhạc đề càng ít có cơ hội được nâng đỡ nên ta có thể nhận xét ngay: không mấy thích hợp để thực hiện trong thánh ca thánh nhạc. Nói rằng không mấy thích hợp ở đây chỉ là theo nhãn quan của giới bình dân, theo quan điểm của nghệ thuật thì giải pháp nào cũng tốt đẹp nếu người nghệ sĩ biết khéo léo vận dụng các qui tắc khách quan của nghệ thuật, rồi ca đoàn và dàn nhạc phụ họa được vị chỉ huy có hiểu biết và kinh nghiệm đứng ra hướng dẫn điều khiển thì chắc chắn vẫn tốt đẹp và xứng đáng như thường. Ta có thể dễ thấy rất nhiều bài thánh ca, trong các version của nó, bè trầm là nhạc đề chính như bài “Away in a manger”, “Adeste Fideles” … Mà hai ban hợp xướng Mormon Tabernacle và Mendalion đã từng trình bày… Hoặc hơn nữa, một số tác phẩm thánh ca VN mà phần hòa âm (nguyên chỉ nói đến 4 bè hợp xướng) đã để dòng ca chính làm bè trầm mà chúng ta vẫn dễ dàng chấp nhận như nhiều ca đoàn đã thể hiện, mặc dù ở tầm tiếng thấp nhưng nhạc đề chính vẫn được nổi bật, như: “Chiên vượt qua”, của Cát Minh – hòa âm TL, “Tâm tình hiến dâng” của Oanh Sông Lam – hòa âm: CH.
(Lời Chân Thành 3)
- BẢN ĐỆM ĐÀN BIỆT LẬP
- BĐĐ được viết bằng những HT rập dấu cùng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ:
- Đoạn nhạc mở đầu được lấy từ các HT móc nối trong đoạn cuối của Điệp khúc (ô nhịp 8-9-10).
- Cơ cấu hoà âm được lấy từ BĐĐ kiểu 1.
- Dấu RÊ ở bè trên của BĐĐ trong ô nhịp 7 là dấu trì hoãn (retard) sẽ được giải nghịch sang DO, nhưng không sang ngay mà lượn xuống nốt TI trước, có ý tạo ra nét nhạc TI–DO–RE–MIlà nét đảo lộn của ý nhạc đề sẽ được xuất hiện ngay sau đó ở ô nhịp 8 (RE–DO–TI–LA) đồng thời làm nhiệm vụ nối câu.
- Bè trên của BĐĐ ở ô nhịp 8-9-10 (FA–MI–RE–DO#) như giới thiệu trước ý nhạc đề sẽ được xuất hiện ngay sau đó.
- Ở ô nhịp 9, BĐĐ có bè trong chuyển hành cũng là để giới thiệu nguyên vẹn hình ảnh của nhạc đề (LA–SO–FA–MI) sẽ được trình diện ngay sau đó.
- Cũng trong 3 ô nhịp 8,9,10bè trầm chuyển hành cũng lấy nguyên ý cuối của nhạc đề sau đó nhưng đã được đảo lộn và nới rộng (RE–MI–FA–SO–LA). Nét nhạc này cũng lập lại ở ô nhịp 11 (MI–FA–FA–SO).
- Cũng bằng cách ghi động, các bè của BĐĐ trong phần phiên khúc thay phiên nhau, làm cho đầy đặn bằng những HT rập dấu, bằng một chút phỏng diễn, bằng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ để bổ túc vào những chỗ trống của nhạc đề và để đối đáp với nhạc đề.
- Phần kết thúc cũng giống như những điều đã mô tả ở 1.c.
Lời bình:
Nói chung BĐĐ biệt lập là BĐĐ mà trong đó không có sự hiện diện của nhạc đề chính, rồi chính BĐĐ cũng có thể trở thành một tác phẩm riêng biệt để độc tấu mà không cần sự xuất hiện của nhạc đề. Thông thường thì BĐĐ biệt lập cho người nghe một hiệu ứng rất tráng lệ huy hoàng, các BĐĐ biệt lập mà không theo công thức nhịp điệu thường đòi hỏi ca đoàn và người chơi đàn phải có một trình độ nhất định, theo cách này thì chức năng của BĐĐ như để trải thảm, nhạc đề chính như những con ong con bướm bay lượn lên trên nó. Như vậy, cách này đòi hỏi người viết BĐĐ phải có kiến thức và người chơi đàn cũng như ca đoàn phải có trình độ nhất định, cách này rất xứng hợp với phụng vụ vì bản thân nó dễ tạo nên những điều kiện cho dòng ca chính được đánh nổi.
