2024
Thứ Năm Tuần II – Mùa Thường Niên
Thứ Năm Tuần II – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 65,4
Lạy Chúa, toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ,
và đàn ca mừng Chúa,
đàn ca mừng Thánh Danh,
lạy Chúa Trời cao cả.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất; xin dủ thương chấp nhận lời dân Chúa khẩn cầu và ban cho thời đại chúng con được bình an. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Vua Sa-un, cha tôi, đang tìm cách giết anh.
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ nhất.
18 6 Ngày ấy, khi ông Đa-vít hạ được tên Phi-li-tinh trở về, thì phụ nữ từ hết mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. 7 Phụ nữ vui đùa ca hát rằng :
“Vua Sa-un hạ được hàng ngàn,
ông Đa-vít hàng vạn.”
8 Vua Sa-un giận lắm, và bực mình vì lời ấy. Vua nói : “Người ta cho Đa-vít hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi !” 9 Từ ngày đó về sau, vua Sa-un nhìn Đa-vít với con mắt ghen tị.
19 1 Vua Sa-un nói với ông Giô-na-than, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định giết ông Đa-vít. Nhưng ông Giô-na-than, con vua Sa-un, lại rất có cảm tình với ông Đa-vít. 2 Ông Giô-na-than báo cho ông Đa-vít rằng : “Vua Sa-un, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy coi chừng, hãy ở nơi kín đáo và ẩn mình đi. 3 Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh.”
4 Ông Giô-na-than gặp vua Sa-un, cha mình, và nói tốt cho ông Đa-vít. Ông nói với vua : “Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ ngài là Đa-vít, vì anh ấy đã không phạm tội hại ngài, và các hành động của anh là điều rất lợi cho ngài. 5 Anh đã liều mạng hạ tên Phi-li-tinh, và Đức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ toàn thể Ít-ra-en. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ máu vô tội, mà vô cớ giết Đa-vít ?” 6 Vua Sa-un nghe theo lời ông Giô-na-than, vua thề rằng : “Có Đức Chúa hằng sống, ta thề : nó sẽ không bị giết.” 7 Ông Giô-na-than gọi ông Đa-vít đến và thuật lại tất cả những điều ấy ; rồi dẫn ông Đa-vít đến với vua Sa-un, và ông Đa-vít lại phục vụ vua như trước.
Đáp ca
Tv 55,2-3a.9-10ab.10c-11.12-13 (Đ. c.5bc)
Đ.Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi.
2Xin thương xót con cùng, lạy Thiên Chúa,
vì người ta giày xéo thân con, và suốt ngày tấn công chèn ép.3aĐịch thù con giày xéo suốt ngày,
bè lũ tấn công nhiều vô kể.
Đ.Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi.
9Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi.
Xin lấy vò mà đựng nước mắt con.
Nào Ngài đã chẳng ghi tất cả vào sổ sách ?10abĐịch thù phải tháo lui vào ngày tôi cầu cứu.
Đ.Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi.
10cTôi biết rằng : Thiên Chúa ở bên tôi.11Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và ca tụng lời Người ;
tôi ca tụng lời Chúa.
Đ.Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi.
12Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi ;
phàm nhân làm gì nổi được tôi ?13Lạy Thiên Chúa, lời khấn hứa cùng Ngài, con xin giữ,
lễ tạ ơn, nguyện sẽ dâng Ngài.
Đ.Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi.
Tung hô Tin Mừng
- 2 Tm 1,10
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mc 3,7-12
Các thần ô uế kêu lên : Ông là Con Thiên Chúa. Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
7 Khi ấy, Đức Giê-su cùng với các môn đệ lui về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giu-đê, 8 từ Giê-ru-sa-lem, từ xứ I-đu-mê, từ vùng bên kia sông Gio-đan và vùng phụ cận hai thành Tia và Xi-đôn, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm. 9 Người đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để khỏi bị đám đông chen lấn. 10 Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, khiến tất cả những ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. 11 Còn các thần ô uế, hễ thấy Đức Giê-su, thì phủ phục trước mặt Người và kêu lên : “Ông là Con Thiên Chúa !” 12 Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin thương giúp cộng đoàn tín hữu chúng con cử hành thánh lễ này cho xứng đáng. Vì mỗi khi chúng con dâng lễ tưởng niệm cuộc khổ hình của Ðức Kitô là chúng con được hưởng ơn cứu chuộc của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Người đã thực hiện một công trình kỳ diệu này/ là kêu gọi chúng con bỏ đàng tội lỗi, thoát ách sự chết, tới ánh vinh quang. Nhờ đó, giờ đây chúng con được gọi là giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để chúng con loan truyền khắp nơi quyền năng Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con từ chốn tối tăm tới nơi sáng láng diệu kỳ của Chúa.
