2023
Ủy ban các vị Tử đạo mới đã xác định hơn 550 vị tử đạo mới
Ủy ban các vị Tử đạo mới đã xác định hơn 550 vị tử đạo mới
Ngày 9/11/2023 Ủy ban các vị Tử đạo mới – Chứng nhân Đức tin – đã họp tại Bộ Phong Thánh để phác thảo các phương pháp và công việc hướng đến Năm Thánh 2025. Ủy ban đã xác định hơn 550 vị tử đạo, từ năm 2000 đến nay, những vị Giáo hội đã biết hoàn cảnh tử đạo và phục vụ của họ.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết cuộc khảo sát về các nạn nhân Kitô giáo và việc dâng hiến mạng sống của các giáo dân, các mục tử, những người thánh hiến sẽ sử dụng những kết quả đã được thực hiện bởi hãng tin Fides và các cơ quan khác, cũng như của những nghiên cứu mới, được hỗ trợ bởi các giám mục, các dòng tu và những người lưu giữ ký ức về những Kitô hữu này.
Các vị tử đạo từ năm 2000 đến nay
Công việc trong giai đoạn đầu tiên này sẽ liên quan đến các Kitô hữu có cuộc sống bị cắt ngắn hoặc trao tặng sự sống bằng nhiều cách khác nhau để sống theo Tin Mừng, trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay.
Hiện có hơn 550 nhân chứng được biết hoàn cảnh qua đời cũng như việc phục vụ Giáo hội và dân Chúa của họ. Một trang web hiện đã được thiết lập để hỗ trợ công việc của Ủy ban và cung cấp một số thông tin cần thiết.
Phương pháp làm việc
Phương pháp làm việc của Ủy ban các vị Tử đạo mới là có sự hợp lực của những người không là thành viên của Ủy ban, đặc biệt liên quan đến việc tái thiết bối cảnh lục địa, khu vực và quốc gia, nơi các vị Tử đạo đã đổ máu ra và dâng tặng sự sống. Sự đóng góp của nhiều tín hữu thuộc các Giáo hội Công giáo Đông phương đã được nhắc lại, đặc biệt tập trung vào Trung Đông và Châu Á.
Ủy ban cũng nhắc lại giá trị đại kết của sự tử đạo theo nghĩa rộng và việc cần xem xét sự phong phú của chứng tá của các Kitô hữu thuộc các hệ phái khác.
Bộ Phong Thánh, qua Chủ tịch của Ủy ban là Đức Tổng Giám mục Fabio Fabene, đã cung cấp cho Ủy ban những công cụ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ được giao (nguồn nhân lực và kỹ thuật).
Cùng với Phó Chủ tịch là Giáo sư Andrea Riccardi, nghiên cứu trước đây đã được xem xét lại và đưa ra đề xuất cho việc nghiên cứu trong tương lai.
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
Bộ Giáo lý Đức tin: Người Công giáo vẫn bị cấm tham gia hội Tam điểm
“Người Công giáo vẫn bị cấm tham gia hội Tam điểm” là câu trả lời của Đức Hồng Y Victor Fernandéz, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã được Đức Thánh Cha phê chuẩn, đối với câu hỏi liên quan đến vấn đề này của Đức cha Julito Cortes, Giám mục của Dumanguete ở Philippines.
Tại Giáo phận Dumanguete, trong thời gian gần đây có sự gia tăng các tín hữu tham gia vào hội Tam điểm, trước tình hình này, Đức cha Cortes đã xin ý kiến Toà Thánh để có thể giải quyết thích đáng từ quan điểm mục vụ và giáo lý.
Trong văn bản trả lời ký ngày 13/11/2023, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin cũng hướng đến Hội đồng Giám mục Philippines để “có sự phối hợp chiến lược giữa các Giám mục, bao gồm hai cách tiếp cận”.
Đầu tiên liên quan đến bình diện giáo lý. Đức Hồng Y Victor Fernandéz nhắc lại rằng: “Người Công giáo bị cấm tham gia hội Tam điểm, bởi vì không có sự hoà giải giữa giáo lý Công giáo và giáo lý của hội Tam điểm”.
Điều thứ hai liên quan đến bình diện mục vụ. Bộ Giáo lý Đức tin đề xuất với các Giám mục Philippines “tiến hành một khoá giáo lý cho tất cả các giáo xứ, liên quan đến lý do tại sao không thể hoà giải giữa đức tin Công giáo và hội Tam điểm”.