(Lời Chân Thành 4)
- Viết BĐĐ bằng những HT trải dấu và công thức nhịp điệu:
- Đoạn mở đầu được dùng nguyên công thức trải dấu của Bđđ, cuối đoạn mở đầu được dùng các dấu nhạc liền bậc như để lấy đà dẫn vào bài ca một cách tự nhiên (giữa ô nhịp 4).
- Ô nhịp 8 được dùng các dấu nhạc liền bậc làm thành đoạn nối câu.
- Các HT rập dấu ở ô nhịp 13 có ý để lập lại những dấu cuối cùng của nhạc đề (FA-MI-RE).
- Câu tiểu khúc được dùng các HT rập dấu bằng công thức nhịp điệu, nghe có vẻ máy móc tầm thường.
- Ô nhịp 21 và 22 : Công thức nhịp điệu được biến đổi để làm thành đoạn nối câu, để trở về ĐK bằng hình thức trải dấu.
- Phần kết được lấy nguyên vẹn công thức đệm của phần ĐK như để nhắc lại và đóng khung toàn bộ tác phẩm.
Lời bình:
Nhìn kỹ những tác phẩm bậc thầy, ta thấy có muôn vàn kiểu trải dấu và công thức nhịp điệu, các BĐĐ viết theo kiểu trải dấu và công thức nhịp điệu thường dễ đàn hơn là các BĐĐ viết theo lối mô phỏng. Kiểu này dễ được chấp nhận trong các ca đoàn mà khả năng còn hạn chế, đặc biệt là những ca đoàn thiếu nhi ở xứ ta. Vì bản thân nó dễ làm cho người hát giữ vững nhịp điệu (tempo) của bài ca, do đó mà các ca viên ca đoàn tự tin hơn khi hát, rồi người chơi đàn cũng dễ luyện tập hơn; Nhưng xem ra, trải dấu kiểu nào cũng mang tính máy móc công thức, mà đã là công thức thì tầm thường nên không phù hợp lắm đối với những bài ca mang tính tôn nghiêm trang trọng, và như vậy càng không thích hợp với việc đệm đàn phụng vụ.
(Lời Chân Thành 5)
- Bằng sự đối chọi nhịp điệu của nhạc đề và bè trên của BĐĐ. Bằng kỹ thuật bè trầm chuyển hành liên tục:
- Phần đầu gồm 4 ô nhịp, 4 ô nhịp này gần như đã gói trọn các ý chính của nhạc đề trong phần ĐK. Ô nhịp 1 (LA–RE–DO#–RE–MI) là lấy từ nét nhạc của “Lời chân thành dâng tiến”. Ô nhịp 2 (MI–LA–SO–FA#–MI) là lấy từ “Nguyện Chúa Cha nhân từ”. Ô nhịp 3 (LA–SO–FA–MI–RE) và ô nhịp 4 (TI–LA–SO–FA–MI) là lấy từ nét nhạc cuối của phần ĐK “Lễ hy sinh trên bàn thờ”.
- Đồng thời nét nhạc này lại là bè trên của BĐĐ để phụ họa cho vế 1 của phần ĐK (từ ô nhịp 5 đến 8) nhưng có nhịp điệu biệt lập (chuỗi liên 3) và đều đều, gây tương phản với nhịp điệu của đề (hình thức chẵn).
- Ô nhịp 8 là đoạn nối câu (LA–TI–DO#–RE–MI) là sự đảo lộn ý cuối của nhạc đề ĐK (LA–SO–FA–MI–RE) để dẫn vào đầu câu sau một cách tự nhiên, vì nét nhạc này đã được giới thiệu nguyên hình ở bè trên của BĐĐ trong ô nhịp 7 trước đó rồi. Sau đó nó còn được giới thiệu một lần nữa ở bè trầm từ ô nhịp 9 đến 11 cũng bằng hình thức đảo lộn nhưng được nới rộng.
- Như vậy, trong phần ĐK, toàn bộ ý tưởng của BĐĐ luôn được gắn chặt với nhạc đề, tương phản và đối đáp với nhạc đề để cái này đánh nổi cái kia, sự tương phản về nhịp điệu thì ta thấy rõ, còn về nét nhạc chuyển hành lênxuống thì được BĐĐ đối đáp hoặc mô phỏng trên bình diện khác, khi thì chỗ này lúc thì chỗ kia, ví dụ ý nhạc của ô nhịp 9 (LA–RE–DO–TI–LA) được BĐĐ giới thiệu ở ô nhịp 6 (MI–LA–SO–FA#–MI) rồi lại được mô phỏng ngay sau đó từ cuối ô nhịp 10 sang đầu ô nhịp 11 (RE–SO–FA–MI–RE).