Vì thế, cùng với Thiên thần và tổng lãnh Thiên Thần, các Bệ Thần và Quản Thần, cùng toàn thể đạo Binh Thiên Quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng.
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 22,5
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc
chén của con chan chứa rượu nồng.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh bởi trời; xin ban Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu giúp chúng con cũng biết tâm đầu ý hợp và chân thành yêu thương nhau. Chúng con cầu xin…
2024
ĐỪNG ÁC TÂM
17.1 Thánh Antôn, Ab
1 Sm 17:32-33,37,40-51; Tv 144:1,2,9-10; Mc 3:1-6
ĐỪNG ÁC TÂM
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Antôn. Thánh Antôn hôm nay Giáo Hội mừng kính không phải là thánh Antôn Padua quen thuộc mà mọi người chúng ta kính mến. Antôn thành Padua hoặc Antôn thành Lisboa, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1195 và qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231, là một linh mục Công giáo người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Còn thánh Antôn chúng ta mừng kính hôm nay được gọi là thánh Antôn viện phụ sinh tại Cosma bên Ai Cập vào khoảng năm 250 và qua đời vào ngày 17/1/356.
Nhìn lại cuộc đời của Ngài, chúng ta phải nhận là Ngài có nhiều may mắn. Cha mẹ Ngài là người giầu có, quí phái. Ngài và cô em gái luôn được sống trong sự bao bọc ấm cúng của gia đình.
Lúc ngài được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài lần lượt ra đi để lại cho hai anh em một gia tài kếch xù. Hai anh em tiếp tục sống đùm bọc yêu thương nhau. Với số của cải cha mẹ để lại, hai anh em có thể sống một cuộc sống dư dật và thật thoải mái. Thế nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Người đã kêu gọi Antôn dâng hiến cuộc đời cho Người.
Hôm đó trong ngôi nhà nguyện nhỏ dâng cúng thánh Augustinô, Lời Chúa vang lên: “Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán hết gia tài, phân phát cho kẻ nghèo khó” (Mt 19,21). Lời Tin Mừng đó đã làm cho Antôn suy nghĩ vì hai anh em đang có thật nhiều tiền của. Nghe những Lời đó Antôn tưởng như Chúa đang nói với chính mình nhưng chưa biết phải làm gì. Và Chúa Nhật sau đó, Lời Chúa lại vang lên như một chỉ dẫn: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”(Mt 6,34). Thế là con đường đã quá rõ. Antôn nhất định áp dụng đến cùng Lời Chúa dạy, và nhất quyết theo Chúa đến cùng. Ngài về nhà, chia vườn đất cho người nghèo trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người nghèo khó. Ban đầu ngài còn để lại chút ít để nuôi mình và cô em gái, nhưng khi suy nghĩ đến Lời Chúa: “Con đừng bận tâm đến ngày mai”, Ngài lại đem bán tất cả những cái còn lại lấy tiền cho người nghèo. Xong việc, ngài gởi cô em vào một cộng đoàn Trinh nữ, rồi quyết tâm bỏ thế gian.
Năm 35 tuổi, Antôn quyết tâm đi vào sa mạc để sống đời khổ tu và kết hợp hoàn toàn mật thiết với Thiên Chúa. Tiếng tăm nhân đức và sự khôn ngoan của Ngài lan tỏa rất xa. Nhiều khách thập phương đã kéo đến xin Ngài chỉ giáo.
