Thư Đức Phanxicô gửi các giám mục trên thế giới về Tự sắc Traditionis Custodes
Thư Đức Phanxicô gửi các giám mục trên thế giới về Tự sắc Traditionis Custodes
Giống vị Tiền nhiệm của tôi là Đức Bênêđíctô XVI đã làm với Tự sắc Summorum Pontificum, tôi muốn đính kèm Tự sắc Traditionis một lá thư giải thích các động cơ thúc đẩy quyết định của tôi. Tôi hướng đến qúy huynh đệ với niềm tín thác và mạnh dạn, nhân danh “sự lo lắng chung đối với toàn thể Giáo hội, góp phần tối cao vào lợi ích của Giáo hội Hoàn vũ” như Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta.
Rôma, ngày 16 tháng 7 năm 2021
Qúy huynh đệ trong hàng Giám mục thân mến,
Giống vị Tiền nhiệm của tôi là Đức Bênêđíctô XVI đã làm với Tự sắc Summorum Pontificum, tôi muốn đính kèm Tự sắc Traditionis một lá thư giải thích các động cơ thúc đẩy quyết định của tôi. Tôi hướng đến qúy huynh đệ với niềm tín thác và mạnh dạn, nhân danh “sự lo lắng chung đối với toàn thể Giáo hội, góp phần tối cao vào lợi ích của Giáo hội Hoàn vũ” như Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta.[1]
Hầu hết mọi người đều hiểu các động cơ từng thúc đẩy Thánh Gioan Phaolô II và đức Bênêđictô XVI cho phép sử dụng Sách lễ Rôma, do Thánh Piô V ban hành và Thánh Gioan XXIII hiệu đính năm 1962, cho Hy tế Thánh Thể. Năng quyền – được cấp bởi đặc miễn (indult) của Thánh bộ Phụng thờ Thiên Chúa vào năm 1984 [2] và được Thánh Gioan Phaolô II xác nhận trong Tự sắc Ecclesia Dei năm 1988 [3] – trước hết được thúc đẩy bởi mong muốn cổ vũ việc hàn gắn cuộc ly giáo với phong trào của Đức Cha Lefebvre. Với ý định nhằm khôi phục sự hiệp nhất Giáo hội, do đó, các Giám mục được yêu cầu rộng lượng chấp nhận “nguyện vọng chính đáng” của các tín hữu đã yêu cầu sử dụng Sách lễ đó.
Nhiều người trong Giáo hội coi năng quyền này là cơ hội để tự do tiếp nhận Sách lễ Rôma do Thánh Piô V ban hành và sử dụng nó theo cách song song với Sách lễ Rôma do Thánh Phaolô VI ban hành. Để điều chỉnh tình trạng này trong khoảng thời gian nhiều năm, Đức Bênêđíctô XVI đã can thiệp để giải quyết tình trạng sự việc này trong Giáo hội. Nhiều linh mục và cộng đoàn đã “sử dụng với lòng biết ơn khả thể được cung cấp bởi Tự sắc” của Thánh Gioan Phaolô II. Nhấn mạnh rằng sự phát triển này không thể lường trước được vào năm 1988, Tự sắc Summorum năm 2007 dự định đưa ra “một quy định pháp lý rõ ràng hơn” trong lĩnh vực này [4]. Để cho phép những người, kể cả những người trẻ tuổi, những người khi “khám phá ra hình thức phụng vụ này, cảm thấy được lôi cuốn và tìm thấy trong đó một hình thức, đặc biệt phù hợp với họ, để gặp gỡ mầu nhiệm Thánh Thể cực thánh” được tiếp cận nó[5], Đức Bênêđíctô XVI tuyên bố “Sách lễ do Thánh Piô V ban hành và mới được Chân phước Gioan XXIII hiệu đính, là một cách diễn đạt ngoại thường của cùng một luật cầu nguyện [lex orandi]”, và ban “khả thể rộng rãi hơn cho việc sử dụng Sách lễ năm 1962” [6].
