2023
Ủy ban Kinh Thánh và Bản dịch Cựu ước
Lm. Giuse Ngô Đức Tài, MF
Thư ký Ủy ban Kinh Thánh / HĐGMVN
Sau khi đã hoàn thành bản dịch Kinh Thánh Tân ước và được Hội Đồng Giám mục phê chuẩn, Ủy ban Kinh Thánh đã tiếp tục công việc hiệu đính và phiên dịch bản văn Cựu ước, bắt đầu từ phần Ngũ Thư, bao gồm các sách: Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số và Đệ Nhị Luật.
Sau những tháng ngày làm việc nghiêm túc của các thành viên, bản văn Ngũ Thư đã được hoàn thành để trình cho Hội Đồng Giám Mục và đã được phê chuẩn trong Hội Nghị thường niên Kỳ I năm 2023 diễn ra tại Tòa Giám Mục Giáo phận Vinh từ ngày 17-21/04/2023 vừa qua.
Đây là niềm vui và cũng là sự khích lệ lớn lao cho toàn thể anh chị em trong Ủy ban Kinh Thánh. Chính vì thế, trong kỳ họp ngày 29/04/2023 tại Văn Phòng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, số 72/12 Trần Quốc Toản, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM, Ủy Ban Kinh Thánh đã đề ra những mục tiêu kế tiếp, cố gắng hoàn thành từng phần sách còn lại của Cựu ước theo từng giai đoạn, bao gồm: Các sách Lịch sử, Các sách Ngôn sứ và các sách Khôn ngoan, trong kế hoạch tổng thể 5 năm như đã định, từ 2020-2025.
Ủy Ban Kinh Thánh hiện nay có tất cả 36 thành viên, là các chuyên viên Kinh Thánh và ngôn ngữ học, bao gồm quý Đức cha, quý cha, quý tu sĩ và anh chị em giáo dân của nhiều Giáo phận và các Dòng tu khác nhau trên khắp cả nước, dưới sự hướng dẫn của Đức cha Chủ tịch Vincent Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận Hải Phòng, cùng với sự đồng hành của Đức cha Chủ tịch Ủy Ban Phụng tự, Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Giám mục Giáo phận Bà Rịa.
Chúng ta cùng cám ơn những hy sinh thầm lặng của các thành viên Ủy ban Kinh Thánh, và cùng cầu nguyện cho các vị được thêm nhiều ơn khôn ngoan và lòng quảng đại, để tiếp tục dấn thân cho công việc chung của Giáo hội, là sớm hoàn thành bản dịch trọn bộ Kinh Thánh, đáp ứng nhu cầu mong mỏi của mọi thành phần Dân Chúa Việt Nam chúng ta.
2023
Giáo hội Hungary trước ngưỡng cửa cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha
Giáo hội Hungary trước ngưỡng cửa cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha
Thánh lễ bế mạc Đại hội Thnáh Thể Quốc tế lần thứ 52 tại Budapest, Hungary (12/09/2021) (Vatican Media)
GIÁO HỘI HUNGARY TRƯỚC NGƯỠNG CỬA CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC THÁNH CHA
Hồng Thủy – Vatican News
Vatican News (25.04.2023) – Thứ Sáu tới đây, ngày 28/4/2023, Đức Thánh Cha sẽ lên đường bắt đầu 3 ngày viếng thăm Hungary. Lịch sử Giáo hội ở Hungary gắn chặt với lịch sử của Nhà nước Hungary được thành lập bởi Thánh vương Stephano I của Hungary (969 – 1038), một nhà truyền giáo và bổn mạng của Hungary, với tước hiệu “Vua Tông đồ”. Là một Giáo hội năng động trong nhiều lĩnh vực và sống động với các phong trào giáo dân, nhưng Giáo hội Hungary cũng đối diện với nhiều thách đố, đặc biệt là vấn đề tục hoá.
Khẩu hiệu của chuyến viếng thăm Hungary sắp tới là “Chúa Kitô là tương lai của chúng ta”.
Đây không phải là lần đầu tiên Đức Thánh Cha đến Hungary. Vào tháng 9/2021, ngài đã đến thủ đô Budapest của Hungary để chủ sự Thánh lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52. Nhưng cuộc viếng thăm đó không được xem là một cuộc viếng thăm chính thức khi ngài chỉ dừng lại Hungary chưa tròn 8 tiếng đồng hồ. Thực tế, đây chỉ là một chặng dừng chân trước khi viếng thăm Slovakia 3 ngày. Do đó, chuyến viếng thăm Hungary lần này rất được người dân Hungary mong chờ và chính Đức Thánh Cha cũng chờ đợi để gặp mọi thành phần của Giáo hội và xã hội Hungary.
Trong số 9 triệu 731 ngàn dân của Hungary, có gần 6 triệu tín hữu Công giáo, chiếm 61,2% dân số, trong khi tín hữu Tin Lành chiếm 15% và 18% là những người vô thần. Nhóm sắc tộc chính tại Hungary là Hungary, kế đến là người Rom và người Đức.
Giáo hội Hungary được thành lập từ thế kỷ XI
Lịch sử Giáo hội ở Hungary gắn chặt với lịch sử của Nhà nước Hungary được Thánh vương Stephano I của Hungary (969 – 1038), một nhà truyền giáo và bổn mạng của Hungary, với tước hiệu “Vua Tông đồ” thành lập. Được thánh hiến ngày 25/12/1000, Vua Stephano không chỉ tổ chức đời sống chính trị của dân tộc khi hợp nhất 39 quận thành một vương quốc duy nhất, nhưng cả đời sống tôn giáo khi đặt nền móng cho nền văn hoá Kitô giáo vững chắc của quốc gia. Dưới triều đại của ngài, nhiều nhà thờ và đan viện đã được xây cất, trong đó có đan viện thánh Martino nổi tiếng của dòng Biển Đức ở Pannonhalma và 10 giáo phận được thành lập, trong đó có giáo phận Esztergom, trụ sở của Tổng Giám mục và Giáo chủ Hungary.
