2023
Thuần phong mỹ tục trong thời 4.0
Thuần phong mỹ tục trong thời 4.0
Thuần phong mỹ tục là một nét son trong văn hóa, xuyên suốt trải dài lịch sử, góp vào bản sắc dân tộc và thể hiện trong đời sống thường nhật của mọi người ở thôn làng, phố chợ, từng mái nhà. Nôm na như con cái đi thưa về trình với song thân, gặp người lớn trẻ em khoanh tay chào hỏi, phụ nữ ăn vận kín đáo, đi đứng cử chỉ nền nếp, vào mâm mời cơm theo tôn ti, ý tứ gắp thức ăn ngon cho người già… Hết thảy những nền nếp tốt đẹp đậm đà nhân văn trong đời sống, từ ngôn ngữ đến trang phục, lễ tiết gói trong “thuần phong mỹ tục” và được gìn giữ ngay tại gia đình. Thời 4.0, trước sự tác động của những trào lưu mới, liệu thuần phong mỹ tục có mất đi trong đời sống?
Dù ở bất cứ đâu và sống trong thời hiện đại, nhiều người Việt cũng vẫn nâng niu những giá trị truyền thống, vẫn dạy con cháu biết gìn giữ thuần phong mỹ tục… |
Thực tế có những người Việt, khi rời quê hương sống ở xứ người càng nâng niu trân quý duy trì thuần phong mỹ tục trong dân tộc tính để sự hội nhập xã hội mới không hòa tan các giá trị vốn có. Chị Ngọc Trân ở tiểu bang California (Hoa Kỳ) chia sẻ: “Con cái trong nhà đều được dạy kỹ nền nếp tôi từng được giáo huấn khi bé ở Việt Nam, bên cạnh tiếng Việt và chữ quốc ngữ, các cháu còn được bảo ban để giữ thuần phong mỹ tục như khoanh tay chào người lớn, lễ phép khi vào mâm cơm…”. Anh Đinh Nguyên ở Cộng hòa Séc thì cho hay, mỗi khi có dịp cộng đồng người Việt ở nơi anh sống tổ chức cho các cháu bé sinh hoạt như bên Việt Nam thì họ cho mặc trang phục dân tộc, nói tiếng Việt, và tranh thủ giáo huấn về nền nếp của người Việt.
Càng ở xa đất nước hoặc sống xa quê hương càng lâu, người Việt càng canh cánh trong lòng làm sao giữ được những thói quen tốt của gia đình xưa. Rất dễ thấy không phải Việt kiều nào cũng “mất gốc”. Một lần tại quầy sách cũ Cô Chi nơi Đường Sách TPHCM, chúng tôi gặp những người Mỹ gốc Việt, thế hệ F2, F3… nói tiếng Việt khá rành. Họ mua sách Việt đọc, trả tiền cho người bán bằng 2 tay và cầm lại quyển sách một cách trân trọng kèm lời cảm ơn. Hỏi ra thì biết, được như vậy cũng là nhờ cha mẹ, ông bà của các bạn trẻ này chú ý giúp con cháu không quên cội nguồn. Các bạn được dạy tiếng Việt, cả nói và viết. Ngoài những giờ đến trường, khi ở nhà, họ buộc phải nói tiếng Việt. Nhờ thế nên không những nói được tiếng mẹ đẻ mà khi đi học đại học ở tiểu bang khác, những người trẻ này vẫn có thể đọc được email của ông bà, cha mẹ mình gởi bằng tiếng Việt.