Khi đưa ra quyết định của mình, các ngài tin tưởng rằng một dự liệu như vậy sẽ không gây nghi ngờ cho một trong những biện pháp quan trọng của Công đồng Vatican II hoặc giảm thiểu thẩm quyền của nó bằng cách này: Tự sắc công nhận rằng, theo đúng quyền của nó, “Sách lễ ban hành bởi Đức Phaolô VI là cách diễn đạt thông thường của luật cầu nguyện của Giáo Hội Công Giáo theo nghi lễ Latinh ” [7]. Việc công nhận Sách lễ do Thánh Piô V ban hành “như một cách diễn đạt ngoại thường của cùng một luật cầu nguyện”, bất cứ cách nào, cũng không hề hạ giá việc cải cách phụng vụ, nhưng được ra sắc lệnh với mong muốn thừa nhận “những lời cầu nguyện khẩn thiết của các tín hữu này,” cho phép họ “cử hành Hy tế Thánh lễ theo tiêu bản [editio typica] của Sách lễ Rôma do Chân phước Gioan XXIII ban hành năm 1962 và không bao giờ bị bãi bỏ, như là hình thức ngoại thường của Phụng vụ Giáo hội”[8]. Điều an ủi Đức Bênêđíctô XVI trong sự phân định của ngài là nhiều người mong muốn “tìm thấy hình thức Phụng vụ thánh thân thiết với họ”, “rõ ràng chấp nhận đặc tính ràng buộc của Công đồng Vatican II và trung thành với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục” [9]. Hơn nữa, ngài tuyên bố là vô căn cứ việc sợ có sự chia rẽ trong các cộng đồng giáo xứ, bởi vì “hai hình thức sử dụng Nghi lễ Rôma sẽ làm giàu lẫn cho nhau” [10]. Vì vậy, ngài mời gọi các Giám mục gạt bỏ những nghi ngờ và sợ hãi của họ, và hoan nghênh các quy tắc, “lưu tâm để mọi điều tiến hành trong hòa bình và thanh thản,” với lời hứa rằng “sẽ có thể tìm được các giải pháp” trong trường hợp “các khó khăn nghiêm trọng được đưa ra ánh sáng” trong việc thực hiện các tiêu chuẩn “một khi Tự sắc có hiệu lực” [11].
Với mười ba năm trôi qua, tôi đã chỉ thị cho Bộ Giáo lý Đức tin phân phối một bảng câu hỏi cho các Giám mục về việc thực thi Tự sắc Summorum Pontificum. Các câu trả lời tiết lộ một tình huống khiến tôi bận tâm và buồn phiền, đồng thời thuyết phục tôi về sự cần thiết phải can thiệp.
Thật đáng tiếc, mục tiêu mục vụ của các vị Tiền nhiệm của tôi, những vị vốn có ý định “làm mọi điều có thể để bảo đảm rằng tất cả những người thực sự khát vọng hiệp nhất sẽ thấy họ có thể duy trì sự hiệp nhất này hoặc tái khám phá nó” [12], thường bị coi thường một cách trầm trọng. Một cơ hội được Thánh Gioan Phaolô II và, một cách rộng lượng hơn, được Bênêđíctô XVI cung ứng, nhằm khôi phục sự hợp nhất của cơ thể Giáo hội với những nhạy cảm phụng vụ đa dạng, đã bị khai thác để mở rộng thêm hố phân cách, tăng cường các khác biệt và khuyến khích các bất đồng gây tổn hại cho Giáo hội, chặn đường đi của Giáo Hội, và khiến Giáo Hội phải đối đầu với nguy cơ chia rẽ.
Đồng thời, tôi đau buồn về các lạm dụng trong việc cử hành phụng vụ ở mọi phía. Cùng với Bênêđíctô XVI, tôi lấy làm tiếc sự kiện này là “ở nhiều nơi, các quy định của Sách Lễ mới không được tuân thủ trong việc cử hành, nhưng thực sự còn bị hiểu như một sự cho phép hoặc thậm chí như một đòi hỏi của óc sáng tạo, dẫn đến những bóp méo gần như không thể chịu đựng được” [13]. Nhưng tôi vẫn thấy buồn vì việc sử dụng Sách Lễ Rôma năm 1962 như một công cụ thường có đặc điểm ở chỗ bác bỏ không những cuộc cải tổ phụng vụ, mà cả chính Công đồng Vatican II, vì cho rằng nó đã phản bội Truyền thống và “Giáo hội đích thực”, với những khẳng định vô căn cứ và không thể được chống đỡ. Con đường của Giáo hội phải được nhìn trong tính năng động của Truyền thống “bắt nguồn từ các Tông đồ và tiến diễn trong Giáo hội với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần” (DV 8). Giai đoạn gần đây của tính năng động này đã được Công đồng Vatican II thiết lập trong đó hàng giám mục Công Giáo đến với nhau để lắng nghe và phân định con đường cho Giáo hội được Chúa Thánh Thần chỉ định. Nghi ngờ Công đồng là nghi ngờ ý định của chính những Nghị phụ đã thực thi quyền lực hợp đoàn của các ngài một cách long trọng cum Petro et sub Petro [cùng với Phêrô và dưới Phêrô] trong một công đồng chung[14], và, nếu phân tích cho cùng, nghi ngờ chính Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn Giáo Hội.