Cuối cùng, Đức Hồng Y Tổng trưởng mời gọi các Giám mục nhận ra rằng đây cũng là dịp để đưa ra tuyên bố công khai về chủ đề này.
Trong Tuyên bố được đưa ra vào tháng 11/1983, trước ngày Bộ Giáo luật mới thay thế Bộ Giáo luật 1917 có hiệu lực, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khi đó là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã nhắc lại rằng những người Công giáo ghi danh vào hội Tam điểm là “đang ở trong tình trạng tội trọng”.
Tam điểm là một hội dựa trên sáng kiến, huyền bí và tình huynh đệ, phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới, có nguồn gốc từ Anh vào năm 1717. Hội Tam điểm truyền bá một lối giáo dục có tính bí truyền, tiên phong sử dụng những biểu tượng và nghi lễ. Hội khuyến khích thành viên hành động vì sự tiến bộ nhân loại, nhưng để cho mỗi người lựa chọn cách để thực hành điều đó. Hội phát triển một số lượng lớn các nghi lễ và biểu tượng nhưng không phải luôn luôn được thông hiểu giữa các thành viên.
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
Nền tảng thần học của bài ca Phụng vụ
Nền tảng thần học của bài ca Phụng vụ
Âm nhạc có tầm quan trọng như thế nào đối với tôn giáo trong Kinh thánh mà ta có thể dễ dàng suy ra qua từ “ca hát”, là một trong những từ được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Trong Cựu ước từ này được nhắc đến 309 lần và trong Tân ước được nhắc đến 36 lần.
Ở nơi Thiên Chúa nhập cuộc để tiếp xúc với con người thì lời nói không còn đủ nữa. Những tồn tại của cuộc sống được chạm đến và tự khắc trở thành bài ca: những gì là của con người không còn đủ để con người diễn tả nữa, và vì thế, con người mời gọi tất cả các thụ tạo cùng với mình trở thành bài ca: “Thức dậy đi, hồn tôi hỡi, thức dậy đi, hỡi đàn sắt đàn cầm, tôi còn đánh thức cả bình minh. Lạy Thiên Chúa, trước mặt chư dân, con dâng lời cảm tạ, giữa lòng muôn nước, con đàn hát xướng ca. Vì tình thương của Ngài cao ngất trời xanh, và lòng thành tín vượt ngàn mây thẳm” (Tv 57, 9-11). Bài hát đầu tiên được tìm thấy, trong Kinh thánh, là sau cuộc vượt qua biển đỏ. Lúc ấy dân Israel được giải phóng hoàn toàn khỏi ách nô lệ, họ đã cảm nghiệm tràn trề quyền năng cứu độ của Thiên Chúa trong hoàn cảnh thất vọng thê lương. Giống như Môsê từ lúc nhỏ được cứu khỏi nước sông Nil và bằng cách này ông thực sự đã được cứu sống, cũng vậy đến lượt mình dân Israel cảm thấy mình được cứu ra khỏi nước, được tự do, lần nữa được trở về với chính mình từ bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa.
Phản ứng của dân trước biến cố nền tảng của ơn cứu độ trong trình thuật kinh thánh được diễn tả bằng những từ sau: “Họ tin vào Thiên Chúa và tin vào Môsê, tôi tớ Người” (Xh 14,31). Tuy nhiên, phản ứng thứ hai tiếp sau đó cao hơn so với lần đầu, với sự thôi thúc cơ bản: “Bấy giờ ông Môsê cùng con cái Israel hát mừng Thiên Chúa…” (Xh 15,1). Trong việc cử hành đêm vượt qua các tín hữu đã cất lên bài ca này, từ năm này sang năm khác, họ ca hát như thể đó là bài ca mới của họ, vì họ cũng biết rằng, họ được “kéo ra khỏi nước” nhờ quyền năng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa giải thoát để có được cuộc sống đích thực. Sách Khải huyền của thánh Gioan tiếp tục mở rộng thêm đề tài này.
