Tội nguyên tổ dưới nhẫn quan duy thức
Tội nguyên tổ dưới nhẫn quan duy thức
Từ vài chục năm nay, vấn đề Tội Nguyên Tổ đã trở thành đề tài bàn tán sôi nổi giữa những nhà thần học Công Giáo và sở dĩ như thế là vì nó có liên hệ tới hai lãnh vực Khoa Học và Thần Học như sau.
Hiện nay, khoa học đã có những hiểu biết vượt bực về vũ trụ, thiên văn, cổ sinh vật học, nhân chủng học v,v…và vì thế người ta không thể chấp nhận có hai con người đầu tiên được sinh ra gọi là nguyên tổ Adam, Eva và khi đã không có nguyên tổ thì cũng chẳng làm gì mà có cái gọi là Tội Nguyên Tổ ?
Còn nếu xét trên phương diện thần học cũng không thể chấp nhận Tội Nguyên Tổ. Lý do là vì ta có thể đặt giả thuyết nếu Adam, Eva không nghe lời cám dỗ của rắn Sa Tan thì đã không phạm tội đến nỗi bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng thì cần gì Đức Ki Tô phải xuống thế làm người hầu cứu chuộc thiên hạ ? Còn như nếu nhìn nhận có Tội Nguyên Tổ thì chẵng lẽ Đức Ki Tô chỉ đến để sửa chữa những hư hỏng do Adam lỡ gây ra cho kế hoạch…bất toàn của Thiên Chúa hay sao ?
Công nhận hay phủ nhận Tội Nguyên Tổ như vậy đều không thể được và Tội Nguyên Tổ rút cục đã trở thành như …miếng xương gà mắc nơi cổ họng, khạc không ra mà nuốt vào cũng chẳng được: “ Nếu thực sự có một vấn đề trời tru đất diệt, không ai dám đề cập tới, không ai ưa đả động gì thì đó phải là vấn đề Tội Nguyên Tổ ( Tội Tổ Tông Truyền ). Tin rằng Thiên Chúa đã trực tiếp dựng nên Adam và Eva tức khắc phải đối đầu với cả một vấn đề hết sức rắc rối rồi. Còn tin rằng hai ông bà Nguyên Tổ đã truyền lại cho con cháu về sau cả một tội trạng được coi như là câu giải đáp cho những tai họa khốn đốn đang dồn dập trút đổ xuống trên đầu nhân loại thì đó là chuyện còn quá đáng hơn nữa, không thể nào chịu đựng được. Hễ cứ mạo hiểm trình bày vấn đề như thế là giáo lý viên sẽ đau đớn nắm chắc phần thất bại. Và không riêng gì giáo lý viên mà cả tính cách đáng tin của Giáo Hội và niềm tin vào Thiên Chúa là Cha của Đức Giê Su cũng chuốc lấy luôn thảm bại nữa” ( Nguồn: Conggiao Info – 18/6/2015 – Tội Nguyên Tổ ).
Tại sao chấp nhận Tội Nguyên Tổ thì niềm tin vào Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê Su lại chuốc lấy thảm bại ? Đó là vì nếu đã chấp nhận Tội Nguyên Tổ thì đương nhiên cũng phải nhìn nhận có Đấng Tạo Hóa. Đang khi đó với Đấng gọi là Tạo Hóa đó không thể là Cha Đức Ki Tô cũng như mạc khải của Ngài: “ Ngoài Cha không ai biết Con. Ngoài Con và người nào Con muốn mạc khải cũng không ai biết Cha” ( Lc 10, 22 ).
Một đàng chỉ Đức Ki Tô và những ai Ngài muốn mạc khải mới…biết về Cha. Đàng khác thần học lại khẳng định Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, như vậy thì còn cần chi tới mạc khải ? Thật sự, đấng được gọi là Tạo Hóa ấy chỉ là một quan niệm của thần học và quan niệm ấy lại thoát thai từ triết học Hy Lạp, nói chính xác là của Aristote: “ Với tín hữu Ki Tô giáo, vũ trụ và sự vận hành trong vũ trụ là do Thiên Chúa sáng tạo từ hư vô. Trái lại với Aristote cả vũ trụ, cả vận hành của nó đều có từ đời đời và không bị tạo dựng bởi Thiên Chúa. Với Aristote “ Thiên Chúa” chỉ được quan niệm như một sức mạnh kiểu Đệ Nhất Động Cơ để làm cho trời đất vận hành thế nên vị…thần Động Cơ này không biết gì đến vũ trụ, cũng không lo lắng…Thiên Hựu ( Providence ) cho vũ trụ” ( L.T. Nghiêm – LSTHTP – Q.2 ).