Mục tiêu sửa đổi việc cho phép do các Vị tiền nhiệm của tôi ban cấp được chính Công đồng Vatican II nêu bật. Từ việc các phiếu bầu của các Giám mục đệ trình ở đó, ta thấy các ngài nhấn mạnh rất nhiều đến việc tham gia trọn vẹn, có ý thức và tích cực của toàn thể dân Chúa vào phụng vụ[15], phù hợp với các đường hướng đã được Đức Piô XII chỉ ra trong Thông điệp Mediator Dei [Đấng Trung gian của Thiên Chúa] về việc canh tân phụng vụ[16]. Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã xác nhận lời kêu gọi này, bằng cách tìm kiếm “sự đổi mới và thăng tiến phụng vụ”[17], và bằng cách chỉ ra các nguyên tắc nên hướng dẫn cuộc cải tổ[18]. Đặc biệt, nó xác định rằng các nguyên tắc này liên quan đến Nghi lễ Rôma, và các nghi lễ hợp pháp khác nếu có thể áp dụng, và yêu cầu “các nghi lễ được duyệt xét cẩn thận dưới ánh sáng truyền thống lành mạnh, và chúng được cung cấp sức sống mới để đáp ứng các hoàn cảnh và nhu cầu thời nay ”[19]. Trên cơ sở những nguyên tắc này, một cuộc cải tổ phụng vụ đã được thực hiện, với biểu thức cao nhất của nó trong Sách Lễ Rôma, được Thánh Phaolô VI công bố trong tiêu bản [20] và được Thánh Gioan Phaolô II sửa đổi [21]. Do đó, cần phải cho rằng Nghi lễ Rôma, được thích ứng nhiều lần trong suốt nhiều thế kỷ theo nhu cầu của thời đại, không những phải được bảo tồn mà còn được đổi mới “trong sự tuân thủ trung thành đối với Truyền thống”[22]. Bất cứ ai muốn cử hành với lòng sùng kính theo các hình thức trước đây của phụng vụ có thể tìm thấy trong Sách lễ Rôma được cải cách theo Công đồng Vatican II tất cả các yếu tố của Nghi lễ Rôma, đặc biệt là Lễ qui Rôma [Roman Canon] vốn tạo thành một trong những yếu tố khác biệt hơn của nó.
Lý do cuối cùng cho quyết định của tôi là thế này: Càng rõ ràng hơn trong lời nói và thái độ của nhiều người là mối liên hệ chặt chẽ giữa việc lựa chọn cử hành theo các sách phụng vụ trước Công đồng Vatican II và việc bác bỏ Giáo hội và các định chế của Giáo hội nhân danh điều được gọi là “Giáo hội đích thực”. Ở đây, người ta đang đương đầu với một tác phong mâu thuẫn với sự hiệp thông và nuôi dưỡng khuynh hướng chia rẽ – “Tôi thuộc về Phaolô; Thay vào đó tôi thuộc về Apollo; Tôi thuộc về Cephas; Tôi thuộc về Đấng Kitô ”- điều mà Thánh Tông đồ Phaolô đã phản đối một cách mạnh mẽ [23]. Để bảo vệ sự hợp nhất của Thân thể Chúa Kitô, tôi buộc phải thu hồi năng quyền được các vị Tiền nhiệm của tôi ban cấp. Việc sử dụng đầy xuyên tạc đã được thực hiện cho năng quyền này là trái với các ý định dẫn đến việc cho phép tự do cử hành Thánh lễ với Sách Lễ Rôma [Missale Romanum] năm 1962. Vì “các cử hành phụng vụ không phải là các hành động riêng tư, nhưng là các cử hành của Giáo hội, là bí tích hiệp nhất ” [24], chúng phải được thực hiện trong sự hiệp thông với Giáo hội. Công đồng Vatican II, trong khi tái xác nhận các mối ràng buộc bên ngoài của việc tháp nhập vào Giáo hội – tuyên xưng đức tin, các bí tích, sự hiệp thông – đã khẳng định với Thánh Augustinô rằng việc ở lại trong Giáo hội không chỉ “bằng thân xác” mà còn “bằng tâm hồn” là điều kiện để được cứu rỗi [25].