Khi Vua Stephano qua đời, Hungary đứng giữa cuộc chiến giữa Đế chế Roma và Giáo hoàng về việc bổ nhiệm các chức sắc cao cấp của Giáo hội và cả chính Đức Giáo hoàng. Hungary đã đứng về phía Đức Giáo hoàng. Vào thời gian này, Nhà nước và Giáo hội được hợp nhất và dưới triều Vua Thánh Louis Cả, vào thế kỷ XIV, Hungary có thêm các giáo phận mới như Nagyvárad, Nitra (ngày nay thuộc Slovakia), Csanád e Nagyszeben (ngày nay là Sibiu, ở Rumani).
Trong thời kỳ Cải cách Tin lành, phần lớn người Hungary đã từ bỏ Công giáo, nhưng nhiều người cũng đã quay trở lại sau khi Hungary bị sáp nhập vào Đế quốc Áo, vào thế kỷ 17, nhờ hoạt động của các nhà truyền giáo tại các vùng lãnh thổ mà Áo chiếm được. Nhân vật chính của cuộc Cải cách Công giáo trong nước là Đức Hồng y Péter Pázmány (1570-1637), Dòng Tên, Tổng Giám mục của Esztergom và người sáng lập Đại học Nagyszombat, đại học Công giáo Hungary đầu tiên, ngày nay là Trnava ở Slovakia. Vào thế kỷ XVIII, Nữ hoàng Maria Theresa và con trai, Joseph II của Áo đã trục xuất nhiều dòng tu khỏi lãnh thổ của Đế quốc Áo, bao gồm cả Hungary.
Ngày nay Giáo hội Hungary có 17 giáo phận và thực thể tương đương, với 2.048 giáo xứ và 168 trung tâm mục vụ, do 37 giám mục và 1.967 linh mục coi sóc, trong đó có 1.644 linh mục triều và 323 linh mục dòng. Giáo hội cũng có 287 đại chủng sinh, 62 tu huynh, 579 nữ tu và 97 thành viên tu hội đời, 2.302 giáo lý viên. Giáo hội quản lý và điều hành 565 cơ sở giáo dục với 156.194 học sinh và 228 cơ sở bác ái và xã hội.
Quan hệ ngoại giao giữa Toà Thánh và Hungary
Hai năm sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã, vào năm 1920, Toà Thánh và Hungary độc lập đã thiết lập quan hệ ngoại giao và quan hệ này kéo dài cho đến cuộc chiếm đóng của Xô Viết vào năm 1945. Giữa hai quốc gia không ký hiệp định nào nhưng chỉ có một Cam kết vào năm 1927 để hướng dẫn các tiến trình bổ nhiệm giám mục và giáo hạt quân đội.
Thời cộng sản
Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Hungary bị Xô Viết chiếm đóng và biến cố này cũng đánh dấu sự khởi đầu của cuộc bách hại chống Giáo hội. Nhiều lãnh đạo Công giáo đã bị cầm tù hoặc bị giết (một số vị đã được tuyên phong chân phước sau năm 1989). Giáo hội bị tước đoạt tài sản, trường học bị quốc hữu hóa (1948), các dòng tu bị giải thể (1950) và vào năm 1957, một điều khoản khiến Tòa thánh không thể bổ nhiệm người điều hành các giáo phận. Biện pháp này sau đó bị bãi bỏ bởi thỏa thuận ký ngày 15/9/1964 tại Budapest. Thoả thuận mới nhìn nhận quyền của Toà Thánh trong việc bổ nhiệm các giám mục nhưng dành cho chính phủ quyền từ chối.
Đức Hồng Y József Mindszenty
Một nhân vật hàng đầu trong cuộc kháng chiến chống chế độ cộng sản là Đức Hồng Y József Mindszenty (1892-1975). Ngài là Tổng Giám mục của Esztergom và Giáo chủ của Hungary từ năm 1945, được Đức Piô XII phong làm Hồng y vào năm 1946. Năm 1948, ngài đã bị bắt, bị tra tấn và bị kết án, sau một phiên tòa mang tính trình diễn, vì “phản quốc, gián điệp và buôn bán tiền tệ”. Được giải thoát trong cuộc nổi dậy năm 1956, sau tám năm tù, ngài được tị nạn chính trị tại đại sứ quán Mỹ ở Budapest và trong nhiều năm, đã từ chối lời mời tìm nơi trú ẩn ở Vatican. Ngài chỉ đến Vatican vào năm 1971 nhưng sau đó định cư ở thủ đô Vienna của Áo và qua đời ở đó vào năm 1975. Năm 1991, hài cốt của ngài được chuyển từ Mariazell, nước Áo, về Esztergom, và được chôn cất trong hầm mộ của Vương cung thánh đường. Nhân dịp viếng mộ của ngài vào năm 1991, Đức Gioan Phaolô II đã định nghĩa đó là “một chứng tá về lòng trung thành với Chúa Kitô, với Giáo hội và về tình yêu đất nước”. Ngày 12/2/2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công nhận những nhân đức anh hùng của Đức Hồng Y Mindszenty và do đó đã tuyên bố ngài là Đấng Đáng kính.
Thời hậu cộng sản
Sau khi chế độ Cộng sản sụp đổ ở Đông Âu, Giáo hội có thể tái hoạt động hoàn toàn nhờ luật mới về tự do tôn giáo được đưa ra vào năm 1990. Ngày 9/2/1990, Chính phủ Hungary nối lại quan hệ ngoại giao với Toà Thánh. Trong những năm tiếp theo, hai bên đã ký hai thỏa thuận quan trọng khác: một về hỗ trợ tôn giáo cho lực lượng vũ trang và cảnh sát biên phòng, được ký năm 1994, và một về tài trợ cho các hoạt động dịch vụ công cộng và các hoạt động tôn giáo thuần túy được thực hiện bởi Giáo hội Công giáo và về một số vấn đề về tài sản. Vấn đề tài sản được sửa đổi vào năm 2013 để điều chỉnh cho phù hợp với Hiến pháp mới năm 2011. Năm 1991, Quốc hội của Budapest cũng đã bỏ phiếu về luật hoàn trả tài sản của Giáo hội đã bị tịch thu sau chiến tranh, và năm sau đó về đề xuất tài trợ của Nhà nước cho các Giáo hội.