Năm 327, khi được tin hoàng đế Maximinô Đaia ra chỉ bách hại công giáo, và tại Alexandria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu trung kiên, thánh nhân liền nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô. Vì thế, Ngài cùng với một anh em khác xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận thành phố, rồi Ngài ngang nhiên tiến thẳng vào tòa án, khuyến khích tín hữu giữ vững đức tin; không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các vị tử đạo cho đến giây phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo. Chúa muốn Ngài thành một tấm gương can đảm chiến đấu và cầu nguyện, ăn chay cho đại gia đình trụ trì, tuy nhiên thánh nhân vẫn lưu lại đô thị Alexandria cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới quay gót về cộng đồng của mình.
Và từ đây cho đến cuối đời, Ngài dựng lều trên sườn núi Gokzin, suốt ngày đón tiếp mọi người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân.
Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp tới, Ngài liền hội các tu sinh lại quanh giường khuyên bảo họ lần sau cùng. Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập. Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các thày và phó linh hồn trong tình yêu vô biên của Chúa. Hôm ấy là ngày 17.1.365.
Năm 561, xác thánh nhân được cải táng trong nhà thờ kính thánh Gioan Tiền Hô tại Alexandria. Các Giáo Hội Trung Ðông đã sùng kính thánh Antôn đầu tiên, sau đó tràn qua Âu Châu và Giáo Hội đã chính thức tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
Ngày hưu lễ, Chúa Giêsu vào hội đường. Ở đó có người bị bại một cánh tay. Nhóm biệt phái theo rình mò xem Chúa có chữa cho người bệnh này không. Biết thế, Chúa gọi người bệnh ra đứng giữa họ và hỏi: Ngày hưu lễ nên làm lành hay làm ác, cứu sống hay giết chết ? Họ không trả lời, vì họ ngoan cố không muốn biết sự thật mà chỉ tìm cách tố cáo thôi. Chúa nhìn họ vừa buồn vừa giận vì thái độ ngoan cố của họ. Rồi Chúa bảo người bệnh: Hãy đưa tay ra. Tức thì người ấy khỏi bệnh. Thấy vậy, nhóm biệt phái và liên kết với nhóm của Hêrôđê tìm cách giết Chúa.
Theo truyền thống, người bại tay này làm nghề thợ xây đá. Nghĩa là anh cần có một bàn tay khỏe mạnh sớm hết sức, để có thể nuôi sống bản thân và gia đình. Không lạ gì trước những người Do thái “chẻ sợi tóc làm tư” dò xét, bắt bẻ để lên án. Theo luật Do thái, chỉ được chữa bệnh vào ngày sabát trong trường hợp nguy tử. Trường hợp của anh không phải là nguy tử, nhưng Ngài không thể nào để đến ngày mai. Ngài đã can đảm dám chữa lành anh ngay hôm nay. Ngày sabat là ngày dành cho Chúa, ngày làm điều lành, ngày cứu người. Nhờ đó, bàn tay anh có thể duỗi thẳng, anh có thể cầm lấy bàn tay người khác, cũng như có thể mưu sinh bằng chính bàn tay của mình.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: “Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ”. Chúa Giêsu vốn là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, những người tội lỗi, các bệnh nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Những người biệt phái đang dùng luật để ngăn cản Chúa Giêsu chữa một người bệnh và để hại Chúa Giêsu. Thái độ đó đụng chạm đến lòng của Ngài rất mạnh, đến nỗi Ngài phải “giận dữ rảo mắt nhìn họ và buồn khổ”.
“Ngày Sabbat được phép làm điều lành hay điều dữ”. Câu hỏi này Chúa đặt ra cho những người biệt phái. Họ làm thinh không trả lời cho nên chính Chúa Giêsu tự trả lời bằng hành động chữa người bại tay. Câu trả lời của Ngài là: Cứu giúp người đau khổ là điều lành, từ chối giúp đỡ là điều dữ.
Hai cái nhìn:
Điều Chúa Giêsu thấy rõ hơn hết trong hội đường ngày hôm ấy là có một người bị khô bại một tay. Ngài thấy và rất thương anh nên muốn cứu anh.
