Aleksandar Ninkovic, quân nhân Xéc-bi trở thành linh mục công giáo
Linh mục Aleksandar Ninkovic ở nhà nguyện của Tòa Tổng Giám mục công giáo ở Belgrade. Tijanda Dindi
Cựu sĩ quan quân đội Nam Tư, người cộng sản trở lại này là một trong các linh mục công giáo người Xéc-bi duy nhất ở Belgrade, trong một nước tuyệt đại đa số theo chính thống giáo. Chân dung của một người ngoại hạng.
Vào thời Nam Tư cộng sản, Quân đội Nhân dân là trụ cột của đất nước và chúng tôi là con dân của họ. Cha tôi là kỹ sư hàng không với cấp bậc đại tá, mẹ tôi là y tá trong quân đội. Chúng tôi ở trong các căn hộ của quân đội ở Tân-Belgrade, một khu dân cư rộng lớn xây trên bờ sông Danube. Tất cả trẻ con thế hệ chúng tôi có thẻ đảng và ở trong phong trào Thanh niên Nam Tư. Với “lữ đoàn chúng tôi”, mùa hè chúng tôi làm việc ở nhiều công trường khác nhau, chẳng hạn như xây đường xá. Chúng tôi đi khắp nước, đó là tự do!
Tôi hết mình bảo vệ lãnh thổ, tôi ở trong các nhóm dân quân địa phương sẵn sàng đẩy lui kẻ xâm lược, đi theo học thuyết quân sự của Nam Tư dựa trên chiến tranh du kích nhân dân. Tôi nóng lòng được mặc đồng phục! Sau khi được nhận vào Học viện Quân sự ở Sarajevo, Bosnia-Herzegovina năm 1983, tôi được bổ nhiệm vào một căn cứ quân sự gần Mostar, với chức vụ trung úy, tôi là kỹ sư hàng không. Tôi phụ trách các chiếc trực thăng Gazelle do Pháp sản xuất. Nhưng, một cách không thể giải thích được, tôi nhận ra tôi không thích việc này. Tôi cảm thấy thiếu một cái gì. Sau vài năm, tôi ra khỏi quân đội và làm kỹ sư hàng không trong một công ty hàng không. Một thời gian ngắn sau, toàn bộ hệ thống sụp đổ. Mắt tôi mở ra với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Tôi nhận ra chúng tôi tất cả là nạn nhân của một vụ uy hiếp thiêng liêng hàng loạt. Lạm dụng thể xác đã là một bạo lực thuần túy đối với linh hồn. Nhưng việc lạm dụng thiêng liêng có thể xấu hơn, vì chúng ta tự mình tham gia vào đó. Chúng tôi thích chủ nghĩa cộng sản! Khi tôi được hiểu được điều này, đó là cả một giải phóng. Ngược lại, một số bạn của tôi tiếp tục đi theo lý tưởng cộng sản, dù sau khi chế độ đã sụp đổ. Tôi trả thẻ đảng trước khi đất nước rơi vào nội chiến. Tôi không ngạc nhiên khi Nam Tư nổ bùng vì cộng sản giấu giếm tất cả các bất bình của quốc gia. Chẳng hạn cấm nói đến vấn đề người Xéc-bi bị người phát-xít Crô-a-xi diệt chủng trong thời Thế chiến Thứ hai. Tuy nhiên, tôi đã không nghĩ nó sẽ đẫm máu. Tôi cám ơn Chúa vì đã khiến tôi rời khỏi quân đội trước đây!
Trong quân đội, tôi là người cộng sản, tôi là người bài tôn giáo. Tôi còn nhớ tôi đã chế giễu một người lính Bô-xni hồi giáo: “Làm thế nào mà bạn có thể xuẩn ngốc tin vào Chúa?” Sau này tôi biết ai là người xuẩn ngốc… Không có người vô thần tuyệt đối. Khi còn nhỏ, tôi tìm được một lá có bốn lá của cây cỏ ba lá, tôi quý báu cất kỹ. Khi gặp khó khăn, tôi đem nó ra và cầu nguyện mà không biết mình cầu nguyện! Cũng vậy, tôi đã nghĩ mình tiếp tục sống một cách nào đó sau cái chết. Một đêm nọ, khi tôi đang còn ở Học viện Quân sự, tôi thức dậy trong nỗi kinh hoàng: tôi mơ tôi chết và tôi đi lang thang một mình trong bớng tối, ngàn đời. Tôi không giải thích được sự hoảng loạn này. Bây giờ tôi biết, đó là kinh nghiệm của hỏa ngục. Hỏa ngục không phải là dầu sôi lửa cháy nhưng là cô đơn.