Trong bối cảnh mới này, Thánh Gioan Phaolô II đã viếng thăm Hungary hai lần: từ ngày 16 đến 20/8/1991 và 6 đến 7/9/1996. Cũng chính thánh nhân đã cử hành lễ tuyên phong chân phước đầu tiên cho một người Hungary sau khi cộng sản sụp đổ, đó là Đức cha Vilmos Apor, một Giám mục đã bị lính Xô Viết sát hại vào thứ Sáu Tuần Thánh năm 1945 (2/4). Các vị tử đạo khác dưới thời cộng sản được tuyên phong chân phước trong những năm sau đó.
Trong số các sự kiện nổi bật của Giáo hội Hungary trong thập niên đầu hậu cộng sản là việc cử hành Một Ngàn năm Hungary, trong năm 2000-2001, để kỷ niệm 1.000 năm Hungary được rửa tội bởi Thánh Stephano. Một sự kiện khác là Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Budapest ngày 12/9/2021 để kết thúc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52.
Những thách đố của Giáo hội Hungary
Sự sụp đổ của chế độ cộng sản đánh dấu sự tái sinh của Giáo hội ở Hungary. Với khoảng 6 triệu tín hữu Công giáo, chiếm khoảng 61% dân số, Giáo hội Công giáo Hungary rất năng động trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về giáo dục. Trong những năm này, nhiều dòng tu đã trở lại Hungary: hiện tại có hơn 100 dòng. Một điểm tích cực khác của Giáo hội Hungary là sự sống động của các phong trào giáo dân.
Tiến trình tục hoá
Trong số những thách đố chính mà các Giám mục Hungary lưu ý đó là tiến trình tục hoá đang diễn ra tại nước này. Trong dịp các Giám mục Hungary về Vatican vào năm 2008, Đức Biển Đức XVI đã lưu ý về điều này. Thực tế đầu tiên bị ảnh hưởng là gia đình. Đức Thánh Cha đã khẳng định, “ngay cả ở Hungary cũng đang trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng”. Điều này thể hiện qua việc suy giảm các cuộc hôn nhân, nhưng lại gia tăng các vụ ly hôn, việc sinh sản giảm sút và việc thực hành phá thai phổ biến (được hợp pháp từ năm 1956).
Gia đình
Và chính xác việc bảo vệ gia đình là một trong những trọng tâm mục vụ chính của Giáo hội Hungary. Giáo hội đã tranh đấu mạnh mẽ để chống lại tất cả các sáng kiến nhằm sửa đổi tình trạng pháp lý của hôn nhân tại Hungary, ví dụ như luật năm 2009 công nhận các kết hợp đồng tính.
Bảo vệ căn tính và gốc rễ Kitô
Các giám mục cũng đã nhiều lần lên tiếng, qua các tuyên bố và tài liệu mục vụ, về việc bảo vệ cội nguồn Kitô giáo của châu Âu và căn tính Công giáo của Hungary đang bị đe dọa bởi “chủ nghĩa tân ngoại giáo”, chủ nghĩa khoái lạc và “những ý tưởng tự do cấp tiến” đang tìm cách áp đặt “chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối” trên đất nước, như các ngài đã nêu lên trong một lá thư mục vụ vào năm 2009.
Năm 2011, chính phủ đã thông qua Hiến pháp mới có Lời tựa công nhận rõ ràng vị trí ưu việt của Kitô giáo trong lịch sử của đất nước, và xác định Kitô giáo là một “yếu tố cấu thành và thống nhất của quốc gia Hungary”. Sau đó Luật Cơ bản cam kết rằng Nhà nước bảo vệ theo hiến pháp sự sống của con người từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên (mặc dù việc phá thai vẫn được hợp pháp). Chính phủ cũng đưa ra luật giáo dục mới, có hiệu lực vào năm 2013, đưa các giờ học tôn giáo tùy chọn vào trong các trường công lập.
Hoạt động bác ái xã hội của Giáo hội Hungary
Hungary cũng quảng đại hoạt động trợ giúp các Kitô hữu bị bách hại trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Trung Đông. Nhiều sáng kiến được đưa ra để hỗ trợ cộng đồng Kitô hữu nạn nhân của cuộc xung đột Syria. Bên cạnh đó còn có sự trợ giúp cho những người tị nạn trong các trại tị nạn của khu vực, không phân biệt tín ngưỡng. Giáo hội quảng đại chào đón hàng ngàn người tị nạn Ucraina sau cuộc xâm lược của Nga vào ngày 24/2/2022.
Các vấn đề khác ở trung tâm mối quan tâm mục vụ của Giáo hội Hungary là sự nghèo đói và loại trừ xã hội. Đặc biệt, cần lưu ý trong bối cảnh này là sự dấn thân quan trọng của Giáo hội vì người Rom, những người chiếm gần 10% dân số Hungary. Trong nhiều năm, Giáo hội địa phương đã đi đầu trong việc hội nhập họ vào cơ cấu xã hội và đưa họ đến với nền giáo dục. Hơn nữa, Giáo hội đã thực hiện bản dịch đầu tiên gồm Kinh Thánh và nghi thức Thánh lễ sang tiếng Lovari, ngôn ngữ được người Rom sử dụng rộng rãi.
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
Diễn văn của Đức Thánh Cha trước các cấp Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn Hungary
Vatican News Tiếng Việt
Trong bài phát biểu đầu tiên của tại Budapest, trong cuộc gặp gỡ với chính quyền dân sự Hungary, Đức Thánh Cha cảnh báo về “con đường bất chính của thực dân ý thức hệ” và về tiếng gầm của chủ nghĩa dân tộc quên đi cuộc sống của các dân tộc. Ngài cũng cảnh báo chống lại “ý thức hệ về giới tính” và “quyền phá thai” và mời gọi chào đón những người chạy trốn chiến tranh và biến đổi khí hậu.
TÔNG DU HUNGARY
DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA
Gặp gỡ các Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn
Budapest, Đan viện cũ Cát Minh, 28/04/2023
Thưa bà Tổng Thống nước Cộng hoà
Thưa Thủ tướng
Thưa các Thành viên Chính phủ và Ngoại giao đoàn,
Thưa các nhà Chức trách và các Đại diện của xã hội dân sự,
Thưa quý vị!