Qúy huynh đệ thân mến trong hàng Giám mục, Sacrosanctum Concilium giải thích rằng Giáo hội, “bí tích hiệp nhất”, là như vậy vì là “Dân thánh được quy tụ và cai quản dưới thẩm quyền của các Giám mục”[26]. Hiến chế Lumen gentium, trong khi nhắc lại rằng Giám mục Rôma là “nguyên tắc vĩnh viễn và hữu hình và là nền tảng của sự hiệp nhất của cả các giám mục lẫn của vô số các tín hữu”, nói rằng quý huynh đệ Giám mục là “nguyên tắc hữu hình và nền tảng của sự hiệp nhất của các Giáo hội địa phương của qúy vị, trong đó và qua đó hiện hữu một Giáo Hội Công Giáo duy nhất ”[27].
Đáp ứng yêu cầu của qúy huynh đệ, tôi cương nghị quyết định bãi bỏ tất cả các quy tắc, huấn thị, giấy phép và phong tục có trước Tự sắc này, và tuyên bố rằng các sách phụng vụ được ban hành bởi các Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II, phù hợp với các sắc lệnh của Công đồng Vatican II, tạo thành biểu thức độc nhất của luật cầu nguyện của Nghi lễ Rôma. Trong quyết định này, tôi tìm an ủi ở sự kiện này là sau Công đồng Trent, Thánh Piô V cũng bãi bỏ tất cả các nghi lễ không được chứng mình là có tính cổ xưa, và đã thiết lập cho toàn thể Giáo hội Latinh một Sách lễ Rôma duy nhất. Trong bốn thế kỷ, Sách lễ Rôma, do Thánh Piô V ban hành, do đó, là biểu thức chính của luật cầu nguyện của Nghi thức Rôma, và có chức năng duy trì sự thống nhất của Giáo hội. Không phủ nhận phẩm giá và sự cao cả của Nghi lễ này, các Giám mục tập hợp trong công đồng chung yêu cầu nó được cải tổ; ý định của các ngài là “các tín hữu sẽ không tham dự như những người xa lạ và những khán giả im lặng vào mầu nhiệm đức tin, nhưng, với sự hiểu biết đầy đủ về các nghi thức và lời cầu nguyện, sẽ tham dự vào hành động thánh thiêng một cách có ý thức, sốt sắng và tích cực” [28]. Thánh Phaolô VI, khi nhắc lại rằng công việc sửa đổi Sách Lễ Rôma đã được Đức Piô XII khởi xướng, đã tuyên bố rằng việc sửa đổi Sách Lễ Rôma, được thực hiện dưới ánh sáng của các nguồn phụng vụ cổ xưa, có mục đích cho phép Giáo Hội dâng lên, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, “một lời cầu nguyện duy nhất và đồng nhất” nói lên sự hiệp nhất của Giáo Hội [29]. Sự hiệp nhất này tôi dự tính sẽ tái lập trong toàn bộ Giáo hội của Nghi lễ Rôma.
Công đồng Vatican II, khi mô tả tính Công Giáo của dân Chúa, đã nhắc lại rằng “trong sự hiệp thông Giáo hội”, hiện hữu nhiều Giáo hội đặc thù hưởng thụ các truyền thống riêng của mình, không gây hại đến quyền tối thượng của Tòa Phêrô, là tòa chủ trì tình hiệp thông bác ái hoàn vũ, đã bảo đảm tính đa dạng hợp pháp và cùng nhau bảo đảm rằng cái đặc thù không những không làm tổn hại đến cái phổ quát mà trên hết còn phải phục vụ nó” [30]. Trong việc thi hành thừa tác vụ của mình để phục vụ sự hiệp nhất, trong khi tôi đưa ra quyết định đình chỉ năng quyền do các vị Tiền nhiệm của tôi ban cấp, tôi yêu cầu qúy huynh đệ chia sẻ với tôi gánh nặng này như một hình thức tham gia vào viêc lo lắng cho toàn thể Giáo hội vốn là trách nhiệm của các Giám mục. Trong Tự sắc, tôi muốn khẳng định điều này: tùy thuộc vị Giám mục ra qui định cho các việc cử hành phụng vụ, vì ngài vốn là người phối trí, cổ vũ và bảo vệ đời sống phụng vụ của Giáo hội mà ngài là nguyên tắc hiệp nhất. Trong tư cách các bản quyền địa phương, Qúy huynh đệ có quyền cho phép tại các Giáo Hội của qúy vị việc sử dụng Sách Lễ Rôma năm 1962, trong khi áp dụng các tiêu chuẩn của Tự sắc này. Qúy vị có thể tiến hành một cách nào đó để trở lại hình thức cử hành nhất thể [unitary], và xác định từng trường hợp thực tại của các nhóm cử hành với Sách Lễ Rôma này.