Rồi khi những kẻ thù cuối cùng của Dân Chúa đã bước vào bức màn lịch sử – bộ ba satan, bao gồm con thú, tượng của nó và con số tên tuổi của nó – nghĩa là khi mọi thứ dường như bị biến mất, đối với dân thánh Israel của Thiên Chúa, ngay trước một sức mạnh quá mức như vậy thì vị tiên tri được ban cho thị kiến về người chiến thắng: “Tôi thấy có cái gì như biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm những cây đàn của Thiên Chúa” (Kh 15,2). Điều nghịch lý xưa kia nay càng trở nên mạnh mẽ hơn: những con thú khổng lồ hung dữ, với sức mạnh truyền thông và kỹ năng của nó lại không thắng nổi; người chiến thắng là con chiên được hiến tế. Và thế là một lần nữa âm thanh lại vang lên cách rạch ròi, bài ca của Môsê, người tôi tớ Chúa, giờ đây đã trở thành bài ca của Con Chiên.
Bài ca phụng vụ được đặt trong khung cảnh của lịch sử vĩ đại đầy căng thẳng này. Đối với dân Israel biến cố cứu độ từng xảy ra ở vùng biển Canne vẫn còn là lý do để ca ngợi Thiên Chúa, là chủ đề cơ bản trong việc ca hát của họ trước mặt Thiên Chúa. Đối với các tín hữu, sự phục sinh của Đức Kitô, Đấng đã vượt qua “biển đỏ” của sự chết đã bước vào thế giới tăm tối và đã phá vỡ những cánh cửa ngục tù, là cuộc xuất hành thực sự, biến mình thành một sự hiện diện mới trong bí tích rửa tội: phép rửa là cuộc sống được bén rễ trong cái đồng thời của việc Chúa Kitô đi xuống âm phủ và lên trời, qua đó Người đón nhận chúng ta bước vào trong sự hiệp thông của cuộc sống mới. Ngay trong ngày tiếp theo sau niềm vui của cuộc Xuất hành, dân tộc Israel đã nhận ra rằng họ phải đối diện với sa mạc, với những nguy hiểm của nó và các mối đe dọa không hề chấm dứt trong cuộc viễn hành hướng về Đất hứa. Nhưng luôn có những hành động của Thiên Chúa cho phép họ tiếp tục hát bài ca của Môsê và cho thấy rằng Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa của quá khứ nhưng là Thiên Chúa của hiện tại và tương lai. Tất nhiên, trong mỗi bài ca mới cũng có ý thức về tính tạm thời và nhu cầu về một bài ca mới và sự dứt khoát, nhu cầu cứu độ không còn kèm theo bởi bất kỳ khoảnh khắc sợ hãi nào, mà chỉ bằng bài thánh ca ngợi khen. Những ai tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô, thực sự nhận ra được ơn cứu độ viên mãn và biết rằng, người tín hữu giờ đây tìm thấy khoảnh khắc ấy trong “giao ước mới”, giờ đây họ hát lên bài ca mới, là bài ca sau cùng và thực sự mới, vì điều hoàn khác biệt đã xảy ra với sự phục sinh của Chúa Kitô. Những gì mà chúng ta đã nói trong phần đầu về giai đoạn trung gian của thực tại Kitô giáo – không còn là cái bóng, cũng không phải thực tại đầy đủ, mà là “hình ảnh” – vẫn đang có giá trị ở đây: bài ca mới sau cùng đã được cất lên, nhưng tất cả những đau khổ của lịch sử cần được thực hiện, tất cả mọi nỗi khổ được gom góp và được dâng lên trong hy lễ ngợi khen, để chúng ta được biến đổi trong bài hát ngợi khen.
“Dẫn vào tinh thần phụng vụ”, San Paolo, Cinisello Balsamo 2001, trang 132-134.
Chuyển ngữ: G. Võ Tá Hoàng
2023
Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 107 – Ý nghĩa của lao động
Câu hỏi: Lao động có ý nghĩa gì trong công trình của Thiên Chúa không ạ?
Trả lời:
Để có thể tồn tại và sinh sống, chúng ta cần những lương thực cần thiết. Những lương thực ấy không tự nhiên xuất hiện trước mắt chúng ta nhưng là kết quả của biết bao mồ hôi nước mắt từ nỗ lực lao động của bao người. Dù là nơi đồng ruộng thôn quê hay nơi công xưởng chốn thị thành, không có bàn tay lao tác của con người, thì cũng sẽ không có những miếng cơm ngon, một ngôi nhà no ấm. Quả vậy, con người – dù có tài năng cỡ nào đi nữa – cũng không phải là các thiên thần.