Tôi thân ái chào quý vị và cảm ơn bà Tổng thống vì sự chào đón và những lời tốt đẹp của bà. Chính trị được sinh ra từ thành phố, polis, và từ ước mong cụ thể là sống cùng nhau, và đảm bảo các quyền và tôn trọng nghĩa vụ. Có ít thành phố giúp chúng ta suy tư về điều này như Budapest, không chỉ là một thủ đô thanh lịch và quan trọng, mà còn là một vị trí trung tâm trong lịch sử. Là chứng nhân củanhững bước ngoặt quan trọng trong lịch sử, nó được kêu gọi nhận lấy vai trò quan trọng trong hiện tại và tương lai: Ở đây, như một trong những nhà thơ vĩ đại của quý vị đã viết, “chúng ta được dịu dàng ôm lấy bởi dòng sông Danube, đó là quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta” (A. JÓZSEF, Al Danubio). Vì vậy, tôi muốn chia sẻ một số ý tưởng, lấy gợi ý từ Budapest như một thành phố của lịch sử, thành phố của những cây cầu và thành phố của các vị thánh.
- Thành phố của lịch sử.Thủ đô này có nguồn gốc cổ xưa, bằng chứng là di tích của thời đại Celtic và Roma. Tuy nhiên, vẻ tráng lệ của nó được nối kết với thời hiện đại, khi nó là thủ đô của Đế quốc Áo-Hung trong những thế kỷ hòa bình được biết đến như belle époque – giai đoạn xinh đẹp -, kéo dài từ những năm thành lập cho đến Thế chiến thứ nhất. Được sinh ra trong thời bình, nó cũng đã trải nghiệm những xung đột tàn khốc: không chỉ là những cuộc xâm lược của thời xa xưa mà cả thời gian gần đây hơn, các hành động bạo lực và áp bức do chế độ độc tài Quốc xã và Cộng sản gây ra. Làm sao chúng ta quên được biến cố năm 1956? Và trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng chục ngàn cư dân bị trục xuất, trong khi số dân gốc Do Thái ở lại bị nhốt trong ghetto và bị thảm sát hàng loạt. Tuy nhiên những ngày đó cũng đã có rất nhiều người “công chính” dũng cảm – tôi đang nghĩ đến Sứ thần Angelo Rotta – rất kiên cường và dấn thân rất nhiều để tái thiết, để ngày nay Budapest là một trong những thành phố châu Âu có tỷ lệ dân số Do Thái cao nhất, trung tâm của một đất nước hiểu rõ giá trị của tự do và sau khi đã trả giá đắt cho các chế độ độc tài, mang trong mình sứ mạng canh giữ kho tàng dân chủ và giấc mơ hòa bình.
Năm nay quý vị long trọng kỷ niệm ngày thành lập Budapest cách đây 150 năm, vào năm 1873, thông qua sự hợp nhất của ba thành phố Buda và Óbuda ở phía tây sông Danube và Pest ở bờ đối diện. Sự ra đời của thủ đô vĩ đại này ở trung tâm lục địa mời gọi chúng ta suy nghĩ về tiến trình thống nhất do Châu Âu thực hiện, trong đó Hungary đóng một vai trò quan trọng. Trong thời kỳ hậu chiến, Châu Âu, cùng với Liên Hiệp Quốc, thể hiện niềm hy vọng cao quý rằng, bằng cách cùng nhau hợp tác vì sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa các quốc gia, có thể tránh được những xung đột hơn nữa. Tuy nhiên, trong thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay, việc theo đuổi hết mình một chính trị cộng đồng và củng cố các mối quan hệ đa phương dường như là một ký ức đáng tiếc từ một quá khứ xa xôi. Chúng ta dường như đang chứng kiến buổi hoàng hôn đáng tiếc của giấc mơ hòa bình chung đó, khi những kẻ đơn độc trong chiến tranh giờ đây nắm quyền. Càng ngày, lòng nhiệt tình xây dựng một cộng đồng hòa bình và ổn định của các quốc gia dường như càng nguội lạnh, khi các vùng ảnh hưởng được vạch ra, sự khác biệt ngày càng rõ rệt, chủ nghĩa dân tộc đang gia tăng và các phán quyết và ngôn ngữ ngày càng khắc nghiệt hơn được sử dụng để đối đầu với các quốc gia khác. Ở cấp độ quốc tế, thậm chí có vẻ như chính trị phục vụ cho việc khuấy động cảm xúc nhiều hơn là giải quyết vấn đề, khi sự trưởng thành có được sau sự khủng khiếp của chiến tranh nhường chỗ cho việc đầu hàng trước một kiểu hiếu chiến của tuổi mới lớn. Hòa bình sẽ không bao giờ đến từ việc theo đuổi các lợi ích chiến lược cá nhân, mà chỉ đến từ các chính sách có khả năng nhìn ra bức tranh rộng lớn hơn, đến sự phát triển của mọi người: các chính sách quan tâm đến cá nhân, người nghèo và tương lai, chứ không phải chỉ đơn thuần là quyền lực, lợi nhuận và triển vọng hiện tại.
Vào thời điểm lịch sử này, châu Âu rất quan trọng, vì nhờ lịch sử của nó, nó đại diện cho ký ức của nhân loại; theo nghĩa này, nó được kêu gọi đảm nhận vai trò thích hợp của mình, đó là hiệp nhất những người xa cách nhau, chào đón các dân tộc khác và từ chối coi bất kỳ ai là kẻ thù vĩnh viễn. Do đó, điều quan trọng là phải phục hồi tinh thần châu Âu: sự phấn khích và tầm nhìn của những người sáng lập, những người là các chính khách có thể nhìn xa hơn thời đại của họ, vượt ra ngoài biên giới quốc gia và nhu cầu trước mắt, và tạo ra các hình thức ngoại giao có khả năng theo đuổi sự thống nhất, chứ không phải làm trầm trọng thêm sự chia rẽ. Tôi nghĩ về De Gasperi, tại một cuộc bàn tròn với Schuman và Adenauer, đã phát biểu: “Chính vì lợi ích của nó, chứ không phải là một cách tự đặt nó chống lại những người khác, mà chúng ta thấy trước một châu Âu thống nhất… Chúng ta đang làm việc vì sự thống nhất, không phải vì chia rẽ” (Tham luận tại Bàn tròn Châu Âu, Roma, 13 tháng 10 năm 1953). Và hơn nữa, Schuman đã nói: “Sự đóng góp mà một châu Âu có cấu trúc và sức sống có thể tạo ra cho nền văn minh là không thể thiếu để duy trì các mối quan hệ hòa bình”, vì – theo cách nói đáng nhớ của ông – “hòa bình thế giới không thể được đảm bảo trừ khi có những nỗ lực sáng tạo, tương xứng trước những nguy hiểm đang đe dọa nó” (Tuyên bố Schuman, ngày 9 tháng 5 năm 1950). Vào thời điểm hiện tại, những mối nguy hiểm đó thực sự rất nhiều; nhưng tôi tự hỏi, đặc biệt là khi nghĩ đến Ucraina đang bị chiến tranh tàn phá, những nỗ lực sáng tạo vì hòa bình đang ở đâu?