Còn những người biệt phái thì chỉ thấy những khoản luật về ngày Sabbat. Những khoản luật ấy che khuất tầm mắt của họ nên họ chẳng thấy nỗi khổ của bệnh nhân mà chỉ coi đây là cơ hội để họ bắt bẻ Chúa. Khi Chúa Giêsu chữa cho anh này thì họ không vui mừng mà còn tức giận và “tìm cách hại Ngài”. Cái nhìn của Chúa Giêsu xuất phát từ một tấm lòng nhân hậu, còn cái nhìn của Biệt phái phát xuất từ “cõi lòng chai đá”. Xin ban cho con một quả tim bằng thịt thay vì quả tim bằn đá.
“Những người Biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Ngài và tìm cách hại Ngài” Trước đây Biệt phái không thích những người phái Hêrôdê vì biết những người ấy xấu. Nhưng hôm nay sự thù ghét Chúa Giêsu đã đưa họ đền hợp tác với những kẻ xấu ấy để cùng nhau làm thêm một việc xấu to lớn hơn nữa là hại Chúa Giêsu.
Chúa biết rõ mọi sự. Và những gì xuất phát từ Chúa đều là tốt lành. Chúa Giêsu gắn bó với Hội đường và coi đó như là nơi Người thi hành sứ vụ cứu thế của Người. Vậy chúng ta hãy tôn trọng và quý mến nhà thờ là nơi gặp gỡ mọi người, cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa. Chúa đã cứu chữa con người khi đến Hội đường trong ngày Sabát, qua đó Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta hãy trân trọng ngày Chúa Nhật là Ngày Của Chúa, ngày đem lại niềm vui và sự sống, ngày biểu lộ cho tinh thần hiệp thông. Vì thế ngày Chúa Nhật cũng là ngày làm việc từ thiện bác ái, ngày cứu giúp và làm sự lành cho tha nhân.
Chúa Giêsu thấu rõ ác tâm của nhóm biệt phái, nhưng Ngài không chống đối bằng lời nói mà lấy việc làm, lấy việc cứu giúp người bệnh để sửa dạy họ. Ngài nêu gương cho chúng ta, thay vì ra mặt công khai chống đối kẻ làm hại mình hay người tội lỗi, chúng ta lấy việc lành, lời cầu nguyện, sự hy sinh của chúng ta để dẫn đưa họ về nẻo chính đường ngay.
2024
Thứ Tư Tuần II – Mùa Thường Niên
Thứ Tư Tuần II – Mùa Thường Niên
Ca nhập lễ
Tv 65,4
Lạy Chúa, toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ,
và đàn ca mừng Chúa,
đàn ca mừng Thánh Danh,
lạy Chúa Trời cao cả.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất; xin dủ thương chấp nhận lời dân Chúa khẩn cầu và ban cho thời đại chúng con được bình an. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Đa-vít thắng tên Phi-li-tinh nhờ dây phóng và hòn đá.
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ nhất.
32 Ngày ấy, Đa-vít được dẫn đến gặp vua Sa-un và nói với vua Sa-un rằng : “Đừng ai ngã lòng vì tên Phi-li-tinh Go-li-át. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với nó.” 33 Vua Sa-un nói với Đa-vít : “Con không thể đến với tên Phi-li-tinh ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó, từ khi còn trẻ, đã là một chiến binh.”
37 Đa-vít nói : “Đức Chúa là Đấng đã cứu con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ cứu con khỏi tay tên Phi-li-tinh này.” Vua Sa-un nói với Đa-vít : “Thế thì con hãy đi, xin Đức Chúa ở với con !”
40 Cậu cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Phi-li-tinh. 41 Tên Phi-li-tinh từ từ tiến lại gần Đa-vít, đi trước mặt nó là người mang thuẫn. 42 Tên Phi-li-tinh nhìn, và khi thấy Đa-vít, nó khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ, có mái tóc hung và đẹp trai. 43 Tên Phi-li-tinh nói với Đa-vít : “Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao ?” Và tên Phi-li-tinh lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa Đa-vít. 44 Tên Phi-li-tinh nói với Đa-vít : “Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú.” 45 Đa-vít bảo tên Phi-li-tinh : “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mày thách thức. 46 Ngay hôm nay Đức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội Phi-li-tinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ít-ra-en, 47 và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Đức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Đức Chúa, và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao !”