Ông Đinh Văn Kỳ, 67 tuổi, sống tại Colorado (Hoa Kỳ) kể, ngoài việc giáo dục con giữ gìn bản sắc Việt trong cuộc sống, từ nhỏ ông luôn dành thời gian cho con, và sau này là cháu. Chúng tỉ tê tâm sự cùng ông. Với chúng, ông là tấm gương tốt, một nơi để chia sẻ. Nhờ vậy, không khó khăn gì khi ông trò chuyện với đám trẻ bằng tiếng Việt, tạo cho các con cháu lòng tự hào tự tôn dân tộc Việt. Những người trẻ này cũng thấy sự ưu việt của cái gọi là nề nếp gia đình khi nhìn ông sống lễ phép, hòa nhã với tất cả mọi người. Kính trọng ông, con cháu kính yêu và giữ gìn những giá trị thiêng liêng của dân tộc, của gia đình như ăn mặc không theo trào lưu của nước ngoài, nói tiếng Việt cùng người Việt, kính trên nhường dưới… Tất cả từ người cha, người ông đáng kính của mình.
Nhiều gia đình sống trong nước cũng vẫn giữ những giá trị lễ nghĩa, như bà Phạm Phương Loan, 69 tuổi (quận 3, TPHCM) vẫn khuyên răn con cháu không được ăn mặc nhố nhăng. Con gái và cả con trai sau khi lập gia đình, lúc dắt các cháu về nhà bà ngoại, bà nội, vào mâm cơm đều không quên mời ông bà; gặp hàng xóm biết khoanh tay chào. Bà Loan nói: “Không cần ra nước ngoài mới giữ truyền thống, đạo đức người Việt. Ở Việt Nam, tôi cũng giáo dục con cháu theo khuôn khổ. Học hành, làm việc có thể mặc đồ ngắn, nhưng đi lễ nhà thờ nên mặc áo dài hoặc trang phục kín đáo…”
Ông Vĩnh Bình (Q.1, TPHCM) bày tỏ mối lo và cũng cho biết nếp sống ở gia đình mình: “Bây giờ làn sóng mới ảnh hưởng nhiều đến giới trẻ, có cái hay cái lạ nhưng cũng có cái đáng lo. Gia đình tôi luôn gìn giữ nếp cũ, các cơ hội “giữ” các cháu ở nhà bên mâm cơm, lễ lạt đều răn bảo con cháu về thuần phong mỹ tục của người Việt, vẻ đẹp của chiếc áo dài, áo bà ba, sự thưa hỏi lễ phép…”. Ông Bình vẫn gìn giữ một góc riêng trong gia đình làm điểm tựa cho con cháu.
Gìn giữ đạo lý, thói quen tốt trong gia đình, nề nếp lễ nghĩa trong nhà… không thể là lời nói suông, mà cần phải thực hành, phải được làm gương từ cha mẹ, ông bà… Và từ đó con cái noi theo dù những người trẻ này ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Có những bậc phụ huynh hiểu rằng khi con cái yêu kính họ, quý trọng họ, chúng sẽ yêu quý luôn đất nước, dân tộc, cả tiếng nói và yêu luôn quốc phục truyền thống Việt Nam, vì thế việc giáo dục của họ trước hết là giáo dục lòng hiếu thảo.
Thời 4.0, bên cạnh bùng nổ công nghệ, các giá trị mới xuất hiện trong hội nhập, các giá trị truyền thống bị tác động mạnh mẽ. Trên nền cái mới từ công nghệ đến trào lưu sống mới, yêu cầu bảo vệ bản sắc, gìn giữ thuần phong mỹ tục càng cần được đề cao một cách thích hợp linh hoạt: không phải khư khư cố chấp rào giữ cái cũ bài bác cái mới như tư tưởng “đả cựu nghinh tân” thuở nào, mà biết giáo huấn con trẻ thấy và yêu cái đẹp, giá trị không hề lỗi thời của thuần phong mỹ tục để đám trẻ tự hào, trân quý. Bạn Kiều Tiên, sinh viên năm ba một đại học tại TPHCM vui vẻ khoe: “Nhóm tụi con ăn vận sành điệu, hiện đại, cũng rap, hiphop… nhưng ở nhà hay đến nhà nhau chơi, gặp người lớn đều khoanh tay chào hỏi lễ phép, giữ nếp cũ khi vào mâm cơm, được khen hoài đó ạ!”.