- Phần TK được BĐĐ áp dụng kỹ thuật bè trầm chuyển hành liên tục (Basso continuo) bằng việc sử dụng các dấu nhạc hoa mỹ như dấu nối, dấu lượn, dấu nhấn.
- Đoạn kết (từ ô nhịp 23 trở đi) mô phỏng lại ý nhạc của vế 2 phần ĐK nhưng được biến đổi nhịp điệu.
Lời bình:
Một tác phẩm âm nhạc giá trị nào bao giờ cũng tiềm ẩn các yếu tố của sự tương phản, bởi lẽ để thưởng thức được một tác phẩm nghệ thuật thì thông thường tác phẩm ấy phải có tính hấp dẫn, mà tính hấp dẫn được thể hiện nhiều nhất qua sự tương phản. BĐĐ biệt lập được viết theo kiểu mô phỏng nhằm để thực hiện điều đó, nhưng thường thì rất khó viết. Để viết BĐĐ theo cách này thành một tác phẩm có giá trị thì đòi hỏi nhạc sĩ phải có khá nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhất là phải thông thạo về các kỹ thuật của bộ môn đối âm (contra puntum); lại đòi hỏi cả người chơi đàn cũng phải giỏi, hay ít ra cũng phải được rèn luyện công phu để ngón đàn trở nên thông thạo xuôi chảy thì mới có thể ráp nối với ca đoàn; rồi khi ráp chung, ca đoàn và người chỉ huy cũng phải có một trình độ nhất định mới giải quyết được tất cả các vấn đề chi tiết của tác phẩm … nếu thiếu hiểu biết, các BĐĐ loại này rất dễ làm dịp tội cho người chơi đàn, vì nếu họ không được chỉ dẫn cặn kẽ sẽ vướng phải điều tối kị là “khoe tiếng đàn”, làm cho tiếng đàn lấn át tiếng hát thì phản tác dụng rồi, điều đó thật không phù hợp, không đúng tinh thần mà Hội thánh mong muốn.
Như vậy, để có thể thực hiện tác phẩm với BĐĐ loại này, ta thấy có khá nhiều đòi hỏi về trình độ chuyên môn của các thành phần liên quan, không mấy thích hợp cho các ca đoàn bình dân còn có nhiều hạn chế. Tuy nhiên, nếu nơi nào có khả năng thực hiện thì nó rất xứng đáng, vì nó có có khả năng làm tăng thêm vẻ trang trọng, lộng lẫy huy hoàng của khung cảnh lễ nghi phụng vụ.
(Lời Chân Thành 6)
Ta có thể nói tóm tắt rằng, tầm quan trọng của BĐĐ trong việc sáng tác, dù là bài thánh ca lớn hay nhỏ, đơn giản hay phức tạp, để gọi là mặc áo nên tất cả cần phải được viết hoà âm cho bản đệm đàn, để người đàn có thể nhìn vào đó mà cử lên cùng với tiếng hát của ca đoàn. Đó là việc làm đúng đắn và cần thiết, chứ không phải là ta viết tên hợp âm như Am, Dm bên trên dòng nhạc như nhiều nơi thường làm. Như vậy, để viết một bản đệm đàn thì ngoài việc biết chơi đàn, bó buộc chúng ta phải học hoà âm, học để viết được bản đệm đàn cho đúng các giá trị và quy tắc khách quan của ngành nghệ thuật này đòi hỏi, như điều mà Hội thánh mẹ mong muốn chúng ta thực hiện khi nói đến đặc tính hình thức tốt đẹp (bonitas formae) trong Huấn thị Âm nhạc trong Phụng vụ, khoản 4.
Để kết thúc, chúng tôi xin trình bày lại một lần nữa bài LỜI CHÂN THÀNH ở một bình diện Hợp xướng bốn bè dị giọng, kết hợp với Bản đệm đàn biệt lập theo hình thức trải thảm.