48 Khi tên Phi-li-tinh bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với Đa-vít, thì từ trận tuyến Đa-vít vội vàng chạy ra đương đầu với tên Phi-li-tinh. 49 Đa-vít thọc tay vào bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Phi-li-tinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. 50 Thế là Đa-vít thắng tên Phi-li-tinh nhờ dây phóng và hòn đá. Cậu hạ tên Phi-li-tinh và giết nó. Nhưng trong tay Đa-vít không có gươm. 51 Đa-vít chạy lại, đứng trên xác tên Phi-li-tinh, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết liễu đời nó và dùng gươm chặt đầu nó.
Người Phi-li-tinh thấy người hùng của mình đã chết thì chạy trốn.
Đáp ca
Tv 143,1.2.9-10 (Đ. c.1a)
Đ.Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn.
1Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn,
là Đấng dạy tôi nên người thiện chiến,
luyện thành tay võ nghệ cao cường.
Đ.Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn.
2Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở,
là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi.
Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp,
Người bắt chư dân quy phục quyền tôi.
Đ.Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn.
9Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa một bài ca mới,
thập huyền cầm, con gảy đôi cung.10Chính Ngài cho các vua thắng trận,
cứu mạng Đa-vít, kẻ trung thần,
khỏi lưỡi gươm ác nghiệt.
Đ.Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn.
Tung hô Tin Mừng
- Mt 4,23
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Đức Giê-su rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Mc 3,1-6
Ngày sa-bát, được cứu mạng người hay giết đi ?
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
1 Khi ấy, Đức Giê-su lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. 2 Họ rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy trong ngày sa-bát không, để tố cáo Người. 3 Đức Giê-su bảo người bại tay : “Anh đứng dậy, ra giữa đây !” 4 Rồi Người nói với họ : “Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết người ?” Nhưng họ làm thinh. 5 Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn bực vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay : “Anh giơ tay ra !” Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. 6 Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin thương giúp cộng đoàn tín hữu chúng con cử hành thánh lễ này cho xứng đáng. Vì mỗi khi chúng con dâng lễ tưởng niệm cuộc khổ hình của Ðức Kitô là chúng con được hưởng ơn cứu chuộc của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Người đã thực hiện một công trình kỳ diệu này/ là kêu gọi chúng con bỏ đàng tội lỗi, thoát ách sự chết, tới ánh vinh quang. Nhờ đó, giờ đây chúng con được gọi là giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để chúng con loan truyền khắp nơi quyền năng Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con từ chốn tối tăm tới nơi sáng láng diệu kỳ của Chúa.
Vì thế, cùng với Thiên thần và tổng lãnh Thiên Thần, các Bệ Thần và Quản Thần, cùng toàn thể đạo Binh Thiên Quốc, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng.
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Tv 22,5
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc
chén của con chan chứa rượu nồng.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh bởi trời; xin ban Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu giúp chúng con cũng biết tâm đầu ý hợp và chân thành yêu thương nhau. Chúng con cầu xin…
2024
NGÀY SA BÁT LẬP RA VÌ CON NGƯỜI
16.1 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
1 Sm 16:1-13; Tv 89:20,21-22,27-28; Mc 2:23-28
NGÀY SA BÁT LẬP RA VÌ CON NGƯỜI
Nhiều người giáo dân hiểu lầm rằng đức tin là những sinh hoạt bên ngoài như thổi tham gia hội kèn, hội trống, những buổi ca nhạc, dâng hoa, và hội hè… Họ tin rằng bao lâu còn tham gia tích cực những hoạt động này, bấy lâu đức tin của họ còn vững mạnh.
Họ thực sự an tâm với đời sống đức tin của mình, dựa trên những sinh hoạt bề ngoài ấy, mà không quan tâm đến việc đào sâu mối tương quan cá vị của họ với Thiên Chúa. Cám dỗ giới hạn đời sống đức tin vào những thực hành bên ngoài cũng được tìm thấy nơi những người Biệt Phái mà chúng ta vừa nghe ở trong Tin mừng hôm nay.