Có những hằng giá trị không hề bị lỗi thời dù xã hội đi tới mấy chấm, trong cái mới, các giá trị ấy càng nổi bật hơn, như thuần phong mỹ tục của người Việt mình.
CÔNG NGUYÊN – HOÀNG HẠC
2023
Chủng viện không phải là “nhà máy sản xuất”
Chủng viện không phải là “nhà máy sản xuất”
Ngày 13.11.2023, Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên đã đến Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội gặp gỡ và huấn đức chủng sinh thuộc phân khoa Thần học. Những huấn từ của Đức Tổng Giuse được dựa trên bài viết của Đức Hồng y Lazzaro You Heung Sik, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ. Trong đó, trọng tâm là ba câu hỏi nền tảng: Hội Thánh nào? Kiểu linh mục nào? Và loại hình đào tạo thế nào?
Theo Đức TGM Giuse, câu hỏi thứ nhất sẽ cho thấy một diện mạo cụ thể của Giáo hội hiện nay với tất cả những thách đố, khó khăn và thử thách. Từ đó, câu hỏi thứ hai được khai mở, với một Giáo hội như vậy thì kiểu mẫu linh mục nào được chờ đợi như là mong mỏi của chính Thiên Chúa và đoàn dân thánh. Ngài nhắc nhở chủng sinh: “Công việc mục vụ của linh mục trên hết là phục vụ mà không nhằm lợi lộc thấp hèn, các ngài phải luôn nhớ đến lời mời gọi hãy rửa chân cho anh em mình”. Từ đó, ngài gợi mở: “Vậy với thực trạng của Hội Thánh như hiện nay và với kiểu linh mục mà Chúa muốn như thế, thì đâu sẽ là loại hình đào tạo phù hợp để đáp ứng những đòi hỏi ấy?”.
Theo ngài, trước hết, chủng viện phải là trường học Tin Mừng, nghĩa là tinh thần Tin Mừng phải thấm đẫm trong mọi sinh hoạt của chủng viện, kể cả là việc thể thao hay giải trí. Chủng viện không phải là “nhà máy sản xuất” nhưng là trường đào tạo của Chúa Thánh Thần với khuôn mẫu là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đến không phải để được phục vụ nhưng là phục vụ và hiến mạng sống mình (x. Mc 10, 45). Thứ đến, chủng viện phải là trường học của sự hiệp thông, để con tim học cách mở ra với Chúa và mọi người. Chủng viện cũng phải là “nhà” để mọi người có thể sống tinh thần huynh đệ thực sự chứ không phải là thái độ “phòng thủ”. Cuối cùng, chủng viện là nơi giúp cho người chủng sinh có thể lượng giá ơn gọi của mình theo tinh thần truyền giáo. Chủng sinh phải được đào tạo trở nên con người của truyền giáo, luôn sẵn sàng để được sai đi trở thành những chứng nhân cho Tin Mừng.
2023
Nhớ vị giám mục tiên khởi người Việt
Nhớ vị giám mục tiên khởi người Việt
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, tín hữu tưởng nhớ đến những người đã khuất bóng là thân bằng quyến thuộc và cả những người được lưu truyền trong sử sách, hoặc ghi đậm dấu ấn trong các cộng đoàn…
Đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (1868-1949) là một trong số những vị tiền nhân đã khuất bóng được nhiều người tưởng nhớ nhân kỷ niệm 90 năm (1933-2023) được tấn phong giám mục.
Vào thời điểm đó, một giám mục người bản địa là một cột mốc lịch sử nơi vùng miền đón nhận Tin Mừng khoảng bốn thể kỷ trước và vẫn thuộc quy chế tông tòa – trực thuộc Tòa Thánh. Khi Đức Thánh Cha Piô XI ban hành thông điệp “Sự việc Giáo hội” (Rerum Ecclesiae) cổ vũ việc trao quyền cho hàng giáo sĩ địa phương, Đức Giám mục Alexandre Marcou Thành là người đầu tiên hưởng ứng, đề cử linh mục Nguyễn Bá Tòng làm giám mục phó Hạt đại diện tông tòa Phát Diệm do ngài coi sóc.