Antôn Tiến Linh
2023
Bác ái vô vị lợi
6.11 Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
Rm 11:29-36; Tv 69:30-31,33-34,36-37; Lc 14:12-14
Bác ái vô vị lợi
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyến cáo vị thủ lãnh người Biệt phái hãy loại bỏ lối sống ích kỷ và lòng tham lam tiền bạc, mà hãy quan tâm đến những người nghèo khổ; đồng thời, Người đề nghị khi dọn tiệc nên “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù”. Nếu làm được như vậy, ông sẽ được phúc, vì người nghèo biết ơn ở đời này và được ban thưởng hạnh phúc ở đời sau, nhờ những người công chính sống lại đền ơn cho ông.
Ông bà ta thường nói: “có qua, có lại mới toại lòng nhau” hay “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Thật vậy, trong cuộc sống có mấy ai cho đi mà không cần lấy lại. Lẽ thường con người ta luôn luôn muốn nhận lại những gì mình đã cho đi. Hôm nay tôi giúp anh việc này, để phòng khi lúc cần anh sang mà giúp lại. Tôi hãnh diện khi được vinh danh là ân nhân cho một chương trình nào đấy.
Chương trình từ thiện của tôi ắt hẳn là vì cộng đồng nhưng buộc phải vang danh, có tầm ảnh hưởng sâu rộng, để nâng cao uy tín cho bản thân tôi, cho doanh nghiệp của tôi chằng hạn… Tất cả những ý muốn đó dù có được thể hiện qua cách này hay cách khác, một cách lộ liễu hay thầm kín tinh vi nhưng cũng không ngoài mục đích tìm mối lợi cho chính mình.
Còn ngược lại, Chúa Giêsu dạy rằng: thi ân mà không cần đáp trả. Chúng ta sống với nhau, không tính toán chi cả mà bằng tình yêu cho đi nhưng không với mọi người. Đó mới thật là cho đi hết lòng, cho thật tình mà không vị lợi. Đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh giác nhắc cho mọi người hiểu rõ rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè anh em, hay bà con láng giềng giàu có, kẻo họ lại mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi”. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hướng chúng ta về một cái nhìn rất khác, đó là bác ái vô vị lợi. Gương bác ái vô vị lợi mà chúng ta tìm thấy đầu tiên chính là hình ảnh của Chúa Giêsu.
Vì yêu thương nhân loại vô bờ, Chúa Giêsu đã khiêm hạ đến trần gian trong mầu nhiệm nhập thể với thân phận nhỏ bé thấp hèn. Tình thương của Ngài trao ban đi mà không cần chi đáp trả, Chúa quan tâm đến những người nghèo khó, bệnh tật … và mời gọi tất cả cùng dự bàn tiệc nước trời với Ngài.
“Vì quyền năng của Đức Chúa thì lớn lao,
Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường”
Đối với Thiên Chúa, Ngài rất yêu quí, những người sống khiêm nhường vì họ là những người biết chạnh lòng thương tha nhân, biết sống theo tiếng gọi con tim rộng mở, để đón nhận đem ích lợi cho tha nhân, không quản ngại khó khăn gian khổ, họ không mong đền đáp, biết cho đi thật nhiều, nhưng chẳng nhận bao nhiêu với người đời… nhưng thực giản đơn, Thiên Chúa luôn bù đắp những tấm lòng không so đo tính toán, không kiêu căng hay vụ lợi, khi họ cho đi là đã nhận rất nhiều hơn thế, đó là niềm vui vô hình họ không chạm vào được. Vì với Thiên Chúa: “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).
Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau, về phần thưởng mại hậu dành cho những ai thực hiện lòng bác ái một cách vô vị lợi. Đang lúc dự tiệc ở trần gian, Ngài liên tưởng đến bữa tiệc sẽ hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa. Trong bữa tiệc đó, những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống (Lc1, 52-53), ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi đó, chúng ta tìm thấy được trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu ấy được biểu hiện trong việc Nhập Thể và Nhập Thế. Đây chính là tình yêu vô biên mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Vì yêu, Thiên Chúa đã “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…”(Pl 2, 6) để cứu độ con người, để cho con người được sống xứng với phẩm giá của mình và được chung hưởng hạnh phúc với Ngài.
Thật vậy, Thiên Chúa đã làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống ngang tầm mức những kẻ bé nhỏ, nghèo hèn; Ngài không tìm địa vị cao sang, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, yếu đau, tội lỗi và những người bị gạt ra bên lề xã hội (Lc 4, 18).
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm những kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả mọi người, nhất là những người nghèo khổ hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề hãy đến cùng tôi…”(Mt 11, 28).
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa. Điều quan trọng là có bao giờ bạn biết mở rộng lòng mình, để đón nhận và trao ban Tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người hay không?