Các chỉ dẫn về cách tiến hành trong giáo phận của qúy vị chủ yếu được quy định bởi hai nguyên tắc: một mặt, cung cấp lợi ích cho những người đã bén rễ vào hình thức cử hành trước đây và cần phải kịp thời trở lại với Nghi lễ Rôma do Các Thánh Phaolô VI và Gioan Phaolô II ban hành, và mặt khác, việc ngừng thiết lập các giáo xứ tòng nhân mới gắn liền với mong muốn và ước nguyện của cá nhân linh mục hơn là nhu cầu thực sự của “Dân thánh Thiên Chúa”. Đồng thời, tôi yêu cầu qúy huynh đệ hãy thận trọng trong việc bảo đảm rằng mọi phụng vụ phải được cử hành trang trọng và trung thành với các sách phụng vụ được ban hành sau Công đồng Vatican II, không có những hành vi lập dị dễ trở thành lạm dụng. Các chủng sinh và tân linh mục nên được đào tạo về việc trung thành tuân giữ các quy định của Sách Lễ và các sách phụng vụ, trong đó phản ánh ý chí cải tổ phụng vụ của Công đồng Vatican II.
Tôi cầu xin Thần Khí của Chúa Phục Sinh xuống trên qúy huynh đệ, xin Người làm cho qúy huynh đệ trở nên mạnh mẽ và cương nghị trong việc phục vụ dân Chúa mà Chúa đã giao phó cho qúy huynh đệ, để sự quan tâm và cảnh giác của qúy huynh đệ thể hiện sự hiệp thông ngay cả trong sự thống nhất của một Nghi lễ duy nhất, trong đó sự phong phú tuyệt vời của truyền thống phụng vụ Rôma được bảo tồn. Tôi cầu nguyện cho qúy huynh đệ. Xin qúy huynh đệ cầu nguyện cho tôi.
Phanxicô
[1] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, số. 23 AAS 57 (1965) 27.
[2] Xem Bộ Phụng tự, Thư gửi các Chủ tịch các Hội đồng Giám mục “Quattuor abhinc annos”, ngày 3 tháng 10 năm 1984: AAS 76 (1984) 1088-1089.
[3] Đức Gioan Phaolô II, Tông thư dưới dạng Tự sắc “Ecclesia Dei”, ngày 2 tháng 7 năm 1988: AAS 80 (1998) 1495-1498.
[4] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 796.
[5] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 796.
[6] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 797.
[7] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007) 779.
[8] Đức Bênêđíctô XVI, Tông thư dưới dạng Tự sắc“Summorum Pontificum”, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007) 779.
[9] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 796.
[10] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 797.
[11] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 798.
[12] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 797-798.
[13] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 796.
[14] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, n. 23: AAS 57 (1965) 27.
[15] Xem Acta et Documenta Concilio Oecumenico Vaticano II apparando, Series I, Volumen II, 1960.
[16] Đức Piô XII, Thông điệp về phụng vụ thánh “Mediator Dei”, ngày 20 tháng 11 năm 1947: AAS 39 (1949) 521-595.
[17] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, nn. 1, 14: AAS 56 (1964) 97.104.
[18] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 3: AAS 56 (1964) 98.
[19] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 4: AAS 56 (1964) 98.
[20] Missale Romanum ex decto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI Issgatum, editio typica, 1970.
[21] Missale Romanum ex decto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI promulgatum Ioannis Pauli PP. II cura reggnitum, editio typica altera, 1975; editio typica tertia, 2002; (reimpressio emendata 2008).
[22] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 3: AAS 56 (1964) 98.
[23] 1Cr 1,12-13.
[24] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 26: AAS 56 (1964) 107.
[25] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, n. 14: AAS 57 (1965) 19.
[26] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 6: AAS 56 (1964) 100.
[27] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, n. 23: AAS 57 (1965) 27.
[28] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 48: AAS 56 (1964) 113.
[29] Đức Phaolô VI, Tông hiến “Missale Romanum” về Sách lễ Rôma mới, ngày 3 tháng 4 năm 1969, AAS 61 (1969) 222.
[30] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, n. 13: AAS 57 (1965) 18.
Vũ Văn An