Con người không phải chỉ hít thở mà sống. Con người cần có cái ăn, không những ăn no mà còn phải là ăn ngon. Mọi thứ trên trái đất này được dựng nên cho con người, nhưng không tự nhiên mà nó trở thành của ăn của uống. Con người phải vất vả làm việc, dãi nắng dầm mưa, chịu thương chịu khó. Ngoài ra, xã hội này rộng lớn, người ta lại cạnh tranh nhau. Nhiều khi, mình cũng muốn làm việc đàng hoàng để kiếm sống nhưng vẫn thấy chẳng dễ chút nào. Hiểu được ý nghĩa của lao động sẽ giúp chúng ta có được nguồn động lực để làm việc, tránh thái độ lười nhác.
Kinh Thánh dạy chúng ta điều gì liên quan đến việc lao động?
Thuật ngữ “lao động” mà chúng ta dùng ở đây không chỉ nói đến việc lao động chân tay, nhưng còn là mọi hoạt động nói chung của con người, nhằm cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho các nhu cầu của mình. Chúng ta vẫn nghe nói đến một kiểu “lao động trí óc”, nghĩa là một kiểu lao động không dùng nhiều đến chân tay, nhưng phải vận dụng rất nhiều chất xám, trí tuệ. Kiểu lao động này cũng làm cho người ta rất mệt mỏi, có khi còn hơn cả lao động chân tay. Ngoài ra, cũng cần phải lưu ý là việc lao động đúng nghĩa thì ngoài việc phục vụ cho lợi ích của con người, cũng phải góp gần xây dựng thế giới. Những kiểu lao động làm tổn hại đến nhân loại, đến môi sinh (như phá rừng bừa bãi…) thì không được xem là lao động chân chính.
Nhiều người cho rằng việc lao động của con người chính là hình phạt mà Thiên Chúa giáng xuống do sự bất tuân của họ, mà câu chuyện Adam là một minh hoạ. Chúng ta đọc thấy trong án phạt Thiên Chúa dành cho Adam là: “…Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,17-19). Thoạt nghe những lời này, chúng ta có liên tưởng đến việc lao động, và cho rằng nó có thể là hệ quả của những tội lỗi chúng ta gây ra. Tuy nhiên, nếu đọc sách Sáng Thế trước đó một chút, chúng ta thấy sứ mạng “lao động” đã được Thiên Chúa giao cho con người trước khi con người phạm tội: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15). Như thế, tự bản thân việc lao động không phải là hệ quả của tội, nhưng là một sứ mạng được Thiên Chúa uỷ thác cho con người. Tình trạng tội làm cho chúng ta thoái thác trách nhiệm này và cảm thấy lao động như một cái gì đó nặng nề, mệt mỏi. Nói cách khác, làm việc – lao động là một mệnh lệnh của Thiên Chúa và cũng là cái làm nên phẩm giá của con người. Lao động là thực thi chức năng “làm chủ” của con người trên mọi loài thụ tạo khác.
Đoạn Tin Mừng Mt 6,25-30 có thể làm cho nhiều người thắc mắc khi Chúa Giêsu dạy rằng: “… đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? … Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” Nhiều người đọc sơ qua và kết luận rằng Chúa Giêsu dạy chúng ta không cần phải lao động, cứ phó thác tất cả cho Thiên Chúa quan phòng, giống như con chim sẻ hay như hoa huệ ngoài đồng. Nhưng Chúa Giêsu không có ý cổ võ cho một đời sống lười biếng. Ý của Ngài khi nói những điều này là nhắm đến tính quan trọng và trỗi vượt của việc “tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”, như chúng ta đọc thấy ở đoạn sau (Mt 6,33).