- Budapest là thành phố của những cây cầu. Nhìn từ trên cao, “hòn ngọc sông Danube” thể hiện nét độc đáo của nó ở những cây cầu nối liền nhiều phần của nó, phù hợp với hình dáng của dòng sông lớn. Sự hòa hợp với môi trường tự nhiên này khiến tôi ghi nhận mối quan tâm đáng khen ngợi đối với hệ sinh thái của quốc gia này. Những nhịp cầu nối kết những thực tại đa dạng đó cũng khiến chúng ta nghĩ đến tầm quan trọng của một sự thống nhất không giống như sự đồng nhất. Ở Budapest, điều này được thể hiện qua sự đa dạng đáng chú ý của hơn 20 quận tạo nên thành phố. Cũng vậy, Châu Âu của 27 nước được xây dựng để tạo cầu nối giữa các quốc gia, đòi hỏi sự đóng góp của tất cả, đồng thời không làm giảm đi tính độc đáo của mỗi quốc gia. Như một trong những người sáng lập đã tuyên bố: “Châu Âu sẽ tồn tại, nhưng sẽ không có gì trong những điều đã tạo nên vinh quang và hạnh phúc của mỗi quốc gia bị mất đi. Vì trong một xã hội lớn hơn, và một sự hòa hợp lớn hơn, các cá nhân sẽ có thể phát triển” (Tham luận, đã trích dẫn). Đó chính là sự thống nhất mà chúng ta cần: sự hài hòa của một tổng thể mà các bộ phận không bị đồng nhất một cách nhạt nhẽo nhưng được tích hợp hoàn toàn. Về vấn đề này, Hiến pháp Hungary đã tuyên bố một cách đúng đắn: “Tự do cá nhân chỉ có thể hoàn thiện khi hợp tác với những người khác”, và thêm nữa, “Chúng ta tin rằng văn hóa quốc gia của chúng ta là một đóng góp phong phú cho sự đa dạng của sự thống nhất châu Âu.”
Tôi nghĩ về một châu Âu không làm đồ thế chấp cho các bộ phận của nó, không trở thành con mồi của các hình thức chủ nghĩa dân túy tự quy chiếu cũng như không viện đến một thứ “chủ nghĩa siêu quốc gia” lỏng lẻo, nếu không muốn nói là nhạt nhẽo, “chủ nghĩa thượng tôn dân tộc” đang đánh mất tầm nhìn về cuộc sống của các dân tộc. Đây là con đường tai hại của những hình thức “thực dân hóa ý thức hệ” vốn sẽ hủy bỏ sự khác biệt, như trong trường hợp của cái gọi là ý thức hệ về giới tính, hoặc sẽ đặt trước thực tế cuộc sống những khái niệm giản lược về tự do, chẳng hạn bằng cách khoe khoang là tiến bộ một “quyền phá thai” vô nghĩa, điều vốn luôn là một thất bại bi thảm. Sẽ tốt hơn biết bao nếu xây dựng một châu Âu lấy con người và các dân tộc làm trung tâm, với các chính sách hiệu quả đối với việc sinh sản và gia đình – những chính sách được quốc gia này theo đuổi một cách quan tâm –, một châu Âu mà các quốc gia khác nhau sẽ tạo thành một gia đình duy nhất bảo vệ sự phát triển và tính độc đáo của mỗi thành viên. Cây cầu nổi tiếng nhất ở Budapest, cây cầu xích, giúp chúng ta hình dung ra kiểu châu Âu đó, vì nó bao gồm nhiều liên kết lớn và đa dạng tạo nên sự vững chắc và sức mạnh của chúng khi liên kết với nhau. Về vấn đề này, đức tin Kitô giáo có thể là một nguồn lực, và Hungary có thể đóng vai trò là “người xây cầu” bằng cách dựa trên đặc tính đại kết cụ thể của mình. Ở đây, các tôn giáo khác nhau chung sống với nhau mà không xích mích, hợp tác một cách tôn trọng và xây dựng. Tôi hết sức cảm động nghĩ đến Đan viện Pannonhalma, một trong những tượng đài thiêng liêng vĩ đại của đất nước này, một nơi cầu nguyện và chính nó là nhịp cầu của tình huynh đệ.
- Điều này dẫn tôi đến việc xem xét khía cạnh cuối cùng: Budapest như một thành phố của các vị thánh, như cũng được gợi ý bởi bức tranh mới được đặt trong hội trường này. Đương nhiên, chúng ta nghĩ đến Thánh Stêphanô, vị vua đầu tiên của Hungary, người đã sống vào thời kỳ mà các Kitô hữu ở Châu Âu hoàn toàn hiệp thông. Bức tượng của thánh nhân, bên trong Lâu đài Buda, nổi bật và bảo vệ thành phố, trong khi Vương cung thánh đường kính ngài ở trung tâm thủ đô, cùng với đền thờ của Esztergom, là công trình tôn giáo hùng vĩ nhất của đất nước. Lịch sử Hungary được đánh dấu bằng sự thánh thiện ngay từ đầu, không chỉ là sự thánh thiện của Nhà vua mà còn của cả gia đình ngài: vợ ngài là Chân phước Gisela và con trai ngài là Thánh Emeric. Thánh Emeric đã nhận được từ cha mình một số lời khuyên tạo thành một loại di chúc tinh thần cho dân tộc Magyar. Ở đó, chúng ta đọc được lời khuyên vẫn còn hợp thời: “Cha khuyên con không những tỏ lòng ưu ái với bà con họ hàng, người quyền thế và giàu có, láng giềng và đồng hương của mình, mà còn với người nước ngoài và tất cả những ai đến với con.” Thánh Stêphanô thể hiện tinh thần Kitô giáo đích thực khi tuyên bố rằng, “thực hành yêu thương dẫn đến hạnh phúc tột đỉnh”. Ngài nói thêm: “Hãy dịu dàng, để bạn không bao giờ chống lại công lý” (Những lời khuyên, X). Bằng cách này, ngài kết hợp sự thật và sự dịu dàng một cách không thể tách rời. Đây là một giáo huấn đức tin tuyệt vời: Các giá trị Kitô giáo không thể được đề xuất bằng sự cứng nhắc và khép kín, bởi vì chân lý của Chúa Kitô đòi hỏi sự hiền lành và dịu dàng, theo tinh thần của các Mối phúc. Ở đây, chúng ta thấy nguồn gốc của tính dịu dàng bẩm sinh của người Hungary được phản ánh trong một số thành ngữ hàng ngày, chẳng hạn như “jónak lenni jó” [thật tốt khi tốt lành] và “jobb adni mint kapni” [cho thì tốt hơn là nhận].
