Người Samaritanô Nhân Hậu
3/10 Thứ Hai tuần XVII TN C
Gl 1:6-12; Tv 111:1-2,7-8,9,10; Lc 10:25-37
Người Samaritanô Nhân Hậu
Chúng ta đang đọc Tin Mừng Luca với chủ đề Đức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem ở chương 10. Giê-ru-sa-lem là nơi Ngài phải đến và chết ở đó như lời tiên báo: một tiên tri không chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Và trên đường đi Ngài dạy dỗ các môn đệ nhiều điều.
Hôm nay, trang Tin Mừng nói về đề tài “Điều răn lớn” là điều răn quan trọng và là tinh hoa của luật Môsê… và cũng là điều Chúa Giê-su muốn truyền đạt cho những ai muốn theo Ngài.
Mở đầu bài Tin Mừng là câu hỏi của một vị luật sĩ. Không biết vì lý do nào khiến ngươì hỏi Chúa Giêsu một vấn đề mà lẽ ra ông phải thông suốt : “ Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời ?” Chúa Giêsu trả lời bằng hai câu hỏi : “ Luật viết gì ? ông đọc thế nào ?” (c.26) Chúa Giêsu muốn chính ông phải trả lời về câu hỏi ông đặt ra dựa trên luật mà ông đã nắm vững. Ở câu 27, ta thấy ông rất thuộc luật và Chúa Giêsu đã không phải trả lời hoặc sửa đổi, nhấn mạnh ở điểm nào cả :
“Hãy yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn”( 27a) nghĩa là yêu Thiên Chúa với trọn vẹn con người gồm thân xác và linh hồn, tâm tư, trí lực. Nói tóm lại : hãy yêu Ngài với những gì bạn Có và bạn Là. Bên cạnh đó “ hãy yêu người thân cận như chính mình” (27b) nghĩa là hãy quí trọng người khác như thân thể mình vậy. Ông luật sĩ trả lời vanh vách, không ngập ngừng hay lúng túng đến nỗi Chúa Giêsu phải khen ông “Ông trả lời đúng lắm, và Ngài thêm một mệnh lệnh “ cứ làm như vậy sẽ được sống” (c.28).
Tiếp sau đó là dụ ngôn người Samaria nhân hậu. Ta thấy thánh sử Luca giới thiệu bằng một mệnh đề nói lên lý do vì sao Chúa Giêsu lại dùng dụ ngôn : “Ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý… Ai là người thân cận của tôi?” (c.29). Đây là cách giảng dạy thông thường của Chúa Giêsu khi có một nguyên nhân thúc đẩy để Ngài nói lên một vấn đề, đúng hơn là một bài giáo huấn. Trong luật nói : Người thân cận.
Ở đây ông luật sĩ đựơc Chúa khen, nên ông tưởng minìh đã đi đúng đường. với tính tự cao tự mãn bộc lộ rằng : Mình có lý. Chúa Giêsu muốn ông xác định lại vấn đề ông hỏi và dẫn ông đi vào cái nhìn của Ngài về “ người thân cận” qua dụ ngôn. Ngài mở lời : Có một người từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô … rơi vào tay kẻ cướp, bị trọng thương, mất hết của cải. Và kìa có thầy tư tế, thầy Lêvi đi qua đó, nhưng cả 2 ông đều tránh sang một bên. Lý do đơn giản : sợ ô uế. Một hình thức giữ luật vì luật. Họ sợ ô uế đến nỗi : thà để một con người chết đi, hy sinh vì luật. Luật đã khiến họ ra mù quáng ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân.
Chúa Giêsu đưa ra tiếp một hình ảnh người Samaria. Theo quan niệm Do Thái giáo, người Do Thái không tiếp xúc với người Samaria vì cho họ là dân ngoại. Nhưng ở đây, chính người ngoại này đã dừng lại. Cúi xuống băng bó vết thương và vực người bị thương lên lưng lừa, đưa về quán trọ. Thánh sử nói rõ : ông ta làm vì lòng thương( x.c 33). Chẳng những ông ấy băng bó rồi còn trao cho chủ quán tiền chữa chạy, nếu thiếu, trên đường về chính ông là người trả lại số tiền thiếu đó. (x.c.35). Một hành vi cao thượng. Người Samaria này không nghĩ đến bản thân : túi tiền bị hao hụt, mất thời giờ, lỡ cơ hội vì chậm trể hoặc có nguy cơ chính mình sẽ bị cướp lột ngay trên quãng đướng vắng vẻ này. Hình như tình thương che phủ sợ hãi. Ông quên hết những điều đó mà chỉ chuyên chú một điều : chạy chữa cho nạn nhân.
Một dụ ngôn thật ứng dụng cho đời sống. Chúa Giêsu có biệt tài hướng dẫn những người thành tâm thiện chí nhận ra đường lối của Thiên Chúa. Ngài xoay lại câu hỏi của ông luật sĩ : ai là người thân cận của tôi thì nay sẽ là :ai đã tỏ ra là người thân cận ?…( c.36). Thật vậy, nhiều khi chúng ta đòi hỏi người khác phải trở thành “ thân cận” của mình, mà ta quên rằng : chính chúng ta phải là “ người thận cận” cho anh em. Người luật sĩ đã nhận ra vấn đề và trả lời: Người thân cận là người đã thực thi lòng thương xót với anh em đồng loại (c.37). Và Chúa Giêsu lại kết luận bằng cách nhắc lại một lần nữa mệnh lệnh của Ngài “ Hãy đi và làm như vậy” . Ông đã hiểu giờ chỉ còn thực hành mà thôi.
Trong cuộc sống hiện tại, có lẽ mỗi người không ít thì nhiều rất e dè khi giúp đỡ người khác, nhất là người đang lâm nạn, bởi vì “đầu không phải, phải tai” và có khi chính mình phải lãnh hậu quả do người khác gây ra chỉ vì lòng bác ái của mình. Nhưng chúng ta cũng đừng vịn vào cớ đó mà bàng quan trước đau khổ của người anh em, như thầy tư tế và thầy Lêvi xưa. Lòng bác ái không có ranh giới. nó phủ nhận mọi lý do ngay cả lỗi lầm, thiếu sót.
Người Samaritanô nhân hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi. Chúa Giêsu đã vượt qua luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái. Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.