Bằng chứng là ở Ga 6,22-29, chúng ta đọc thấy lời dạy dỗ của Đức Giêsu dành cho đám đông chỉ mong chờ phép lạ hóa bánh để được ăn uống thoả thích mà không phải làm việc: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”. Chúng ta biết là Đức Giêsu sinh trưởng trong một gia đình lao động chân tay. Truyền thống Giáo Hội lâu nay vẫn cho rằng bố nuôi của Ngài là Thánh Giuse được biết đến như một người làm mộc. Tin Mừng Marco tường thuật cho chúng ta biết người dân vùng quê của Đức Giêsu gọi Ngài là “bác thợ” (x.Mc 6,3). Trong quá trình rao giảng Tin Mừng, mặc dù Đức Giêsu không tiếp tục hành nghề này để kiếm sống, nhưng Ngài vẫn làm việc. Ngài không ngừng giảng dạy cho người ta biết về mầu nhiệm Nước Trời, Ngài làm các phép lạ, Ngài đi khắp nơi, thi ân giáng phúc. Đúng như lời Ngài nói: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
Chắc là bạn cũng không lạ lẫm gì với dụ ngôn nén bạc (x.Mt 25,14-30). Ông chủ đã giao cho các đầy tớ những nén bạc phù hợp với khả năng của họ và muốn họ phải làm lời. Có những đầy tớ đã tuân theo mệnh lệnh của chủ, cố gắng làm cho đồng bạc mình nhận được sinh thêm những đồng khác. Nhưng cũng có đầy tớ lười biếng, đã chôn vùi đồng bạc nhận được và trả lại chủ y nguyên. Ông chủ đã trách đầy tớ này và phạt anh ta. Dụ ngôn này cũng nhắc nhở chúng ta về bổn phận lao động (Xem thêm: 2 Tx 3,10-13). Chúng ta không thể chỉ trả lại cho Thiên Chúa những gì đã lãnh nhận, nhưng còn phải có cái gì đó là thành quả lao nhọc của chúng ta.
Lao động và những vấn đề của nó
Khi hoàn thành xong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trao vào tay con người tất cả những thụ tạo để con người lao tác và canh giữ chúng. Lao động dường như trở nên một vinh quang cho con người vì được cộng tác với Thiên Chúa trong việc canh tân thế giới, nhưng đồng thời cũng là một nghĩa vụ mà Đấng Sáng Tạo đã trao ban cho mình. Thế giới tự nhiên sẽ trở nên lụi tàn khi không được con người canh tác. Những thành quả của thế giới tự nhiên cũng sẽ phong phú hơn khi được con người chăm bón, bảo vệ. Có thể nói, lao động là một hình thức con người thu tích những gì Thiên Chúa ban qua tự nhiên để có thể đảm bảo cho cuộc sống của mình. Lao động làm cho phẩm giá của con người được thăng hoa hơn, làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn.
Thế nhưng, có lẽ ai trong chúng ta cũng nghiệm thấy được những khó khăn trong việc lao động. Chẳng có lao động nào lại không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ cái gì đó. Từng nhát cuốc bổ xuống trên ruộng đồng mang theo biết bao giọt mồ hôi nhễ nhãi. Cái nắng ban trưa của mùa hè như thiêu đốt người nông dân. Khi gió lên, khi mưa xuống, người nông dân lo lắng: hạt mầm có nảy sinh được không? Có sâu bệnh gì không? Nước có dâng lên làm ngập úng không? Một hạt gạo là cả một nỗi niềm lắng lo gói ghém trong đó. Nơi công ty, những áp lực của hợp đồng, của chất lượng sản phẩm cứ canh cánh không yên. Lao động làm cho chúng ta tốn sức, làm cho trí óc ta phải vận hành liên lỉ không ngơi. Phải chạy đôn chạy đáo chỗ này, lựa lời ăn nói chỗ kia. Phải vắt óc suy nghĩ ra chiến dịch này, khuyến mãi kia để có khách. Mỗi sáng thứ hai hàng tuần luôn là một khoảng thời gian uể oải, vì phải đi làm việc, phải kiếm đồng lương để cho con cái, cho gia đình, cho tương lai.
Tệ hại hơn, con người ngày nay không còn xem lao động là một hình thức cải tảo thiên nhiên nhưng đã trở thành một kiểu hủy hoại thiên nhiên cách tàn nhẫn. Chỉ vì đồng tiền, con người bất chấp những thủ đoạn, bất chấp cả những hậu họa có thể gây ra vì những hành vi sai trái của mình. Buôn ma túy, buôn người… giờ đây đã trở nên nghề thịnh hành hái ra tiền, bất chấp những nghiêm minh của luật pháp. Những cây gỗ quý, thú quý giúp cân bằng hệ sinh thái đã bị con người khai thác không thương tiếc. Việc sử dụng những hóa chất giúp trái cây được tươi, rẻ đã gây ra không ít những chứng bệnh quái ác cho con người. Những khí độc thải ra từ các ống khói nhà máy đang ngày càng chọc thủng các tầng Ozon, lớp bảo vệ sự sống của con người. Rồi cũng vì đồng tiền, con người sẵn sàng hãm hại nhau, thủ tiêu nhau không thương tiếc. Mạng sống con người, vốn là hình ảnh Thiên Chúa, đã bị chính con người xếp ngang hàng với thứ hàng hóa rẻ tiền. Đấy là hậu quả của một thứ lao động bất chính và phi nhân, đi ngược lại với lệnh truyền của Tạo Hóa.