Đây là một sự khẳng định không chỉ về giá trị của một căn tính rõ ràng, mà còn về sự cần thiết cởi mở đối với người khác. Hiến pháp ghi nhận điều này khi tuyên bố: “Chúng tôi tôn trọng tự do và văn hóa của các dân tộc khác, và sẽ cố gắng hợp tác với mọi quốc gia trên thế giới.” Nó cũng tuyên bố rằng “các dân tộc sống cùng chúng tôi tạo thành một phần của cộng đồng chính trị Hungary và là các bộ phận cấu thành của Nhà nước,” đồng thời cam kết “thúc đẩy và bảo vệ… ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc sống ở Hungary.” Tinh thần này thực sự mang tính Phúc Âm, và tương phản với một số khuynh hướng, đôi khi được đề xuất nhân danh các truyền thống bản địa và thậm chí là đức tin, để co cụm vào chính mình.
Văn bản của Hiến pháp, bằng một cụm từ rõ ràng và chính xác, thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, tiếp tục khẳng định: “Chúng ta có nghĩa vụ chung là bảo vệ những người dễ bị tổn thương và người nghèo.” Chúng ta được nhắc nhở về lịch sử lâu đời của sự thánh thiện của Hungary, được minh chứng bởi nhiều nơi thờ phượng ở thủ đô này. Từ vị vua đầu tiên, người đặt nền móng cho đời sống cộng đồng, chúng ta chuyển sang một công chúa, người đã nâng những bức tường của tòa nhà đó trở nên vững chắc và thuần khiết hơn. Danh tiếng của Thánh Elizabeth đã lan rộng khắp thế giới. Người con gái này của đất nước quý vị đã qua đời ở tuổi hai mươi bốn sau khi từ bỏ tất cả tài sản của mình và phân phát mọi thứ cho người nghèo. Cuối cùng, thánh nhân đã cống hiến hết mình và phục vụ những người bệnh trong nhà tế bần mà ngài đã xây dựng. Ngài vẫn là một chứng nhân nổi bật của Tin Mừng.
Thưa các nhà chức trách, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn về việc thúc đẩy các công việc bác ái và giáo dục được truyền cảm hứng từ những giá trị này, mà cộng đồng Công giáo địa phương tích cực tham gia, cũng như sự hỗ trợ cụ thể của quý vị đối với nhiều Kitô hữu trên toàn thế giới đang gặp khó khăn và nghịch cảnh, đặc biệt là ở Syria và Libăng. Sự hợp tác giữa Nhà nước và Giáo hội đã tỏ ra hiệu quả, luôn tôn trọng sự phân biệt cẩn thận giữa các lĩnh vực riêng của nhau. Điều quan trọng là tất cả các Kitô hữu phải ghi nhớ điều này, lấy Tin Mừng làm điểm quy chiếu, tự do đón nhận những giáo huấn giải phóng của Chúa Giêsu mà không nhượng bộ một loại “chủ nghĩa hợp tác” với một nền chính trị quyền lực. Điều này đòi hỏi một ý thức lành mạnh về “tính thế tục” không suy thoái thành “chủ nghĩa tục hoá” phổ biến vốn dị ứng với bất kỳ khía cạnh nào của sự thánh thiêng, nhưng lại sẵn sàng hy sinh bản thân trước bàn thờ của lợi nhuận. Những người tự xưng là Kitô hữu, cùng với các chứng nhân đức tin, được kêu gọi làm chứng và hợp lực với mọi người để vun trồng một chủ nghĩa nhân văn được gợi hứng bởi Phúc Âm và đi theo hai con đường cơ bản: nhìn nhận mình là con cái yêu dấu của Thiên Chúa Cha và yêu thương nhau như anh chị em một nhà.
Về vấn đề này, Thánh Stêphanô đã để lại cho con trai ngài những lời nói hết sức tuyệt vời về tình huynh đệ khi nói với con của ngài rằng những người đến Hungary, với các ngôn ngữ và phong tục khác nhau, sẽ “tô điểm cho đất nước.” Thật vậy, như ngài đã viết, “một quốc gia chỉ có một ngôn ngữ và phong tục thì yếu ớt và mong manh; vì lý do này, cha khuyên con hãy chào đón những người lạ với lòng nhân từ và tôn trọng họ, để họ thích ở với con hơn là ở nơi khác” (Các lời khuyên, VI). Vấn đề chấp nhận và chào đón là một vấn đề nóng bỏng trong thời đại của chúng ta, và chắc chắn là phức tạp. Tuy nhiên, đối với những người là Kitô hữu, thái độ cơ bản của chúng ta không thể khác với thái độ mà thánh Stêphanô đã khuyên con trai của ngài, sau khi học được điều đó từ Chúa Giêsu, Đấng đã đồng hóa mình với khách lạ cần được tiếp đón (x. Mt 25,35). Khi chúng ta nghĩ về Chúa Kitô hiện diện trong rất nhiều anh chị em của chúng ta, những người đang chạy trốn cách tuyệt vọng khỏi các cuộc xung đột, nghèo đói và biến đổi khí hậu, chúng ta cảm thấy buộc phải đương đầu với vấn đề mà không được bào chữa và trì hoãn. Vấn đề cần phải được cùng nhau đối diện, với tư cách là một cộng đồng, nhất là bởi vì, trong tình hình hiện tại, sớm hay muộn, tất cả chúng ta sẽ cảm nhận được những tác động của nó. Khi đó, với tư cách là Châu Âu, điều cấp bách là phải hành động để tạo ra các hành lang pháp lý và an toàn cũng như các quy trình đã được thiết lập để đáp ứng một thách thức mang tính thời đại không thể tránh khỏi và cần được thừa nhận, nhằm chuẩn bị cho một tương lai mà nếu không được chia sẻ thì sẽ không tồn tại. Thách thức này đặc biệt đòi hỏi sự đáp lời từ phía những người là môn đệ của Chúa Giêsu và muốn noi gương các chứng nhân của Tin Mừng.