Tôi bắt đầu đi tìm Chúa. Một người bạn đưa tôi đến nhóm Hare Krishna, họ đã định cư ở Belgrade: họ bắt chước các tín hữu kitô họp nhau ngày chúa nhật và họ có ban nhạc rất hay! Tôi đã thử các câu thần chú… Nhưng khi nào cũng có một cái gì đó thiếu. Về phần gia đình tôi, anh tôi đã rửa tội, anh vào Giáo hội chính thống giáo Xéc-bi. Dưới ảnh hưởng của anh, tôi muốn tìm hiểu kitô giáo. Trở thành nhà khoa học máy tính, tôi đã cài đặt một trong các Hệ thống Bảng (Bulletin board system, BBS) trong vùng vịnh Balkan, một máy chủ trao đổi tin nhắn và các tập tin – đó là tiền thân của Internet. Tôi đã đọc ở đó Ẩn ngữ thiêng liêng (Énigme sacrée), một ngọn lửa chống kitô giáo xuất bản năm 1982 mà Da Vinci code chỉ là một bản sao mờ nhạt. Xa lạ với tôi, nhưng nó lại khơi lên tính hiếu kỳ của tôi. Tôi muốn đưa lên Hệ thống Bảng BBS các thông tin chính xác về kitô giáo để người dùng có thể có một quan điểm. Than ôi, không thể tìm ai trong Giáo hội chính thống giáo để viết cho tôi phần giáo lý. Ngược lại, người công giáo thì lại rất tích cực.
Vậy là cựu đảng viên cộng sản đến với đức tin qua Sách Thánh, linh mục Ninkovic nói đã “mê hoặc” ngài. Ngài trở thành thần học gia và điều hành một trường Kinh Thánh nhỏ ở Belgrade (Serbia). © Tijanda Dindi
Linh mục Marko là đan sĩ Dòng Phanxicô ở đan viện Zemun, vùng ngoại ô Belgrade. Cha giải thích cho tôi đức tin kitô giáo và tôi đăng các thông tin của cha trên máy tính. Cha không tìm cách thuyết phục tôi nhưng cho tôi xem thư viện của cha và nói: “Anh có thể lấy tất cả sách nào anh muốn!” Tôi rất thích tinh thần tự do trí tuệ này. Tôi vốn lười biếng, tôi đi lễ mỗi sáng chúa nhật, ngồi hàng giờ trên phương tiện giao thông, trời mưa cũng như trời tuyết. Cuối cùng tôi có một phòng ở đan viện. Khi tôi xin rửa tội, cha Marko ngạc nhiên: “Anh là người Xéc-bi, anh về với chính thống giáo!” Nhưng chính Giáo hội công giáo là nơi tôi muốn ở lại. Tôi nhanh chóng hợp tác và tham gia vào tạp chí giáo xứ. Ngày chúa nhật cha Marko cho tôi vào thư viện đọc để tôi viết các bài bình luận. Một ngày nọ, cha gởi các bài của tôi cho một giáo sư thần học người Crô-a-xi, trích dẫn chúng làm ví dụ. Tôi rất tự hào! Cùng lúc đó, mật vụ Xéc-bi triệu tôi đến và yêu cầu tôi cung cấp tin cho họ. Tôi trả lời: “Không thể được, tôi sắp làm linh mục!”
Khi tôi xin rửa tội, cha Marko ngạc nhiên: “Anh là người Xéc-bi, anh về với chính thống giáo!” Nhưng chính Giáo hội công giáo là nơi tôi muốn ở lại”
Sau khi rửa tội, tôi chỉ muốn là ẩn sĩ trong sa mạc. Dần dần cha Marko khuyên tôi nên làm linh mục. Nhưng không có chủng viện công giáo ở Xéc-bi, và tôi không thể đến Crô-a-xi vì chiến tranh giữa người Xéc-bi và người Crô-a-xi vừa mới chấm dứt. Tôi được gởi đến Szeged ở Hungaria. Ngôn ngữ rất khó để đồng hóa, tôi học tiếng Hy Lạp và Do Thái bằng tiếng Hungaria… Tôi bám vào. Sách Thánh làm tôi mê hoặc. Để chuyên môn hóa, tôi đến Học viện Kinh Thánh Giáo hoàng ở Rôma. Đây là một thử thách. Có quá nhiều linh mục ở Rôma… Tôi nhớ lần đầu tiên khi tôi gặp Viện trưởng, ông khẳng định: “Cha là người ưu tú!” Tôi như bị xúc phạm khi nghe câu này vì giáo dục cộng sản của tôi nói rằng tất cả đều bình đẳng. Đối với tôi, Giáo hội phải là người phục vụ, chứ không phải là người được phục vụ. Nhưng khi Chúa gọi bạn, Ngài ban cho bạn sức mạnh. Tất cả đã thay đổi khi tôi theo chương trình tiến sĩ ở Giáo hoàng Học viện Thánh Tôma Aquinô. Tôi ngạc nhiên vì sự đơn giản và tinh thần cởi mở ở đó. Viện Angelicum (Thiên thần) xứng đáng với tên gọi của mình: tôi ở trong số các thiên thần.