Nhóm Biệt Phái bao gồm những người giữ luật cách nghiêm ngặt. Họ thậm chí còn chia nhỏ luật thành những điều khoản nhỏ hơn để đảm bảo không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào của lề luật. Chính vì thế, khi thấy các môn đệ của đức Giêsu vì đói mà bứt lúa ăn trong ngày Sabat, những người Biệt Phái đã lập tức kết án các ông đã vi phạm luật ngày Sabat.
Chúa Giêsu đi ngang đồng lúa với các môn đệ. Các ông đói nên bứt lúa ăn. Nhóm biệt phái thấy vậy thì trách các ông làm việc cấm trong ngày hưu lễ. Chúa hỏi họ : Các ông có biết vua Đavít và bạn hữu vua làm gì khi đói không ? Vua đã vào đền thờ lấy bánh ăn, thứ bánh mà không ai được ăn chỉ trừ các tư tế. Ngày hưu lễ được lập ra vì loài người, chớ không phải loài người được dựng nên vì ngày hưu lễ. Và chính tôi là chủ của ngày hưu lễ. Tôi có quyền trên ngày hưu lễ.
Để hiểu luật nghỉ làm việc trong ngày hưu lễ (Sabat) được ghi trong Xh 20,8-11), Linh mục Carolô đã giải thích như sau : Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabat, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài.
Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân Do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Maisen đã ra luật nghỉ ngày Sabat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người Do thái : họ phải được một ngày nghỉ ngơi; kế đến là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ : trong ngày đó những người chủ Do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người Ai cập trước kia đã phạm đối với họ.
Khi muốn hình thành dân Israel, Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn, nhưng rồi với thời gian, cùng với sự tiếp xúc với các nên văn hóa chung quanh, người Do thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết. Bộ sách Luật ấy người Do thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật, chia ra 365 khoản cấm và 248 khoản buộc.
Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại : một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển
Theo tinh thần, Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu “nảy lửa”: Ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên vì ngày sabbat; Con người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.
Đối với nhóm Biệt Phái, không có một lý do nào, dù khẩn cấp hay không khẩn cấp, có thể biện minh cho việc phạm luật ngày Sabat. Luật là luật. Không có ngoại trừ. Nhìn vào thực tế xung quanh, lối sống đạo khô cứng này cũng đang phổ biến nơi nhiều người giáo dân. Như đã đề cập ở trên, mối nguy của những người an tâm với việc giữ luật hay lễ nghi bên ngoài là một lúc nào đó họ đánh mất phương hướng trong đời sống đức tin.
Họ chỉ còn chạy theo và tôn thờ chính mình qua việc tuân giữ lề luật tỉ mỉ, hơn là đi tìm Thiên Chúa. Càng tuân giữ luật lệ cách tỉ mỉ, người ta càng nghĩ mình thánh thiện và dần dần họ chở nên chúa của chính họ.
Lối sống này lâu dần cũng khiến người ta trở nên vô cảm và bất nhân với người khác. Không cần quan tâm đến lý do, họ chỉ tập trung vào việc giữ luật cách máy móc mà thôi.Chúa Giê-su đã nhiều lần lên án lối sống này. Đối với ngài, tình yêu và lòng thành tín chúng ta dành cho Thiên Chúa mới là đích điểm. Chính bản thân ngài đã tập trung vào mối tương quan cá vị của ngài với Chúa Cha hơn là chú tâm cách thái quá vào việc tuân giữ luật lệ.
Những luật lệ hay sinh hoạt bên ngoài chỉ là phương tiện giúp chúng ta đào sâu hay diễn tả mối tương quan cá vị mà chúng ta dành cho Thiên Chúa. Một khi chúng ta quên đi đích điểm này để tập trung vào những hoạt động hay luật lệ bên ngoài, chúng ta đang đi sai đường và cần phải trở lại. Nên nhớ rằng Thiên Chúa làm chủ ngày Sabat và tình con thảo của chúng ta dành cho ngài mới là điều quan trọng nhất.