Không thể kể hết tất cả các vị giải tội vĩ đại của đức tin Pannonia Sacra, nhưng ở đây ít nhất tôi muốn đề cập đến Thánh Ladislas và Thánh Margaret, và nhắc lại một vài nhân vật vĩ đại của thế kỷ trước, chẳng hạn như Đức Hồng Y József Mindszenty, Chân phước Vilmos Apor và Chân phước Zoltán Meszlényi, các giám mục và các vị tử đạo, và Chân phước László Battyány-Strattmann. Cùng với rất nhiều người chính trực thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau, họ là những người cha và người mẹ của đất nước quý vị. Tôi mong muốn tín thác cho họ tương lai của quốc gia này, rất thân yêu đối với tôi. Tôi cảm ơn quý vị đã lắng nghe những suy tư mà tôi đã chia sẻ với quý vị, và tôi đảm bảo với quý vị về sự gần gũi và những lời cầu nguyện của tôi dành cho tất cả người dân Hungary, đặc biệt tôi nghĩ đến những người sống ở hải ngoại và tất cả những người mà tôi đã gặp trong cuộc đời và những người đã rất tốt với tôi. Isten, áldd meg a magyart” [Xin Chúa chúc lành cho dân tộc Hungary!]
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
Đức Thánh Cha thăm người nghèo và tị nạn
DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA
TRONG BUỔI GẶP NGƯỜI NGHÈO VÀ NGƯỜI TỊ NẠN
TẠI NHÀ THỜ THÁNH ELIZABETH CỦA HUNGARY
Vatican News Tiếng Việt
– Trong buổi gặp gỡ người nghèo và người tị nạn tại Nhà thờ thánh Elisabeth của Hungary, Đức Thánh Cha nhấn mạnh, đức tin đích thực là đức tin chấp nhận thách đố, rủi ro, dẫn chúng ta đến gặp gỡ người nghèo và bằng chứng tá đời sống, ngôn ngữ bác ái. Ngài nhắc mọi người nhớ rằng, trong khi thực thi bác ái phải quan tâm đến con người toàn diện, và ước mong Giáo hội nói thông thạo ngôn ngữ bác ái.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Tôi rất vui được ở đây với anh chị em. Cám ơn Đức Tổng Giám Mục Antal vì những lời chào mừng và nhắc lại sự phục vụ quảng đại mà Giáo hội Hungary thực hiện cho và với người nghèo. Những người túng thiếu – chúng ta đừng bao giờ quên – là trung tâm của Tin Mừng, vì Chúa Giêsu đã đến giữa chúng ta “để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18). Vì thế, người nghèo đặt ra cho chúng ta một thách đố lớn: Đức tin mà chúng ta tuyên xưng không bị giam cầm bởi một lòng đạo đức xa rời cuộc sống, một thái độ “ích kỷ tâm linh”, một nền linh đạo do chính tôi tạo ra nhằm duy trì sự yên tĩnh nội tâm và tự mãn cho chính tôi. Đức tin đích thực là đức tin chấp nhận thách đố, rủi ro, dẫn chúng ta đến gặp gỡ người nghèo và bằng chứng tá đời sống, nói ngôn ngữ bác ái. Như Thánh Phaolô khẳng định, chúng ta có thể nói nhiều thứ tiếng, rất khôn ngoan và giàu có, nhưng nếu không có đức ái, chúng ta chẳng có gì, chúng ta chẳng là gì (1Cr 13,1-13).
Ngôn ngữ bác ái. Đó là ngôn ngữ được nói bởi Thánh Elizabeth, vị thánh rất được người Hungary sùng kính và yêu mến. Khi đến đây sáng nay, tôi thấy bức tượng Thánh nữ ở quảng trường, với đế tượng diễn tả ngài, trong khi nhận dây thừng thắt lưng của dòng Phanxicô, đồng thời ngài đưa nước cho người nghèo đang khát. Đây là một hình ảnh đẹp của đức tin: những ai “gắn bó với Thiên Chúa”, như Thánh Phanxicô Assisi, người đã truyền cảm hứng cho Thánh Elizabeth, thì mở lòng bác ái với người nghèo. Vì “nếu ai đó nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ và ghét anh chị em mình, người đó là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Thánh Elizabeth, con gái của một vị vua, đã lớn lên trong sự giàu sang của cuộc sống cung đình, trong một môi trường sang trọng và đặc quyền. Tuy nhiên, một khi đã được chạm đến và biến đổi nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Thánh nữ nhanh chóng cảm thấy khước từ sự giàu có và phù vân của thế gian, tìm cách từ bỏ chúng và chăm sóc những người túng thiếu. Vì vậy, ngài không chỉ bán của cải nhưng còn dành cả cuộc đời để phục vụ người nghèo, người phung cùi và người bệnh, tận tình chăm sóc họ, thậm chí còn vác họ trên vai. Đây là ngôn ngữ bác ái.