Thêm một điểm đáng ghi nhận, ngài là linh mục thuộc địa phận Sài Gòn, vùng Nam bộ, nhưng được bổ nhiệm coi sóc một hạt tông tòa vùng Bắc bộ. Theo nhiều nguồn tư liệu, sự bổ nhiệm này không gây lấn cấn nơi các giáo sĩ người Pháp, người Việt tại đây, bởi trước đó vị giám mục tân cử đã được ngưỡng mộ với tài giảng thuyết trong kỳ tĩnh tâm cho các linh mục Hà Nội (1931) và Phát Diệm (ngày 15 – 22.12.1931).
Đức Giám mục tiên khởi người Việt đã kế vị Đức Giám mục Marcou năm 1935 và nghỉ hưu năm 1943.
Về mặt tôn giáo, trong khoảng một thập niên tại chức, ngài đã truyền chức tổng cộng 50 linh mục, thành lập hội dòng MTG Lưu Phương, dòng Kín và Trường Thử tại Trì Chính, đền Đức Mẹ Nam Dân, nhà nghỉ mát Kim Đài, hội quán Nam Thanh; đặc biệt là xúc tiến việc thành lập dòng khổ tu Châu Sơn ở Phát Diệm. Năm 1954, dòng Châu Sơn vào miền Nam, dừng chân tại Phước Lý, sau thuyên chuyển về Đơn Dương (Đà Lạt). Năm 1961 đan viện khổ tu Phước Sơn (Thủ Đức), Phước Lý và Đơn Dương được Tòa Thánh chấp nhận và nâng lên hàng đan phụ viện. Các đan viện đã liên kết thành hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam và nhập dòng Xitô thế giới.
Quan tâm đến cuộc sống, ngài đã góp một phần lương thực và vận động dân chúng đắp đê Kim Tùng ngăn nước biển dài 10 cây số bảo vệ mùa màng cho nhiều làng mạc phía trong, từ đó các họ đạo Tân Khẩn, Như Tân, Tân Mỹ, Tùng Thiện, Kim Tùng (năm 1953 đổi thành Cồn Thoi) dần dần được thành lập.
Về văn hóa, ngài để lại cho hậu thế “Tuồng thương khó”, được trước tác theo Sách gẫm sự thương khó Đức Giêsu và Tuồng thương khó đã từng được diễn xuất tại Oberammergau (Đức) và tại Nancy (Pháp). Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa văn học ghi nhận đây là một vở kịch hiện đại, trước hết bởi hình thức hoàn toàn văn xuôi và là cột mốc quan trọng trong lịch sử văn học – sân khấu thời kỳ đầu lan tỏa chữ Quốc ngữ. Được nhà in Tân Định xuất bản năm 1912 – cách nay 111 năm – vở tuồng đã được lưu diễn nhiều lần trong Nam ngoài Bắc. Hiện có một con đường mang tên Nguyễn Bá Tòng tại quận Tân Bình…
Các tín hữu còn có thể suy ngẫm về tinh thần hiệp thông của Giáo hội “duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền” trong sứ vụ của một mục tử Nam bộ nơi đất Bắc.
2023
Nhớ vị giám mục tiên khởi người Việt
Nhớ vị giám mục tiên khởi người Việt
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, tín hữu tưởng nhớ đến những người đã khuất bóng là thân bằng quyến thuộc và cả những người được lưu truyền trong sử sách, hoặc ghi đậm dấu ấn trong các cộng đoàn…
Đức cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (1868-1949) là một trong số những vị tiền nhân đã khuất bóng được nhiều người tưởng nhớ nhân kỷ niệm 90 năm (1933-2023) được tấn phong giám mục.