Cũng có một kiểu thái độ đối nghịch lại với lao động là sự lười nhác, xuất phát từ thái độ tự ti cho rằng mình chẳng có gì để làm việc. Xin chia sẻ đến bạn câu chuyện mà chúng tôi góp nhặt được trên Internet:
Có một chàng thanh niên lúc nào cũng ngồi than thân trách phận không may của mình, nên không thể nào giàu có được. Ngày nọ, một ông lão đi qua thấy vẻ mặt ủ ê của anh ta bèn hỏi :
– Chàng trai kia, sao trông cậu buồn bã thế, cậu có điều gì không vui sao?
– Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.
– Cháu mà nghèo ư, cháu đang giàu có đấy chứ ?
– Chưa thấy ai nói với cháu như vậy cả, vì thực sự cháu rất nghèo.
– Này nhé: Giả như ta chặt ngón tay cái của cháu, và trả 3 lượng vàng thì cháu có chịu không?
– Không ạ.
– Giả như ta chặt một bàn tay của cháu và trả 30 lượng vàng, cháu có chịu không?
– Không bao giờ.
– Vậy nếu ta lấy đi đôi mắt của cháu và trả cháu 300 lượng vàng, thì cháu thấy thế nào?
– Cũng không được.
– Vậy nếu ta trả cháu 3000 lượng vàng để hai ông cháu chúng ta hoán đổi số phận, để cháu trở thành một lão già như ta có được không?
– Đương nhiên là không.
– Cháu muốn giàu. Vậy nếu ta trao cho cháu 30,000 lượng vàng để lấy đi mạng sống của cháu, thì cháu thấy thế nào?
– Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu đang là một người giàu có mà cháu không biết.
Chúng ta luôn được Thiên Chúa ban cho đầy đủ những khả năng để lao động. Nếu chúng ta xem lao động là một sự đày ải mệt mỏi, hệ quả của tội thì ta sẽ thấy nó rất nặng nề. Còn nếu chúng ta xem nó như một cơ hội để được cộng tác với Thiên Chúa thì nó sẽ trở thành một niềm vui lớn lao của chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta có một ý thức đúng đắn về lao động, rằng lao động là cộng tác với Chúa vào công cuộc sáng tạo của Người, rằng lao động là đặc ân mà Thiên Chúa chỉ ban riêng cho con người, và đồng thời cũng là một nhiệm vụ mà con người lãnh nhận trực tiếp từ tay Tạo Hóa.
Chúng ta cũng hãy dâng lên Chúa những mệt mỏi của chúng ta khi lao động. Xin cho chúng ta biết chạy đến với Người mỗi khi chúng ta mệt mỏi, nặng gánh vai mang, để được Người nâng đỡ ủi an như lời Người đã hứa. Từng giọt mồ hôi nước mắt vất vả mới làm nên được miếng cơm nuôi sống gia đình. Ước chi chúng trở thành của lễ dâng lên Chúa, để Chúa thánh hóa và tuôn đổ muôn ơn lành hồn xác cho chúng ta. Chúng ta cũng xin Chúa giúp chúng ta luôn tín thác vào Chúa hơn. Dù lao động để trang trải cuộc sống, nhưng bao giờ bám víu vào những của cải ấy, nhưng chỉ một lòng hướng về Chúa mà thôi, với niềm xác tín rằng Chúa sẽ lo lắng cho mình và ban cho mình hằng ngày dùng đủ.
Chúng ta cũng xin Chúa ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta không quá tham lam vào của cải vật chất mà thực hiện những hình thức lao động có hại đến thiên nhiên và con người.
Và cuối cùng, chúng ta xin Chúa tạo điều kiện cho những ai đang thất nghiệp vì lý do khách quan hay chủ quan nào đấy. Xin Chúa cũng cho họ được có cơ hội tham gia vào việc gìn giữ và cải tạo thế giới này của Chúa qua tài năng của họ, để cuộc sống của họ cũng được ấm no hơn, mọi người sống hạnh phúc hơn, trần gian được bình an hơn. Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