Brigitta đã nói với chúng ta về điều đó, cám ơn Brigitta vì lời chứng này. Cô đã kể cho chúng ta nghe về nhiều thiếu thốn, khó khăn và vất vả, cố gắng vượt qua để con cái không bị đói. Rồi trong lúc cùng cực, Chúa đã đến gặp gỡ nâng đỡ cô. Nhưng – chúng ta đã nghe lời chứng của Brigitta – Chúa đã can thiệp như thế nào? Đấng lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, “xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” và “nâng người sa ngã” (Tv 146, 7-8), hầu như không bao giờ đến giải quyết các vấn đề của chúng ta từ trên cao, nhưng đến gần với vòng tay yêu thương dịu dàng và khơi dậy lòng trắc ẩn nơi những anh chị em nhận ra điều đó và không thờ ơ. Brigitta nói với chúng ta: cô đã có thể cảm nghiệm được sự gần gũi của Chúa nhờ Giáo hội Công giáo Hy Lạp, nhờ nhiều người đã làm hết sức để giúp đỡ, khuyến khích cô, tìm cho cô việc làm và hỗ trợ cô về nhu cầu vật chất cũng như trong hành trình đức tin. Đây là chứng tá mà chúng ta cần phải có: thể hiện lòng trắc ẩn đối với tất cả mọi người, đặc biệt những người đang sống trong nghèo đói, bệnh tật và đau đớn. Chúng ta cần một Giáo hội thông thạo ngôn ngữ bác ái, ngôn ngữ phổ quát mà mọi người đều có thể nghe và hiểu, kể cả những người ở xa nhất, kể cả những người không tin.
Và về vấn đề này, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn Giáo hội Hungary vì sự phục vụ bác ái một cách quảng đại và rộng khắp. Anh chị em đã tạo ra một mạng lưới kết nối nhiều nhân viên mục vụ, nhiều tình nguyện viên, Caritas giáo xứ và giáo phận, cũng như các nhóm cầu nguyện, các cộng đoàn tín hữu, các tổ chức thuộc các hệ phái khác, nhưng hiệp nhất trong tình hiệp thông đại kết phát sinh từ đức ái. Và cám ơn anh chị em về cách anh chị em đã chào đón – không chỉ với lòng quảng đại nhưng còn với sự nhiệt tình – rất nhiều người tị nạn từ Ucraina. Tôi xúc động lắng nghe lời chứng của Oleg và gia đình anh ấy; “hành trình hướng đến tương lai” của họ – một tương lai khác, khác xa nỗi kinh hoàng của chiến tranh – thực sự bắt đầu bằng một “hành trình của ký ức”, bởi vì Oleg nhớ lại sự chào đón nồng nhiệt mà anh nhận được ở Hungary nhiều năm trước khi anh đến làm đầu bếp ở đây. Ký ức về trải nghiệm đó đã khuyến khích anh đưa gia đình đến Budapest, nơi anh nhận được tiếp đón với lòng hiếu khách quảng đại. Ký ức về tình thương nhận được thắp lên hy vọng, khích lệ con người dấn thân vào những chặng đường đời mới. Thật vậy, ngay cả trong đau đớn và khổ sở, một khi chúng ta đã nhận được sự xoa dịu tình thương, chúng ta sẽ có can đảm để tiến bước: đó là sức mạnh giúp chúng ta tin rằng tất cả không mất đi và một tương lai khác là có thể. Tình yêu mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta và Người truyền cho chúng ta phải sống như thế giúp loại bỏ khỏi xã hội, khỏi các thành phố và nơi chúng ta đang sống, cái xấu của sự thờ ơ và ích kỷ, và thắp lại niềm hy vọng cho một thế giới mới, công bằng và huynh đệ hơn, nơi mọi người có thể cảm thấy như ở nhà.
Thật đáng buồn là nhiều người, ngay cả ở đây, thực sự là những người vô gia cư. Nhiều anh chị em dễ bị tổn thương – sống cô đơn, vật lộn với nhiều loại khuyết tật về thể chất và tinh thần, bị hủy hoại bởi chất độc của ma túy, được ra tù hoặc bị bỏ rơi vì già yếu – đang chịu cảnh nghèo đói trầm trọng về thể chất, văn hoá và tinh thần; họ không có một mái nhà và không có nhà để ở. Zoltàn và vợ của anh là Anna đã cho chúng ta lời chứng của họ về vết thương lớn này: cám ơn vì những lời của anh chị em. Và cám ơn anh chị em đã đáp lại sự thúc giục đó của Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt anh chị em, với lòng can đảm và quảng đại, xây dựng một trung tâm chào đón những người vô gia cư. Tôi rất xúc động khi biết rằng, cùng với những nhu cầu vật chất, anh chị em chú ý đến lịch sử và phẩm giá bị tổn thương, quan tâm đến sự cô đơn, cuộc đấu tranh của họ để họ cảm thấy được yêu thương và chào đón trên thế giới. Anna nói “chính Chúa Giêsu, Lời hằng sống, chữa lành tâm hồn và các mối quan hệ của họ, bởi vì con người được xây dựng từ nội tâm”; nghĩa là, một khi họ nhận ra rằng trong mắt Chúa họ được yêu thương và chúc lành, họ được tái sinh. Điều này áp dụng cho toàn thể Giáo Hội: cung cấp cơm bánh cho no bụng thì chưa đủ, còn phải nuôi tâm hồn con người nữa! Bác ái không chỉ là sự giúp đỡ về mặt vật chất và xã hội, nhưng quan tâm đến con người toàn diện và mong muốn giúp họ đứng vững trở lại bằng tình yêu của Chúa Giêsu: một tình yêu giúp lấy lại vẻ đẹp và phẩm giá.
Thực hành bác ái có nghĩa là can đảm nhìn vào mắt người khác. Bạn không thể trong lúc đang giúp một người lại nhìn đi chỗ khác. Để thực thi bác ái chúng ta phải có can đảm để chạm vào. Bạn không thể làm bác ái từ xa. Khi chạm và nhìn vào người chúng ta đang giúp đỡ, chúng ta bắt đầu một hành trình với người thiếu thốn. Chính người đó sẽ giúp chúng ta hiểu chúng ta rất cần cái nhìn và đôi tay của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, tôi khuyến khích anh chị em hãy luôn nói ngôn ngữ bác ái. Trong cuộc đời của Thánh Elizabeth, người ta kể rằng Chúa đã từng biến bánh mà thánh nữ mang đến cho người nghèo thành hoa hồng. Đối với anh chị em cũng vậy: khi anh chị em dấn thân mang cơm bánh cho người nghèo đói, Chúa làm cho niềm vui nở hoa và tỏa hương thơm cho sự hiện diện của anh chị em bằng tình yêu mà anh chị em trao ban. Tôi cầu chúc anh chị em luôn mang hương thơm bác ái vào Giáo hội và đất nước của anh chị em. Và xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi.
Nguồn: vaticannews.va/vi