Vào thời điểm đó, một giám mục người bản địa là một cột mốc lịch sử nơi vùng miền đón nhận Tin Mừng khoảng bốn thể kỷ trước và vẫn thuộc quy chế tông tòa – trực thuộc Tòa Thánh. Khi Đức Thánh Cha Piô XI ban hành thông điệp “Sự việc Giáo hội” (Rerum Ecclesiae) cổ vũ việc trao quyền cho hàng giáo sĩ địa phương, Đức Giám mục Alexandre Marcou Thành là người đầu tiên hưởng ứng, đề cử linh mục Nguyễn Bá Tòng làm giám mục phó Hạt đại diện tông tòa Phát Diệm do ngài coi sóc.
Thêm một điểm đáng ghi nhận, ngài là linh mục thuộc địa phận Sài Gòn, vùng Nam bộ, nhưng được bổ nhiệm coi sóc một hạt tông tòa vùng Bắc bộ. Theo nhiều nguồn tư liệu, sự bổ nhiệm này không gây lấn cấn nơi các giáo sĩ người Pháp, người Việt tại đây, bởi trước đó vị giám mục tân cử đã được ngưỡng mộ với tài giảng thuyết trong kỳ tĩnh tâm cho các linh mục Hà Nội (1931) và Phát Diệm (ngày 15 – 22.12.1931).
Đức Giám mục tiên khởi người Việt đã kế vị Đức Giám mục Marcou năm 1935 và nghỉ hưu năm 1943.
Về mặt tôn giáo, trong khoảng một thập niên tại chức, ngài đã truyền chức tổng cộng 50 linh mục, thành lập hội dòng MTG Lưu Phương, dòng Kín và Trường Thử tại Trì Chính, đền Đức Mẹ Nam Dân, nhà nghỉ mát Kim Đài, hội quán Nam Thanh; đặc biệt là xúc tiến việc thành lập dòng khổ tu Châu Sơn ở Phát Diệm. Năm 1954, dòng Châu Sơn vào miền Nam, dừng chân tại Phước Lý, sau thuyên chuyển về Đơn Dương (Đà Lạt). Năm 1961 đan viện khổ tu Phước Sơn (Thủ Đức), Phước Lý và Đơn Dương được Tòa Thánh chấp nhận và nâng lên hàng đan phụ viện. Các đan viện đã liên kết thành hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam và nhập dòng Xitô thế giới.
Quan tâm đến cuộc sống, ngài đã góp một phần lương thực và vận động dân chúng đắp đê Kim Tùng ngăn nước biển dài 10 cây số bảo vệ mùa màng cho nhiều làng mạc phía trong, từ đó các họ đạo Tân Khẩn, Như Tân, Tân Mỹ, Tùng Thiện, Kim Tùng (năm 1953 đổi thành Cồn Thoi) dần dần được thành lập.
Về văn hóa, ngài để lại cho hậu thế “Tuồng thương khó”, được trước tác theo Sách gẫm sự thương khó Đức Giêsu và Tuồng thương khó đã từng được diễn xuất tại Oberammergau (Đức) và tại Nancy (Pháp). Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa văn học ghi nhận đây là một vở kịch hiện đại, trước hết bởi hình thức hoàn toàn văn xuôi và là cột mốc quan trọng trong lịch sử văn học – sân khấu thời kỳ đầu lan tỏa chữ Quốc ngữ. Được nhà in Tân Định xuất bản năm 1912 – cách nay 111 năm – vở tuồng đã được lưu diễn nhiều lần trong Nam ngoài Bắc. Hiện có một con đường mang tên Nguyễn Bá Tòng tại quận Tân Bình…
Các tín hữu còn có thể suy ngẫm về tinh thần hiệp thông của Giáo hội “duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền” trong sứ vụ của một mục tử Nam bộ nơi đất Bắc.