Một Đấng Tạo Hóa mà lại không quan tâm gì đến vũ trụ thì làm sao có thể là Cha của Đức Ki Tô ? Như vậy quan niệm Đấng Tạo Hóa thuần túy chỉ là sản phẩm của triết Hy Lạp, nó chẳng có quan hệ gì tới Đấng Cha của Đức Ki Tô cũng như của hết thảy Ki Tô Hữu chúng ta.
Có câu hỏi không thể không đặt ra đó là tại sao quan niệm Đấng Tạo Hóa lại có thể thống ngự Giáo Hội suốt trong bao thế kỷ ? Nguyên nhân sâu xa là vì thần học từ trước tới nay vẫn là Duy Lý. Triết gia Clement d, Alexangdria vào đầu thế kỷ thứ III nói: “ Nhiều Ki Tô Hữu sợ triết học Hy Lạp như trẻ con sợ ngáo ộp, sợ bị triết học này chinh phục. Nếu đức tin của chúng ta là như thế, nếu nó sụp đổ trước sự thuyết phục của lý luận thì hãy cứ để cho nó sụp đổ, bởi lẽ qua đó chúng ta chứng tỏ rằng chúng ta đã không có chân lý” ( Giáo Phụ – Tập I, từ TK 1 đến TK 4 ).
Ngay từ những thế kỷ đầu, đức tin đã bị triết Hy Lạp chinh phục và rồi đến thế kỷ 13, xét trên phương diện thần học, Giáo Hội đã chính thức bước vào con đường Tục Hóa khi công nhận Aristot cùng với Thánh Gioan Baptixita là…Tiền Hô của Đức Ki Tô: “Tiền Hô của Christ trong những gì thuộc lãnh vực thiên nhiên, không khác gì Jean Baptist trong những gì thuộc lãnh vực ơn sủng” (Proecursor Christi in rebus naturalibus, sicut Joannes Baptista in rebus gratituitis )
Thần học hiện nay gọi là Duy Lý bởi vì đã nhìn nhận câu định nghĩa của Aristot như là nền tảng của triết học: “ Người là con vật biết suy lý” ( L, home est l,animal raisonnable ). Lấy Lý Trí làm nền tảng cho triết học, đây là sai lầm nghiêm trọng của triết học Tây Phương nói chung và của thần học Ki Tô giáo nói riêng. Tại sao ? Bởi vì Lý Trí luôn là Lý Trí phân biệt và nó chính là Tội Nguyên Tổ trong câu chuyện có tính biểu tượng của Sách Sáng Thế: “ Giehova ĐCT đem người vào cảnh vườn Eden để trông và giữ vườn. Rồi Đức Giehova phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn. Nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến. Vì một mai ngươi ăn chắc là phải chết” ( St 2, 15 -16 ).
Biết ở đây có nghĩa là biết phân biệt điều thiện và điều ác. Tại sao biết phân biệt điều thiện, điều ác lại là…tội ? Bởi vì chính cái biết phân biệt ấy mà đã hình thành nên một…Cái Ta ( Ngã ) và cũng chính bởi …Cái Ta ấy đã làm cho con người xa cách nhau cũng như với thiên nhiên, trời đất.
Đức Ki Tô xuất sinh nơi đời mục đích để cho con người được…làm hòa với Thiên Chúa và với nhau. Nhưng bởi u mê chấp ngã nên con người đã không chấp nhận: “ Ban đầu có Đạo, Đạo ở cùng ĐCT. Đạo ấy ban đầu ở cùng ĐCT . Muôn vật bởi Ngài dựng nên, ngoài Ngài chẳng có vật gì được dựng nên. Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người. Sự sáng soi trong tối tăm mà tối tăm chẳng tiếp nhận” ( Ga 1, 1 -5 ).
“ Đạo” cần được hiểu như là Chân Tâm thường trú ở nơi mỗi người. Chân Tâm ấy rộng lớn như hư không, không ngằn, không mé, bao la vô cùng vô tận, không một…vật gì có thể ngoài Chân Tâm ấy mà có. Nhà Phật phát biểu chân lý ấy thế này: “ Tam giới duy Tâm. Vạn pháp duy Thức”.
Tam giới tức là Dục Giới. Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Cả ba cùng trong một Chân Tâm cũng gọi là Phật Tánh vốn đã sẵn đủ ở nơi mỗi người. Còn Vạn Pháp Duy Thức có nghĩa muôn sự muôn vật đều là Thức, do Thức biến hiện. Nói cách đơn giản và dễ hiểu thì tất cả những gì gọi tên ra được đều là Thức. Cái nhà là Thức, con vi trùng vô hình là Thức mà mặt trời to lớn kia cũng là Thức. Tóm lại đó chỉ là những cái ..tên, cái danh mà thôi.
Đang khi Chân Tâm thì bao la vô cùng vô tận, thế mà tại sao lại phân chia manh mún thành ra những cái Thức, cái tên như vậy ? Xin thưa tất cả là do Thức Phân Biệt còn gọi là Thức thứ sáu trong Duy Thức Học.