Từ năm 2005, tôi điều hành một trường Kinh Thánh nhỏ ở Belgrade. Tôi bắt đầu với một người, bây giờ tôi có từ 25 đến 40 sinh viên đủ mọi nơi đến. Tôi viết nhiều sách về Kinh Thánh, phân khoa thần học chính thống giáo đã dùng một sách của tôi cho các lớp học của họ. Tôi là linh mục ở nhà thờ Chúa Kitô Vua, một trong các giáo xứ công giáo xưa nhất ở Belgrade. Giờ rảnh tôi chơi pop-rock với cây đàn guitar điện và tôi vẽ trên gỗ các hình tượng!
Thật khó là người Xéc-bi và công giáo. Trong vùng vịnh Balkan, đức tin hòa với quốc gia. Người Crô-a-xi phải là người công giáo, người Xéc-bi phải là người chính thống giáo. Khi tôi ở Szeged, các linh mục Crô-a-xi cố đuổi tôi ra khỏi chủng viện, cho tôi là gián điệp. Ở Belgrade, tôi bị hăm dọa, họ tố cáo tôi phản bội quốc gia Xéc-bi. Thực tế ở Xéc-bi, nhiều linh mục công giáo giảng bằng tiếng Crô-a-xi hoặc tiếng Slovenia. Kết quả là chúng tôi luôn bị coi là người xa lạ. Để thay đổi hình ảnh công giáo, bạn phải suy nghĩ và nói tiếng Xéc-bi. Dù gì chăng nữa, thì không có người Xéc-bi “tinh tuyền!” Mẹ tôi gốc Tiệp; người Sla-vơ tất cả đều pha trộn.
Thời Babel dạy chúng ta, chia rẽ là hình phạt nặng như thế nào. Là tín hữu kitô, chúng ta phải nhắm đến sự hiệp nhất.
Chúng tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp với sự ly khai của giáo phái phương Đông. Tôi biết trong nhiều thế kỷ chiếm đóng của Thổ Nhĩ Kỳ, chính thống giáo đã giúp người Xéc-bi giữ bản sắc của họ. Dù vậy trên bờ biển Dalmatia, ở Crô-a-xi hiện nay và ở Bô-xni có những người Xéc-bi công giáo. Thời Babel dạy chúng ta, chia rẽ là hình phạt nặng như thế nào. Là tín hữu kitô, chúng ta phải nhắm đến sự hiệp nhất. Hiện nay, Đức Giáo hoàng vẫn không thể đến Xéc-bi vì có các xu hướng khác nhau giữa những người phát-xít Crô-a-xi và Giáo hội công giáo. Thần học bị thao túng vì mục đích chính trị. Bất cứ ai lợi dụng các chia rẽ này sẽ bị xét xử nghiêm khắc vì tội ác chống Thần Khí. Vào ngày cuối cùng, người phụ nữ già đã giúp người nghèo sẽ không bị Chúa phán xét về các cuộc cãi vã chia rẽ này!
Linh mục Aleksandar Ninkovic dâng thánh lễ ở nhà thờ Chúa Kitô Vua ở Belgrade. © Tijana Dindi
Linh mục Aleksandar Ninkovic
1963 Sinh tại Belgrade, Nam Tư.
1983 Vào Học viện Quân sự ở Sarajevo.
1988 Rời Quân đội Nhân dân Nam Tư.
1991 Tan vỡ liên bang Nam Tư.
1994 Rửa tội trong Giáo hội công giáo.
1997 Học thần học ở Hungaria.
2008 Từ Rôma về hẳn Belgrade.
Kitô giáo ở Serbia
Từ thế kỷ 13, Giáo hội chính thống giáo độc lập Serbia là người canh giữ linh hồn người Xéc-bi. Bị chủ nghĩa cộng sản đàn áp, Nam Tư thật sự đã sống lại trong những năm 1990 và quy tụ hơn 80% dân số. Giáo hội chính thống giáo Xéc-bi đã trải qua các trào lưu đối thoại thuận lợi với các tín ngưỡng kitô giáo khác, trong đó có thượng phụ Irénée hiện nay, còn các giáo phái khác thì dè chừng hon. Giáo hội công giáo chỉ chiếm 5% dân số là người thiểu số Hungaria, Crô-a-xi và Slovenia ở Belgrade và ở Voïvodine, vùng bắc Xéc-bi. Còn tin lành chỉ chiếm 1% trong thiểu số người Slovaquia và Hungaria và xem thường các chia rẽ sắc tộc.
Marta An Nguyễn dịch