Sở dĩ có tên là Thức thứ sáu bởi vì nó …đứng hàng thứ sáu trong Bát Thức Tâm Vương: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Mạt na thức và Alaida thức.
Có năm Thức trước gọi là Tiền Ngũ Thức:
1, Nhãn thức: Có vật trước mắt, thấy vuông, tròn, méo, lớn nhỏ v.v…
- Nhĩ thức: Có tiếng động, tai nghe sanh các biết, biết tiếng trầm, tiếng bổng, thanh, thô v.v…
- Tỷ thức: Có những mùi đem gần mũi, biết thơm, biết thối v.v…
- Thiệt thức: Có đồ ăn đem vào miệng, lưỡi nếm, sanh các biết, biết mặn, ngọt, cay, chua v.v…
- Thân thức: Có vật đụng chạm đến thân sanh các biết, biết mềm, cứng, biết nóng, lạnh v.v…
Năm cái biết ( Thức ) này chỉ là cảm biết chứ không phải là Thức nếu chưa có Ý Thức xen vào. Nói cho dễ hiểu khi ta nhìn một bông hoa thì đó mới chỉ là một thứ cảm biết ( tri giác ). Chỉ khi nào thấy nó đẹp, xấu, lớn, nhỏ….thì mới được gọi là Thức.
Trong tám thứ Thức thì Thức thứ sáu này khôn ngoan, lanh lẹ hơn hết. Suy nghĩ làm việc phải, Thức này đứng đầu mà tính toán làm việc quấy nó cũng hơn cả ( Công vi thủ, tội vi khôi ). Lý do khiến định công, tội của Thức thứ sáu là vì tất cả những gì mà Thức này do phân biệt mà có ấy đều được Thức thứ bảy ( Mạt na Thức còn gọi là Thức chấp ngã đưa vào chất chứa ở nơi Thức thứ tám Alai da ( Tạng Tâm )
Khi nhìn bông hoa ở công viên hay nhà người mà khởi Tâm tham muốn hái đem về …trưng ở nhà mình thì đó là Tâm tham do ngã chấp điều khiển.Trái lại cùng nhìn bông hoa ấy mà không khởi đẹp, xấu, đó gọi là Tâm vô ngã là thấy đúng như thực tại nó là.
Tội của Ý Thức chính là thấy có một Cái Ta và vì Cái Ta đó mà hành động. Ngược lại bỏ đi cái ý thức phân biệt ấy đó lại là Công. Dù là Công ( Vô Ngã ) hay Tội ( Chấp Ngã ) mà làm thì tất cả những việc làm ấy đều được đem chất chứa lâu ngày chầy tháng để trở thành cái Nghiệp của mỗi người.
Có hai thứ Nghiệp, một là Nghiệp thế gian, hai là Nghiệp xuất thế gian. Đạo Chúa là đạo xuất thế gian: “ Nếu các ngươi thuộc về thế gian thì thế gian chắc sẽ yêu mến những kẻ thuộc về mình. Nhưng vì các ngươi không thuộc thế gian. Song Ta đã lựa chọn các ngươi ra khỏi thế gian nên thế gian ghét bỏ các ngươi” ( Ga 15, 19 ).
Để ra khỏi thế gian thì cần có “ Nhân” xuất thế và cái “ Nhân” xuất thế ấy chính là biết vâng theo Thánh Ý Chúa: “ Có người thưa với Ngài rằng: Kìa có mẹ và anh em Thầy đứng ở ngoài muốn tìm cách nói với Thầy. Chúa đáp: Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta.? Rồi Ngài giơ tay chỉ các môn đệ mà phán: Này là mẹ Ta, là anh em ta vì hễ kẻ nào làm theo Thánh Ý Cha Ta thì nấy là anh em và là mẹ Ta” ( Mt 12, 47 -50 ).
Vâng theo Thánh Ý Chúa đó là đã tạo cho mình một cái “ Nhân” tối thượng. Kinh Mân Côi có sức huân tập rất lớn, bởi lẽ để thực hành Kinh này thì phải lập đi lập lại lời chào mừng của sứ thần Gabriel trong Ngày Truyền Tin mở đầu cho Ơn Cứu Độ.
Thật diệu kỳ, Ơn Cứu Độ lại được mở ra sau khi Nguyên Tổ bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng cùng với lời trách phạt của Đức Chúa Giehova với rắn Sa Tan: “ Ta sẽ làm cho mày cùng Người Nữ. Dòng dõi mày cùng dòng dõi Người Nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mày, còn mày thì sẽ rình cắn gót chân Người” ( St 3, 15 ).
Chính Tội Nguyên Tổ lại mang Ơn Cứu Độ đến cho con người. Nhận ra chân lý thâm sâu này, Thánh Augustin đã phải thốt lên: Ôi ! Đây thật là tội hồng phúc ( Felix Culpa )./.
Phùng Văn Hóa